Hiển thị các bài đăng có nhãn Rawls. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Rawls. Hiển thị tất cả bài đăng

Một lý thuyết về công bằng

Giới thiệu
John Rawls (1921 – 2002), triết gia người Mỹ, là một trong những triết gia chính trị quan trọng nhất trong mấy trăm năm qua. Ông bảo vệ các ý tưởng dân chủ tự do trong các tác phẩm Một lý thuyết về công bằng [A Theory of Justice] (các trích đoạn được rút ra từ tác phẩm này) và Chủ nghĩa tự do chính trị [Political Liberalsim].
Trong các tác phẩm này Rawls đi tìm kiếm các nguyên tắc công bằng làm cơ sở để quản trị xã hội. Ông cho rằng chúng ta sẽ chấp nhận các nguyên tắc mà tất cả chúng ta đồng ý khi ở dưới các điều kiện giả tưởng nào đó (“vị trí ban đầu”) [the original position]. Tưởng tượng chúng ta là những người tự do và duy lý nhưng không biết vị trí của chúng ta trong xã hội (giàu hay nghèo, da trắng hay da đen, nam hay nữ…). Sự giới hạn về nhận thức này để đảm bảo sự vô tư; tức là, nếu chúng ta không biết chủng tộc của mình, thì chúng ta không thể vận động, lôi kéo người khác ủng hộ cho các nguyên tắc mang lại thuận lợi cho chủng tộc của mình. Các nguyên tắc công bằng là các nguyên tắc mà chúng ta đồng ý dưới những điều kiện này. Rawls cho rằng, trong vị trí ban đầu chúng ta sẽ đồng ý với “nguyên tắc tự do bình đẳng” [equal liberty principle], tức là nguyên tắc đảm bảo các quyền tự do như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận…bình đẳng cho mọi người. Chúng ta cũng sẽ đồng ý với “nguyên tắc khác biệt”[difference principle], tức là nguyên tắc này thúc đẩy sự phân phối bình đẳng sự thịnh vượng, ngoại trừ những sự phân phối bất bình đẳng mà mang lại lợi ích cho mọi người (bao gồm những người có điều kiện ít thuận lợi hơn trong xã hội) và cơ hội rộng mở đối với mọi người trên cơ sở bình đẳng.
Khi bạn đọc các trích đoạn, và hỏi chính bạn liệu vị trí ban đầu có là một khuôn khổ hợp lý để lựa chọn các nguyên tắc công bằng hay không? Hai nguyên tắc công bằng của Rawls có thuyết phục đối với bạn? Liệu chúng có là các nguyên tắc mà chúng ta sẽ lựa chọn dưới các điều kiện như Rawls miêu tả?
Vai trò của công bằng
Công bằng là đức hạnh đầu tiên của các thiết chế xã hội, cũng như chân lý đối với các hệ thống tư tưởng. Một lý thuyết dù vẻ ngoài hay ho và hợp lý đến đâu cũng phải bị bác bỏ hoặc xem xét lại nếu nó không đúng; tương tự như vậy với luật pháp và các thiết chế xã hội dù chúng có được xắp đặt tốt và hữu hiệu đến đâu nhưng vẫn cần phải cải cách hoặc hủy bỏ nếu chúng không công bằng. Mỗi người sở hữu những quyền không thể xâm phạm trên nền tảng công bằng mà ngay cả sự thịnh vượng của toàn bộ xã hội cũng không thể xâm phạm. Vì lý do này mà sự công bằng phủ nhận quan điểm cho rằng sự mất tự do của một số để tạo ra một lợi ích lớn hơn cho một số khác là điều đúng đắn. Vì là đức hạnh đầu tiên của các hoạt động của con người, chân lý và công bằng là không thể thỏa hiệp.
Những lập luận này dường như diễn tả một sự thuyết phục mang tính trực giác về địa vị đứng đầu của công bằng. Không nghi ngờ gì nữa chúng diễn tả quá thuyết phục. Và tôi muốn tìm hiểu xem liệu những lập luận này hay những lập luận tương tự với chúng có căn cứ hay không, và nếu có làm sao để giải thích. Với mục đích này, cần phải phác thảo ra một lý thuyết về công bằng mà dưới ánh sáng của nó những lập luận này có thể được giải thích và xác nhận.
