Hiển thị các bài đăng có nhãn Đinh Tuấn Minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đinh Tuấn Minh. Hiển thị tất cả bài đăng

Sử dụng tri thức trong xã hội

Freidrich A. Hayek
Đinh Tuấn Minh dịch
Giới thiệu của người dịch
Đối với giới kinh tế học lý thuyết, khám phá của Hayek về “phân hữu tri thức” (division of knowledge) có giá trị có thể sánh ngang với khám phá của Adam Smith về “phân công lao động” (division of labor). Nếu như phân công lao động là tiền đề để của cải xã hội được sinh sôi nảy nở, thì phân hữu tri thức lại là tiền đề để phân công lao động được liên tục phát triển. Khám phá này được Hayek trình bày rõ ràng trong bài luận “Sử dụng tri thức trong xã hội” (“The Use of Knowledge in Society”) đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945. Hayek thấy rằng “tri thức về các hoàn cảnh mà chúng ta bắt buộc phải tính đến không bao giờ tồn tại một cách tập trung hay hợp nhất, mà chỉ dưới dạng những mảnh phân tán, không hoàn chỉnh và thường xuyên mâu thuẫn, được sở hữu bởi tất cả các cá nhân riêng rẽ”. Từ tiền đề này, Hayek rút ra ba kết luận quan trọng: (i) hoạch định kinh tế tập trung kém hiệu quả hơn so với hoạch định phi tập trung; (ii) hệ thống giá cả là hệ thống tự phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp các kế hoạch cá nhân riêng rẽ; và (iii) các phương pháp tiếp cận dựa trên nền tảng triết học thực chứng không thể giải quyết được vấn đề kinh tế thực sự của xã hội, tức vấn đề làm thế nào để có thể sử dụng hiểu quả các tri thức riêng phần.
Read More...

Chủ nghĩa tư bản và nền tảng luân lý (P2/2)

Edward Celeson
Đinh Tuấn Minh dịch
Cuộc cải cách ở Anh quốc và thị trường tự do
Dù là vẫn tồn tại một số ít các trí thức thời đó có khuynh hướng phó mặc cho thiên nhiên, thứ chủ trương “không làm gì cả” vốn thường được đại chúng gán ghép với xã hội laissez faire, thì dù là trước và sau 1800, vẫn không thiếu những cố gắng cải tổ xã hội. Chính trong những thập niên giữa hai thế kỷ XVIII và XIX này, William Wilberforce và Clapham Sect đã cật lực đấu tranh xóa bỏ nạn nô lệ. Quả thực điều kiện lúc đó hoàn toàn không thuận lợi cho cải cách xã hội vì Cách mạng Pháp bắt đầu vào năm 1789 và cuộc chiến giữa Napoléon và thế giới chỉ chấm dứt sau trận Waterloo vào năm 1815. Trong khoảng thời gian một phần tư thế kỷ đó, cho dù là không có xung đột liên tục nhưng xã hội luôn xáo trộn do chiến tranh hay tin đồn sắp có chiến tranh. Bất chấp những bất ổn đó, Wilberforce và những cộng sự của ông đã vận động được người dân Anh xoá bỏ luật buôn bán nô lệ (việc vận chuyển nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu) vào năm 1807. Sau cuộc chiến với Napoléon, chính phủ Anh và hải quân Hoàng gia Anh dốc toàn lực vào việc xóa bỏ tận gốc nạn buôn bán nô lệ đồng thời làm áp lực để những quốc gia khác cùng hợp tác thực hiện. Sau cuộc Nội Chiến [ở Hoa Kỳ, 1860-1864], cùng với bản tuyên bố giải phóng nô lệ ở Hoa Kỳ, gần như đồng thời với việc xóa bỏ nạn nô lệ ở những nước Mỹ la tinh, có vẻ như nhân loại sắp sửa thật sự được hưởng tự do. Cải cách xã hội quả đã mang lại kết quả tốt.
Read More...

