Lịch sử dân chủ
hiện đại có thể được coi bắt đầu vào năm 1828, với việc Mỹ mở rộng quyền bầu cử
cho tất cả người đàn ông da trắng. Từ đó đến nay, dân chủ đã phát triển và mở rộng
ra toàn cầu, trở thành hệ thống chính trị chi phối trên thế giới. Tuy nhiên, sự
phát triển của dân chủ không phải bằng phẳng, mà trải qua nhiều thăng trầm, có
những lúc dân chủ bị suy thoái rất nghiêm trọng như biểu đồ bên dưới cho thấy.
Biểu đồ thay đổi số lượng nền dân
chủ từ 1800 - 2010
Có nhiều cách để
mô tả sự phát triển trên của dân chủ, tuy nhiên, cách nổi tiếng nhất được đưa
ra bởi Samuel
Huntington trong tác phẩm Làn sóng Dân chủ hóa Thứ ba, trong
đó, ông mô tả sự phát triển của dân chủ hiện đại như các làn sóng. Nếu ta định
nghĩa: Dân chủ hóa là quá trình chuyển đổi
từ độc tài sang dân chủ, thì có hai dạng làn sóng như sau:
-
Làn
sóng dân chủ hóa là một giai đoạn trong đó số lượng các
nước chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ lớn hơn nhiều so với số lượng các nước
chuyển đổi theo hướng ngược lại từ dân chủ sang độc tài.
-
Làn
sóng đảo ngược là một giai đoạn trong đó số lượng các
nước dân chủ bị sụp đổ trở lại các nước độc tài lớn hơn nhiều so với các nước
chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ.
Dựa trên ý tưởng làn sóng trên, Huntington phân chia lịch sử dân chủ (hóa) thành các làn sóng như sau:
Các làn sóng
|
năm
|
Làn sóng dân chủ hóa
thứ nhất
|
1828-1926
|
Làn sóng đảo ngược thứ
nhất
|
1922-1942
|
Làn sóng dân chủ hóa
thứ hai
|
1943-1962
|
Làn sóng đảo ngược thứ
hai
|
1958-1975
|
Làn sóng dân chủ hóa
thứ ba
|
1974-2005
|
Làn sóng đảo ngược thứ
ba?
|
2005-nay
|
Biểu đồ các làn sóng dân chủ hóa và
làn sóng đảo ngược (theo Huntington tính đến năm 1991)
Cần lưu ý rằng,
Huntington viết tác phẩm Làn sóng Dân chủ
hóa Thứ ba vào năm 1991, ngay sau khi Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ. Sau đó làn sóng thứ ba vẫn tiếp tục
phát triển, lên đến đỉnh điểm vào năm 2005; và được theo sau bởi một đợt suy
thoại nhẹ kéo dài từ đó cho đến nay. Những số liệu về làn sóng thứ ba từ năm 1991,
cũng như đợt suy thoái sau đó cho đến nay (2018) được bổ xung bởi các nghiên cứu
của Larry Diamond và nhiều học giả khác.
CÁC
ĐỢT SÓNG DÂN CHỦ HÓA
LÀN
SÓNG DÂN CHỦ HÓA THỨ NHẤT
Làn sóng này diễn
ra trong khoảng thời gian 100 năm, từ 1828 đến 1926, với 33 nước chuyển đổi
thành nền dân chủ.
-
Các cuộc Cách mạng tại Anh
(1688), Mỹ
(1776) và Pháp
(1789) đã dẫn đến việc các thiết chế dân chủ dần được thiết lập tại các quốc
gia này. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tỷ lệ công dân được cấp quyền bầu cử rất
nhỏ; do các điều kiện về sở hữu tài sản, giới tính và sắc tộc, chỉ một thiểu số
đàn ông da trắng có của mới có quyền bầu cử.
-
Sau đó, quyền bầu cử dần được mở rộng. Dựa
trên hai tiêu chí mà Jonathan Sunshine đưa ra về điều kiện tối thiểu mà một nước
được coi là dân chủ trong điều kiện thế kỷ 19 là: 1) 50% nam giới có quyền bầu
cử, và 2) người lãnh đạo phải được lựa chọn thông qua các cuộc bầu cử định kì,
có thể coi dân chủ hiện đại xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ năm 1828, khi toàn bộ
nam giới được trao quyền bầu cử.
-
Sau đó dân chủ lan rộng sang các quốc
gia khác như Thụy Sỹ, Thụy Điển, Phần Lan, Úc, Canada, và một số quốc gia Mỹ
Latin như Argentina, Brazil, Uruguay. Sau Chiến tranh Thế giới I, cũng như sự sụp
đổ của các đế quốc Romanov, Hapsburg, và Ottoman, các quốc gia thất trận như Đức,
cũng như các quốc gia mới hình thành từ sự sụp đổ của các đế quốc trên như
Hungary, Balan, các nước Baltic trở thành các nước dân chủ.