Vị trí ban đầu
Mục đích của tôi là trình bày một khái niệm về công bằng mà nó khái quát hóa và mang tới một mức độ trừu tượng cao hơn so với khái niệm công bằng tìm thấy trong lý thuyết khế ước xã hội quen thuộc của Locke, Rousseau, và Kant. Để làm điều này tôi không nghĩ về khế ước ban đầu như là khế ước để đi vào một xã hội cụ thể hay để thiết lập một dạng chính quyền cụ thể. Thay vào đó, ý tưởng hướng dẫn là: đối tượng của một khế ước ban đầu là các nguyên tắc công bằng cho cấu trúc cơ bản của xã hội. Chúng là các nguyên tắc mà những người tự do và duy lý quan tâm đến việc thúc đẩy hơn nữa lợi ích riêng của họ sẽ chấp nhận ở một vị trí ban đầu bình đẳng [a initial position of equality] khi xác định các điều khoản nền tảng của sự liên kết của họ. Những nguyên tắc này sẽ điều chỉnh tất cả các phương diện khác; chúng xác định các kiểu hợp tác xã hội nào mà chúng ta có thể tham gia và các dạng chính quyền nào mà chúng ta có thể thiết lập. Nguyên tắc công bằng được xây dựng theo cách như vậy tôi gọi là công bằng như sòng phẳng [justice as fairness].
Trong công bằng như sòng phẳng, vị trí ban đầu bình đẳng tương ứng với trạng thái tự nhiên trong lý thuyết khế ước xã hội truyền thống. Dĩ nhiên, vị trí ban đầu này không được xem như là một hoàn cảnh lịch sử thực tế, mà ít nhiều như là một hoàn cảnh sơ khởi về văn hóa. Nó được hiểu đơn thuần như một hoàn cảnh giả thiết được sử dụng để đi đến một khái niệm nào đó về công bằng. Một trong số những đặc trương cơ bản của hoàn cảnh này là không ai biết về vị trí của anh ta trong xã hội, cũng như vận may liên quan đến sự phân bố các tài sản, năng lực tự nhiên, trí tuệ, sức khỏe …Nguyên tắc công bằng sẽ được lựa chọn đằng sau một bức màn vô minh [a vein of ignorance]. Điều này đảm bảo không ai thấy được các thuận lợi hay bất lợi bắt nguồn từ của sự may rủi tự nhiên hay của hoàn cảnh xã hội khi lựa chọn các nguyên tắc. Vì tất cả ở vào một hoàn cảnh tương tự nhau, và không ai có thể thiết kế các nguyên tắc mang lại thuận lợi cho hoàn cảnh cụ thể của anh ta, nên các nguyên tắc công bằng là kết quả của một sự thỏa thuận sòng phẳng. Điều này giải thích đặc điểm của tên gọi “công bằng như là sòng phẳng”: nó truyền đạt ý tưởng là: các nguyên tắc công bằng được đồng ý ở một ví trí ban đầu vốn là sòng phẳng.