Chủ nghĩa tư bản và nền tảng luân lý (P1/2)

Edward Celeson
Đinh Tuấn Minh dịch
“Nền kinh tế thị trường, tức chủ nghĩa tư bản, hiện đang bị khinh ghét hơn bất cứ thứ gì khác. Trong điều kiện xã hội hiện tại, khi gặp những gì không hài lòng, người ta thường đỗ lỗi cho chủ nghĩa tư bản.” Ludwig von Mises viết như thế vào tháng Giêng năm 1947[1]. Thật ra, chủ nghĩa tư bản đã mang tiếng xấu từ trườc đó rất lâu. John Ruskin từng phỉ báng Adam Smith là “… một gã Xcốtlen nửa người nửa ngợm đang cố tình rao giảng những lời báng bổ thánh thần: nào là ‘Hãy căm thù thượng đế, chúa tể của các ngươi, kệ xác những luật lệ của ông ta, và hãy luôn ngắm nghé tài sản của bọn láng giềng’”[2]. Cứ như thế, từ nhiều năm qua, những người theo chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội Fabian đã tạo ra một kho tư liệu tuyên truyền khổng lồ chống lại chủ nghĩa tư bản.
Read More...

Thị trường và đạo đức

Peter Hill
Đinh Tuấn Minh dịch
Hầu hết chúng ta đều đồng ý rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn các hệ thống kinh tế khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội, về khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Dù vậy, quyền tư hữu và nền kinh tế thị trường vẫn bị nhiều người chỉ trích. Họ cho rằng nên đưa thêm nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa hoặc chí ít là trao thêm nhiều quyền lực chỉ huy nền kinh tế cho chính phủ. Họ biện luận rằng mặc dù chủ nghĩa tư bản tạo ra nhiều hàng hóa theo nghĩa vật chất thuần túy, nhưng đạo đức lại không song hành với quá trình này. Nghĩa là, chủ nghĩa tư bản không đáp ứng được những tiêu chuẩn cơ bản về công bình (justice).
Read More...

Giá trị đạo đức của chủ nghĩa tư bản

E. Barry Asmus và Donald B. Billings
Đinh Tuấn Minh dịch
Read More...

Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (P2/2)