Làn
sóng đảo ngược thứ nhất
Làn sóng dân chủ
hóa thứ nhất được theo sau bởi một làn sóng đảo ngược kéo dài trong khoảng thời
gian 1922-1942. Trong làn sóng đảo ngược này, số lượng các quốc gia dân chủ tụt
giảm từ 33 trước đó xuống còn 11.
-
Làn sóng đảo ngược này bắt đầu vào năm
1922, với việc Mussolini
lên nắm quyền ở Ý, xóa bỏ chế độ dân chủ và thiết lập chế độ Phát xít. Do tác động
của Đại suy thoái (1929-1933), cũng như sự nổi lên của các khuynh hướng Phát
xít, Cộng sản và quân phiệt, một loạt các nền dân chủ bị sụp đổ.
-
Trong số 17 quốc gia áp dụng dân chủ
trong khoảng thời gian từ 1910 – 1931 thì chỉ có bốn quốc gia tiếp tục duy trì
được định chế này. Các cuộc đảo chính quân sự diễn ra ở Lithuania, Balan,
Latvia, Estonia, Hilap (1936), Bồ Đào Nha (1926), Brazil, Argentina (1930), Tây
Ban Nha (1939), và Đức (1933) với việc Hitler
lên nắm quyền.
LÀN
SÓNG DÂN CHỦ HÓA THỨ HAI
Làn sóng này diễn
ra trong khoảng thời gian 1943-1962. Trong thời gian này, số lượng các quốc gia
dân chủ tăng từ 11 lên 52.
-
Sau khi kết thúc Chiến tranh Thế hai II,
với sự thất bại của Phát xít Đức, Ý và Nhật, các nước Đồng minh đã thúc đẩy thể
chế dân chủ ở các nước mà nó chiếm đóng như Tây Đức, Ý, Áo, Nhật, và Hàn Quốc. Nền
dân chủ cũng được tái lập hoặc ra đời ở nhiều nước Mỹ latin như Argentina, Uruguay,
Colombia, Peru, và Venezuela. Bên cạnh đó, sau chiến tranh, chủ nghĩa thực dân
cũng sụp đổ (chủ yếu Châu Á), dẫn đến một loạt quốc gia mới ra đời và nhiều
trong số đó đã áp dụng thể chế dân chủ như Ấn Độ, Philippines, Sri lanka.
-
Mặc dù trong giai đoạn này có sự nổi lên
và bành chướng của Chủ nghĩa Cộng sản, song số lượng nền dân chủ vẫn tăng lên
đáng kể.
Làn
sóng đảo ngược thứ hai
Làn sóng đảo ngược
này diễn ra trong khoảng thời gian 1958-1975. Trong khoảng thời gian này, số lượng
các quốc gia dân chủ giảm từ 52 xuống còn 30.
-
Do những xung đột về lợi ích kinh tế, một
loạt cuộc đảo chính quân sự đã nổ ra ở Mỹ Latin như Peru (1962), Brazil,
Bolivia (1964), Argentina (1966), Ecuador (1972). Vào năm 1960, 9 trong số 10
nước Mỹ latin là dân chủ, song đến năm 1973, chỉ còn lại hai quốc gia là
Venezuela và Colombia.
-
Tại Châu Á, các chế độ dân chủ non trẻ tại
các quốc gia mới giành được độc lập cũng nhanh chóng được thay thế bởi các chế
độ độc tài quân sự như Pakistan (1958) với cuộc đảo chính của tướng Ayub Khan,
Hàn Quốc (1961) với cuộc đảo chính của tướng Park Chung Hee, Indonesia (1965) với
sự lên nắm quyền của tướng Suharto, Philippines (1972) với việc thiết quân luật
của tổng thống Marcos.
-
Trong khi đó, trong như năm 1960 tại
Châu Phi, một loạt các quốc gia giành được độc lập, một số nước áp dụng dân chủ
như Jamaica (1962), Malta (1962), Mauritius (1968). Tuy nhiên, đa số trong số
đó, 33 nước, đã áp dụng các chế độ chuyên chế, khiến cho đây là giai đoạn gia
tăng nhiều nhất số lượng các chế độ chuyên chế trong lịch sử nhân loại.
LÀN
SÓNG DÂN CHỦ HÓA THỨ BA
Làn sóng này diễn
ra trong khoảng thời gian 1974-2005. Trong giai đoạn này, số lượng các quốc gia
dân chủ tăng từ 30 lên 121.