Như tôi đã nói, công bằng như là sòng phẳng bắt đầu với một lựa chọn chung nhất trong tất cả các lựa chọn mà mọi người có thể lựa chọn cùng nhau, tức là, bắt đầu với lựa chọn các nguyên tắc đầu tiên của khái niệm công bằng, khái niệm quy định tất các phê phán và cải cách sau đó đối với các thiết chế xã hội. Sau khi đã lựa chọn được khái niệm công bằng, chúng ta có thể tin rằng mọi người sẽ đi đến lựa chọn một thể chế và một cơ quan lập pháp để ban hành luật, và tất cả phải phù hợp với các nguyên tắc công bằng đã được đồng ý ban đầu. Tình trạng của xã hội của chúng ta là công bằng nếu tiếp theo sau các thỏa thuận giả thiết này chúng ta đồng ý đi vào trong hệ thống các quy tắc cai trị chung vốn định hình trạng thái đó. Ngoài ra, với việc thừa nhận rằng vị trí ban đầu quyết định một tập hợp các nguyên tắc, thì hoàn toàn đúng đắn là bất cứ khi nào các thiết chế xã hội thỏa mãn những nguyên tắc này, những người liên quan đến chúng có thể nói với nhau rằng họ đang hợp tác trên các phương diện mà họ đồng ý, và nếu họ là những người tự do và bình đẳng, thì các quan hệ của họ với nhau là sòng phẳng. Với một nhận thức chung như vậy sẽ cung cấp cơ sở cho một sự chấp nhận ở phạm vi cộng đồng đối với các nguyên tắc công bằng tương ứng. Dĩ nhiên, không xã hội nào có thể là một hệ thống hợp tác mà con người đi vào tự nguyên theo nghĩa đen; mà mỗi người thấy mình sinh ra trong một hoàn cảnh cụ thể trong một xã hội cụ thể, và vị trí này sẽ ảnh hưởng về mặt vật chất tới các triển vọng cuộc sống của anh ta. Tuy nhiên một xã hội thỏa mãn các nguyên tắc công bằng như là sòng phẳng đến gần hơn với một xã hội như là một hệ thống tự nguyện, vì nó đáp ứng các nguyên tắc mà những người tự do và bình đẳng tán thành dưới các các điều kiện được coi là sòng phẳng. Theo nghĩa này các thành viên của nó là các thành viên tự trị và các nghĩa vụ mà họ thừa nhận là do họ tự áp đặt lên mình.
Một khi các nguyên tắc công bằng được nghĩ về như bắt nguồn từ vị trí ban đầu trong một trạng thái bình đẳng, thì câu hỏi đặt ra là liệu nguyên tắc công lợi có được chấp nhận hay không. Ngay tức thì, ta thấy câu trả lời là không, vì những người mà nhìn nhận chính họ như là những người bình đẳng, và được trao quyền để áp đặt các yêu sách lên người khác, sẽ không thể đồng ý với một nguyên tắc mà yêu cầu một cuộc sống ít triển vọng hơn cho một số chỉ vì mục tiêu mang lại lợi ích tổng thể lớn hơn cho số khác. Vì mọi người đều mong muốn bảo vệ lợi ích của chính mình, không ai có lý do để bằng lòng với một sự thiệt hại mãi mãi cho mình để mang lại sự thỏa mãn lớn hơn cho người khác. Vì không tồn tại sự rộng lượng vô biên và mãi mãi, một người duy lý sẽ không chấp nhận một cấu trúc cơ bản chỉ quan tâm đến việc tối đa tổng số những lợi ích mà không đếm xỉa gì đến ảnh hưởng lâu dài của nó lên các quyền và lợi ích cơ bản của anh ta. Do vậy, rõ ràng nguyên tắc công lợi không thích hợp với ý tưởng về một sự hợp tác xã hội giữa những người bình đẳng vì lợi ích lẫn nhau.
Thay vào đó, tôi khẳng định rằng mọi người trong vị trí ban đầu sẽ lựa chọn hai nguyên tắc khác: nguyên tắc thứ nhất yêu cầu sự bình đẳng khi gán các quyền và bổn phận cơ bản, trong khi nguyên tắc thứ hai cho rằng các bất bình đẳng về kinh tế và xã hội, như bất bình đẳng về sự giàu có và quyền lực, là chỉ công bằng khi chúng mang lại lợi ích cho mọi người, đặc biệt là đối với các thành viên có hoàn cảnh ít thuận lợi hơn trong xã hội.
Hai nguyên tắc công bằng
Bây giờ tôi sẽ trình bày hình thức tạm thời của hai nguyên tắc công bằng mà tôi tin sẽ được đồng ý ở vị trí ban đầu. Khi chúng ta tiếp tục, tôi sẽ xem xét một vài kiểu diễn đạt khác và từ đó, sự trình bày cuối cùng sẽ dần dần được mang lại.