Friedrich A. Hayek
Đinh Tuấn Minh dịch 
V
Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ câu chuyện. Các lực tác động tới sự tuyển mộ vào hàng ngũ của giới trí thức cũng hoạt động theo cùng chiều hướng đó và điều này giúp chúng ta giải thích vì sao lại có quá nhiều người tài giỏi nhất trong số họ lại nghiêng theo hướng chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, tương tự như giữa các nhóm người khác, giữa các trí thức cũng tồn tại nhiều khác biệt ý kiến; nhưng có vẻ đúng rằng, xét một cách tổng thể, những người tích cực, có trí tuệ, và độc đáo hơn trong giới trí thức là những người ngả theo chủ nghĩa xã hội thường xuyên nhất, trong khi những trí thức chống chủ nghĩa xã hội lại thường có năng lực thấp kém hơn. 
Điều này đặc biệt đúng trong các giai đoạn khi các ý tưởng xã hội chủ nghĩa bắt đầu thâm nhập; sau này, dù rằng bên ngoài giới trí thức vẫn có người có dũng khí bày tỏ những xác tín xã hội chủ nghĩa thì trong lòng giới trí thức áp lực dư luận ủng hộ chủ nghĩa xã hội lại thường mạnh đến mức khiến một người cần phải có đầu óc mạnh mẽ và độc lập hơn nhiều để chống lại áp lực đó thay vì gia nhập vào cái mà các bạn hữu của anh ta cho là các quan điểm hiện đại. Chẳng hạn, chẳng ai vốn quen thuộc với số đông các giáo chức trong các khoa của các trường đại học (và với quan điểm này đa số các giáo viên đại học có lẽ phải được phân loại là các trí thức hơn là các chuyên gia), lại có thể quên được sự thực rằng ngày nay các giáo viên tài giỏi nhất và thành công nhất có nhiều khả năng là những người xã hội chủ nghĩa hơn, trong khi những người giữ quan điểm chính trị bảo thủ hơn thường là những người xoàng xĩnh. Điều này tự bản thân nó là một nhân tố quan trọng đẩy thế hệ trẻ hơn vào phe xã hội chủ nghĩa. 
Tất nhiên, người theo chủ nghĩa xã hội xem điều này đơn thuần như là một minh chứng rằng ngày nay người có trí tuệ hơn có xu hướng trở thành một người xã hội chủ nghĩa. Nhưng đây còn xa mới là lời giải thích thoả đáng hay thậm chí có vẻ nghe được. Lí do chính của tình cảnh này có lẽ là, đối với trường hợp của người có tài năng phi thường mà chấp nhận trật tự xã hội hiện thời thì có vô số xa lộ rộng lớn khác về uy thế và quyền lực mở ra cho anh ta, trong khi đối với người thua thiệt và bất mãn [với trật tự xã hội hiện thời] thì một nghề trí thức chính là con đường hứa hẹn mang đến cho anh ta uy thế và quyền lực, góp phần nhiều nhất vào việc đạt được các lí tưởng của mình. Thậm chí còn hơn thế: người có thiên hướng bảo thủ hơn thuộc nhóm tài năng hàng đầu nói chung sẽ chọn công việc trí óc (và hi sinh phần thưởng vật chất – một đòi hỏi thường gắn với sự lựa chọn này) chỉ nếu anh ta hứng thú với nó vì chính nó. Hệ quả là, khả năng để anh ta trở thành một học giả chuyên sâu cao hơn nhiều so với một trí thức theo cái nghĩa cụ thể của từ này; trong khi đối với người có đầu óc cấp tiến hơn thì nghề trí thức thường không phải là một phương tiện mà là một mục đích, một con đường dẫn đến chính xác cái loại ảnh hưởng rộng khắp mà nhà trí thức chuyên nghiệp thực hiện. Vì thế, có lẽ đây mới chính là một sự thực, thay vì rằng những người có trí tuệ hơn thì nói chung là những người theo chủ nghĩa xã hội, thì là rằng những người theo chủ nghĩa xã hội chiếm một tỉ lệ cao hơn hẳn trong số những bộ óc tài giỏi nhất gắn đời mình vào những cái nghề trí thức này, những nghề làm cho họ có ảnh hưởng quyết định đến công luận trong xã hội hiện đại [2] . 
Sự tuyển lựa nhân sự của giới trí thức cũng có quan hệ mật thiết với mối quan tâm chính yếu của họ về các ý tưởng tổng quát và trừu tượng. Những tư biện về khả năng tạo dựng lại toàn bộ xã hội là món ăn hấp dẫn người trí thức hơn nhiều so với những cân nhắc thực tiễn và ngắn hạn của những người muốn hướng tới việc cải thiện từng phần trật tự [xã hội] hiện tồn. Cụ thể, tư tưởng xã hội chủ nghĩa có được sự quyến rũ đối với thanh niên chủ yếu là vì đặc tính huyền ảo của nó; về khía cạnh này, chính cái dũng khí dấn thân vào tư duy Utopia (không tưởng) mới là một nguồn sức mạnh đối với những người xã hội chủ nghĩa, điều mà chủ nghĩa tự do truyền thống đáng buồn là lại thiếu. Sự khác biệt này có lợi cho chủ nghĩa xã hội, không chỉ bởi vì sự tư biện về các nguyên lí chung tạo ra một cơ hội thi thố cho trí tưởng tượng của những người không bị vướng bận bởi lượng kiến thức khổng lồ về các thực tế của cuộc sống hiện tại, mà cũng bởi vì nó thỏa mãn một khát khao chính đáng muốn có hiểu biết về cơ sở lí luận đằng sau bất kỳ một trật tự xã hội nào và tạo ra khung vực để thực hiện cái đòi hỏi cấp bách mang tính xây dựng đó – điều mà chủ nghĩa tự do, sau khi đã có những chiến thắng to lớn, chỉ để lại một vài gợi mở. Người trí thức, do toàn bộ thiên hướng của mình, không quan tâm đến những chi tiết kĩ thuật hay những khó khăn thực tiễn. Cái hấp dẫn anh ta là những viễn cảnh rộng mở, cái nhận thức bao quát về trật tự xã hội tổng thể mà một hệ thống được hoạch định hứa hẹn. 