-
Làn sóng dân chủ hóa thứ ba bắt đầu với
cuộc đảo chính quân sự lật đổ chế độ độc tài của Marcello Caetano tại Bồ Đào
Nha năm 1974. Sau một giai đoạn khá bất ổn do sự tranh giành của các phe phái
thì năm 1976, cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức, và Bồ Đào Nha tuyên bố thành lập
chế độ dân chủ đại nghị.
-
Sau Bồ Đào Nha, chế độ dân chủ lần lượt
được thiết lập lại tại các quốc gia Nam Âu khác như Hi lạp (1974) sau sự sụp đổ
của chính quyền quân sự, và Tây Ban Nha (1977) sau cái chết của nhà độc tài
Franco.
Sau đó làn sóng
dân chủ hóa lan rộng sang các quốc gia ở Mỹ Latin, Châu Á, và Đông Âu.
-
Tại Mỹ latin, một loạt quốc gia chịu chế
độ độc tài quân sự trong làn sóng đảo ngược thứ hai đã quay trở lại với chế độ
dân chủ như Peru(1979), Bolivia (1982), Argentina (1983), Uruguay (1984).
-
Tại Châu Á, năm 1986, người dân đã nổi dậy
lật đổ chế độ độc tài của Marcos; trong khi đó phong trào dân chủ mạnh mẽ của
người dân Hàn Quốc những năm 1980 đã buộc chính quyền quân sự cải cách và chấp
nhận chuyển sang chế độ dân chủ vào năm 1987; điều tương tự với Đài Loan.
-
Đỉnh điểm của làn sóng dân chủ hóa thứ
ba là sự sụp đổ của Liên Xô và các quốc gia cộng sản Đông Âu, các quốc gia này
sau đó áp dụng thể chế dân chủ.
Nhìn chung, làn
sóng dân chủ hóa thứ ba đã khiến cho dân chủ bùng nổ trên toàn cầu, thể hiện ở
một số khía cạnh sau:
-
Trong khoảng 30 năm, số lượng các quốc gia dân chủ tăng lên liên
tục.
o
Năm 1974, chưa đến 1/3 số quốc gia trên
thế giới là dân chủ
o
Năm 1984, con số này là 59 (chiếm 36%)
o
Năm 1990, là 76 (46%)
o
Khi bức tường Berlin sụp đổ
§ Năm
1991, là 88 (48%)
§ Năm
1995, là 112 (58%)
§ Năm
1999, là 118 (61.5%)
§ Năm
2005, là 121 (62.5%)
-
Trong số 121 nền dân chủ vào năm 2005,
thì 2/3 (77 nước) là các chế độ dân chủ tự
do. Đây là một điều rất quan trọng, vì các chế độ dân chủ tự do là cốt lõi
của hệ thống dân chủ, nó rất bên vững, không như các chế độ dân chủ bầu cử vốn rất
dễ sụp đổ. Sự gia tăng này của các nền dân chủ tự do cho thấy nền tẳng vững chắc
hơn của hệ thống dân chủ toàn cầu.
-
Và lần đầu tiên, từ năm 1990, số lượng các nước dân chủ vượt qua số lượng
các nước độc tài, trở thành hệ thống chi phối.
-
Dân
chủ cũng hiện diện khắp các châu lục
o
100% các nước Tây Âu và các nước nói tiếng
Anh (Eur/Anglo) là dân chủ
o
28/33 nước Mỹ latin (LAC) là dân chủ
(85%)
o
17/29 nước Đông Âu và Liên Xô cũ (EE+FSU)
là dân chủ (59%)
o
10/25 nước Châu Á (Asia) là dân chủ
(40%)
o
17/49 nước Châu Phi hạ Sahara (SS
Africa) là dân chủ (35%)
o
3/19 nước Trung đông (MENA) là dân chủ.
Phân bố dân chủ ở các khu vực năm
2013
(Xám: Dân chủ bầu cử; xanh: dân chủ tự do)
Làn
sóng đảo ngược thứ ba?
Sau khi dân chủ
lên đến đỉnh điểm vào năm 2005, thì từ đó đến nay tình hình dân chủ như thế nào.
Chi tiết về dân chủ trong giai đoạn này sẽ được trình bày trong bài kế tiếp: Suy thoái Dân chủ và triển vọng hiện nay.
Tài
liệu đọc thêm
Tài
liệu tham khảo
-
Samuel Huntington. Đợt sóng dân chủ hóa thứ ba. Trần Lương Ngọc dịch
-
Larry Diamond. Tinh thần dân chủ. Phạm Nguyên Trường dịch
-
Jørgen Møller and Svend-Erik Skaaning. Democracy and Democratization in Comparative
Perspective