Sự diễn đạt đầu tiên về hai nguyên tắc như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: mỗi người có quyền bình đẳng đối với một sơ đồ toàn diện nhất các quyền tự do cơ bản tương đương không mâu thuẫn với một sơ đồ các quyền tự do tương tự của người khác.
Nguyên tắc thứ hai: sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội được xếp đặt sao cho chúng (a) được mong đợi (một cách có cơ sở) mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, và (b) quy định các vị trí và chức vụ luôn mở rộng đối với tất cả mọi người.
Dạng diễn đạt cuối cùng về hai nguyên tắc công bằng được đưa ra trong mục 46.1.
Các nguyên tắc này chủ yếu áp dụng cho cấu trúc cơ bản của xã hội để kiểm soát việc phân bổ các quyền và bổn phận, và điều chỉnh sự phân bố các lợi ích về kinh tế và xã hội. Từ các mục đích của một lý thuyết công bằng, sự diễn đạt của chúng tiền giả định là cấu trúc xã hội có thể được xem như có hai phần riêng biệt, trong đó nguyên tắc thứ nhất áp dụng cho phần này, và nguyên tắc thứ hai áp dụng cho phần kia. Tức là, chúng ta phân biệt giữa các khía cạnh của một hệ thống xã hội vốn định nghĩa và đảm bảo các quyền tự do bình đẳng cơ bản với các khía cạnh khác vốn xác định và thiết lập những sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội.
Các quyền tự do cơ bản được rút ra từ một danh sách các quyền tự do. Và quan trọng nhất trong số những quyền tự do này là các quyền tự do chính trị (quyền bầu cử và giữ các chức vụ công); tự do ngôn luận và lập hội; tự do ý thức và tự do tư tưởng; tự do khỏi sự đè nén về mặt tâm lý, cũng như sự bạo hành thể xác; quyền nắm giữ tài sản cá nhân và tự do khỏi mọi sự bắt giữ tùy tiện. Những quyền tự do này là bình đẳng theo nguyên tắc thứ nhất.
Nguyên tắc thứ hai áp dụng để phân phối thu nhập và tài sản, và để thiết kế các tổ chức với thẩm quyền và trách nhiệm khác nhau. Trong khi sự phân bố tài sản và thu nhập không cần bình đẳng, thì phải đảm bảo sự bình đẳng đối với sự phân bố các thuận lợi xã hội cho mọi người, và đồng thời, mọi người phải tiếp cận được các vị trí có quyền lực và trách nhiệm. Chúng ta áp dụng nguyên tắc thứ hai bằng cách để cho các vị trí đều rộng mở, và sau đó từ điều kiện này, phân bổ sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội sao cho mọi người có lợi.
Các nguyên tắc này được xắp xếp trong một trật tự với nguyên tắc thứ nhất ưu tiên so với nguyên tắc thứ hai. Trật tự này có nghĩa là bất cứ sự vi phạm đối với các quyền tự do cơ bản được bảo vệ bởi nguyên tắc thứ nhất là không thể biện minh, hoặc bồi thường cho, dù với một sự thuận lợi, hay lợi ích lớn hơn về kinh tế và xã hội. Những quyền tự do này là tối cao, và chúng chỉ bị giới hạn và thỏa hiệp khi chúng xung đột với các quyền tự do cơ bản khác. Vì chúng có thể bị giới hạn khi chúng xung đột với nhau, không quyền tự do nào trong các quyền tự do này là tuyệt đối; dù chúng được xắp đặt để hình thành một hệ thống, hệ thống này là làm mất đi tính bình đẳng giữa chúng.
Hai nguyên tắc này khá cụ thể về nội dung, và sự chấp nhận chúng dựa trên một số giả định nào đó mà cuối cùng tôi phải cố gắng giải thích và biện minh. Còn bây giờ, chỉ cần biết rằng các nguyên tắc này là các trường hợp đặc biệt của một khái niệm tổng quát hơn về công bằng được phát biểu như sau:
Tất cả mọi giá trị xã hội – sự tự do và cơ hội, thu nhập và tài sản, và các cơ sở xã hội của lòng tự trọng – phải được phân phối bình đẳng trừ khi một sự phân phối không bình đẳng của những giá trị như vậy mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Do đó, bất công đơn giản là sự bất bình đẳng không mang lại lợi ích cho tất cả.
Câu hỏi nghiên cứu
1 Rawls muốn nói điều gì khi ông viết “Công bằng là đức hạnh đầu tiên của thiết chế xã hội”. Giải thích vai trò không thể thỏa hiệp của công bằng.
2 Giải thích vị trí ban đầu và vai trò của nó trong lý thuyết công bằng của Rawls. Màn vô minh là gì và mục đích của nó là gì?
3 Rawls có tin rằng xã hội đã được bắt đầu bằng một khế ước giữa các cá nhân? Nếu không, thì mục đích của ý tưởng khế ước xã hội là gì?
4 Rawls có nghĩ rằng khi mọi người ở vị trí ban đầu họ sẽ lựa chọn nguyên tắc công lợi? Tại sao có hoặc tại sao không?
5 Hai nguyên tắc công bằng của Rawls là gì? Cho ví dụ về cách áp dụng của mỗi nguyên tắc.
6 Nguyên tắc khác biệt của Rawls bị phê phán bởi cả những người theo chủ nghĩa Marx lẫn những người theo chủ nghĩa tư bản. Bạn hãy cho biết sự chỉ trích mà họ có thể đưa ra là gì?  
Nguồn: “Ethics Contemporary Readings”; Routledge Contemporary Readings in Philosophy; tr 229-234.
Read More...

Nhập môn Triết học chính trị - RAWLS (P8)

RAWLS
Read More...

Giới thiệu về Rawls



JOHN RAWLS (1921), triết gia chính trị và đạo đức Mỹ, sinh tại Baltimore, Maryland. Ông tốt nghiệp đại học Princeton. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại Thái Bình Dương trong Thế chiến II, ông quay lại Princeton làm luận án tiến sĩ triết học năm 1950.
Rawls giảng dạy tại Cornell trong những năm 1950, chuyển đến Viện Công nghệ Massachusetts năm 1960, và sau đó là khoa triết tại đại học Harvard năm 1962 và ở đây cho đến khi về hưu năm 1991. Từ khi nhận học vị tiến sĩ cho đến năm 1971, công trình trí tuệ quan trọng nhất của ông là một cuốn sách bàn về lẽ công bằng. Cuốn sách ra đời năm 1971 dưới tựa đề Học thuyết công bằng, trình bày toàn diện một học thuyết mà Rawls gọi là “công bằng là sòng phẳng''. Sau đó, Rawls dành gần 20 năm suy nghĩ lại về những cơ sở của ý niệm ''công bằng là sòng phẳng'', với mục đích trình bày quan điểm của ông nhất quán hơn với chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo và triết học là đặc tính của các nền dân chủ hiện đại. Thành quả của những nỗ lực đó xuất hiện năm 1993 trong tác phẩm Chủ nghĩa tự do chính trị. Năm 1999, Rawls xuất bản tác phẩm Luật lệ của các dân tộc, triển khai những ý tưởng về công bằng của ông thành một hệ thống quốc tế.
Trong phần lớn thế kỷ qua, ý tưởng về một triết thuyết chính trị bình quân - tự do đối với nhiều người hình như là một mâu thuẫn ngay trong từ ngữ. Những người theo chủ nghĩa binh quân băn khoăn trước những khác biệt to lớn giữa cuộc sống của người giàu và người nghèo thường kết tội chủ nghĩa tự do đã chú ý quá đáng đến những quyền và tự do hợp pháp trong khi tỏ ra thờ ơ với số phận thực sự của dân chúng bình thường. Họ lập luận, bình đẳng chỉ có thể tìm thấy trong một số ít diễn ngôn về luật pháp và chính trị - với những tuyên bố về bình đẳng của con người trước pháp luật và của công dân trong quốc gia. Những người tự do quan tâm đến việc đảm bảo các quyền cá nhân thường tố cáo chủ nghĩa bình quân là gia trưởng và sẵn sàng hy sinh tự do cá nhân nhân danh sự tương đồng vô vị của hoàn cảnh hay xã hội không tưởng tương lai. Thực ra, hệ thống phúc lợi xã hội của các quốc gia dân chủ cố gắng và gần như thành công, tôn trọng những giá trị tự do và bình đẳng: bảo đảm những quyền cá nhân cơ bản đối với sinh hoạt riêng tư và sinh hoạt chính trị, đồng thời bảo vệ cho từng người khỏi những ngẫu nhiên của thị trường. Nhưng những lựa chọn triết học dường như đối chọi nhau. Giữa chủ nghĩa tự do cổ điển của Friedrich Hayek và chủ nghĩa bình quân của Karl Marx, tất cả chỉ là sự nhượng bộ chính trị bấp bênh, hoặc là sự cân bằng tùy tiện những giá trị cạnh tranh nhau.
Học thuyết công bằng của Rawls vẽ lại đồ hình triết lý này. Rawls đề xuất khái niệm công bằng hứa hẹn đem tới những quyền cá nhân gắn với chủ nghĩa tự do truyền thống, đem tới lý tưởng về sự phân phối công bằng thường được liên kết với truyền thống dân chủ xã hội và cấp tiến, và đem tới sự tin tưởng hợp lý vào khả năng thực tế của một hình thái dân chủ lập hiến bảo đảm cả tự do lẫn bình đẳng. Tóm tắt quan điểm của mình, Rawls nói rằng, công bằng như là sự sòng phẳng nhằm đưa đến ''sự hòa giải giữa tự do và bình đẳng”.
Để thấy được sức mạnh của sự hòa giải này, hãy xem xét hai nguyên tắc về công bằng mà Rawls giải thích và biện hộ trong Học thuyết công bằng. Nguyên tắc thứ nhất của Rawls - nguyên tắc về những quyền tự do bình đẳng căn bản - nói rằng, mỗi công dân có quyền bình đẳng trước một hệ thống to lớn nhất các quyền tự do riêng tư và chính trị bình đẳng căn bản tương thích với một hệ thống đồng dạng các quyền tự do đối với người khác. Nguyên tắc này không khẳng định quyền đối với “tự do đúng nghĩa'', tức là quyền lên án những hạn định đối với mọi cung cách lựa chọn. Thay vào đó, nguyên tắc thứ nhất đòi hỏi sự bảo đảm nghiêm ngặt cho một số quyền tự do cụ thể: tự do tư tưởng và lương tri; tự do chính trị; tự do hội họp; tự do và chính trực của con người; những quyền hạn và tự do liên kết với luật lệ, và những yêu sách của nó về tính khái quát và tính khả đoán. Nguyên tắc thứ nhất của Rawls cũng đề cập tới một quy phạm khắt khe về bình đẳng chính trị, nguyên tắc này nói rằng, tự do chính trị chắc chắn là một giá trị chính đáng - rằng, cơ hội để có một chỗ đứng quyền lực và thể hiện ảnh hưởng trên hệ thống chính trị phải độc lập với địa vị xã hội-kinh tế. Do đó những công dân có động cơ và khả năng tham gia tích cực vào sinh hoạt chính trị sẽ không bị bất lợi trong những nỗ lực của họ vì không đủ giàu có, hay được lợi thế vì giàu có hơn người khác.
Nguyên tắc thứ hai của Rawls thể hiện những lý tưởng bình quân về sự công bằng trong phân phối. Nguyên tắc thứ hai có hai phần, cả hai đều đưa ra những giới hạn khả thủ đối với những bất bình đẳng xã hội-kinh tế. Phần thứ nhất nêu rõ, khi những bất bình đẳng đi kèm với chức vụ và địa vị - tức là khi những công việc như nhau được thưởng công khác nhau - thì những chức vụ và địa vị ấy phải mở ra trước mọi người dưới những điều kiện của sự bình đẳng sòng phẳng về cơ hội. Cụ thể là những người có tài năng và động lực như nhau thì phải có những cơ hội như nhau để giành được những địa vị mong muốn, bất chấp thân thế của họ. Việc tiếp cận với công việc trách nhiệm và được đền bù xứng đáng không nên tuỳ thuộc vào hoàn cảnh xã hội, trong đó người ta ngẫu nhiên sinh ra và lớn lên.
Nhưng ngay cả một xã hội bảo đảm những quyền riêng tư và chính trị căn bản cho mỗi người và bảo đảm sự bình đẳng sòng phẳng về cơ hội, vẫn có thể có những bất bình đẳng khó chịu. Do đó, giả sử một số người, phần nào vì thiên bẩm, sở hữu những tài năng hiếm có và tìm được nhiều lợi tức trong thị trường, trong khi một số người khác không có những kỹ năng như thế. Giả sử cả hai nhóm người này đều làm việc cật lực và đóng góp theo năng lực của mình. Mặc dù vậy mức thu nhập của họ sẽ rất khác nhau và những khác biệt này sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của họ. Nhưng những bất bình dẳng về thu nhập này dựa vào những ngẫu nhiên, sự may mắn không xứng đáng trong trò chơi xổ số cuộc đời và ''không có lý do cho phép sự phân phối thu nhập và của cải giàu sang được quyết định bởi sự phân phối tài sản tự nhiên hơn bởi vận may lịch sử và xã hội''. Do vậy, phần hai trong nguyên tắc thứ hai của Rawls - nguyên tắc khác biệt - đòi hỏi một cấu trúc kinh tế giảm bớt những bất bình đẳng trong thu nhập và của cải do những khác biệt trong tài năng tự nhiên. Thay vì để cho sự khác biệt về thu nhập chỉ đơn thuần phản ánh những khác biệt về thiên bẩm, nguyên tắc khác biệt đòi hỏi chúng ta tối đa hóa những kỳ vọng một đời của những ai ở vào địa vị xã hội ít thuận lợi nhất. Từ đó một người có thể được trả lương nhiều hơn người khác một cách hợp pháp bởi vì thu nhập cao hơn đó bù đắp cho chi phí giáo dục và đào tạo sâu rộng giúp người ấy đảm nhận những bổn phận đáng ao ước trong xã hội; hoặc những bất bình đẳng có thể có ý nghĩa như những khích lệ giúp người ta nhận nhiệm vụ mà nếu không họ sẽ không thể hay đơn giản là không sẵn lòng nhận nhiệm vụ. Theo nguyên tắc khác biệt, những bất bình đẳng như thế hoàn toàn chính đáng chỉ khi nào chúng đem lại lợi ích lớn nhất cho những người kém sung túc thất.
Như vậy, trong khi yêu sách sự bình đẳng sòng phẳng về cơ hội lên án một xã hội trong đó thân thế giai cấp là nguồn gốc của đặc quyền xã hội và kinh tế, thì nguyên tắc khác biệt lại lên án một xã hội trong đó, như cách nói của nhà xã hội học Emile Durkheim, ''những bất bình đẳng xã hội thể hiện chính xác những bất bình đẳng tự nhiên''. Tóm lại, trong thực tế, Rawls cố thuyết phục chúng ta chống đối ý tưởng cho rằng, hệ thống kinh tế của chúng ta là cuộc tranh đua về dòng dõi và tài năng, nhằm mục đích tưởng thưởng cho những người nhanh nhẹn và những người nhiều năng khiếu. Thay vì vậy, nó phải là một phần của kế hoạch hợp tác sòng phẳng, được thiết kế để bảo đảm một đời sống hợp lý cho mọi người. ''Trong sự công bằng như là sự sòng phẳng'' - Rawls nói - con người đồng thuận chia sẻ số phận của nhau''.
NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH
A Theory of Justice (1971; Học thuyết công bằng)
The Law of Peoples (1999; Luật lệ của các dân tộc)
Political Liberalism (1993; Chủ nghĩa tự do chính trị)
(Trích từ tác phẩm 101 Triết gia, Mai Sơn biên soạn

Read More...

Labels1

Read More...
 
Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org