Sự thực này, rằng những tư biện của những người xã hội chủ nghĩa thỏa mãn tốt hơn các sở thích của người trí thức, đã tỏ ra là tai họa đối với ảnh hưởng của truyền thống tự do. Một khi những đòi hỏi cơ bản của các cương lĩnh tự do dường như được thỏa mãn thì các nhà tư tưởng tự do cổ điển lại quay sang các vấn đề chi tiết và thường sao nhãng việc phát triển triết lí tổng quát của chủ nghĩa tự do. Hậu quả là, triết lí chung đó thôi không còn là một vấn đề sống động, tạo ra khung giới cho tư biện khái quát. Vì vậy, trong khoảng nửa thế kỉ, chỉ có những người xã hội chủ nghĩa là những người đưa ra được một thứ gì đó giống như một cương lĩnh tường minh về phát triển xã hội, một bức tranh về xã hội tương lai mà họ hướng tới, và một tập các nguyên lí chung để chỉ dẫn các quyết định cho các vấn đề cụ thể. Cho dù, nếu tôi đúng, các lí tưởng của họ chứa đựng những mâu thuẫn nội tại (inherent contracdictions), và bất kỳ cố gắng nào nhằm đưa chúng vào thực tiễn hẳn phải tạo ra cái gì đó dứt khoát khác xa cái mà họ kì vọng thì điều này không làm thay đổi thực tế rằng cương lĩnh cải cách của họ là cương lĩnh duy nhất thực sự đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các thể chế xã hội trong thời gian gần đây. Chính bởi vì cương lĩnh của họ đã trở thành cái triết lí chung duy nhất về chính sách xã hội do một nhóm lớn nắm giữ, cái hệ thống hay học thuyết duy nhất nêu ra các vấn đề mới và mở ra những chân trời mới, nên chúng đã thành công trong việc kích thích trí tưởng tượng của giới trí thức. 
Sự phát triển thực tế của xã hội trong giai đoạn này đã được quyết định, không phải bởi một cuộc đấu tranh giữa các lí tưởng đối lập nhau, mà bởi sự tương phản giữa tình trạng hiện tồn và một tình trạng lí tưởng về một xã hội khả dĩ trong tương lai được trình ra trước công chúng chỉ bởi riêng những người xã hội chủ nghĩa. Đã chỉ có rất ít cương lĩnh khác cung cấp các lựa chọn đích thực khả dĩ khác. Đa số chúng đơn thuần chỉ là những thỏa hiệp hay các quán trọ nửa đường giữa các loại cực đoan hơn của chủ nghĩa xã hội và trật tự hiện tồn. Duy nhất điều cần làm để khiến cho hầu như bất cứ đề xuất xã hội chủ nghĩa nào tỏ ra có lí đối với những loại đầu óc ‘sáng suốt’ vốn bị thuyết phục một cách bản năng rằng chân lí luôn phải nằm đâu đó giữa các thái cực là để cho ai đó đưa ra một đề xuất còn cực đoan hơn. Cứ như thể chỉ tồn tại duy nhất một hướng đi cho chúng ta di chuyển, và câu hỏi còn lại dường như chỉ là điều khiển tốc độ và khoảng cách di chuyển như thế nào. 
VI
Ý nghĩa của sự quyến rũ đặc biệt mà chủ nghĩa xã hội có được từ đặc tính tư biện của nó đối với giới trí thức sẽ trở nên rõ ràng hơn nếu chúng ta đối sánh thêm lập trường của nhà lí luận xã hội chủ nghĩa với lập trường của nhà lí luận tự do theo nghĩa cũ của từ [tức chủ nghĩa tự do cổ điển - ND]. Sự so sánh này cũng sẽ giúp chúng ta rút ra được bất cứ bài học nào từ một sự đánh giá thỏa đáng về các xung lực trí tuệ đang làm xói mòn những nền tảng của một xã hội tự do. 
Khá nghịch lí là, một trong những bất lợi chủ yếu khiến nhà tư tưởng tự do bị mất ảnh hưởng đại chúng lại có quan hệ mật thiết với sự thực rằng trước khi chủ nghĩa xã hội thực sự xuất hiện anh ta hẳn đã có nhiều cơ hội hơn để ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định về chính sách hiện thời và do vậy, sự thực là anh ta không chỉ đã không bị cuốn hút vào công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn, là cái tạo ra sức mạnh cho những người xã hội chủ nghĩa, mà còn là anh ta, trên thực tế, đã chán nản với công việc đó bởi vì có vẻ như là bất cứ nỗ lực nào thuộc loại này sẽ làm bớt đi điều tốt đẹp trước mắt mà anh ta có thể làm được. Mọi quyền lực mà anh ta phải vận dụng để ảnh hưởng đến các quyết định thực tiễn anh ta đều có được từ thế đứng của anh ta so với các đại diện của trật tự hiện hành, và thế đứng này sẽ bị nguy hại nếu anh ta dấn thân vào công việc tư biện, thứ quyến rũ giới trí thức và qua giới này có thể ảnh hưởng đến những sự phát triển trong các giai đoạn dài hơn. Để có ảnh hưởng tới những người quyền thế, anh ta phải “thực dụng”, “biết điều”, và “thực tế”. Chừng nào anh ta còn gắn mình với các vấn đề trực tiếp, anh ta còn được tưởng thưởng bằng sự ảnh hưởng, thành công vật chất, và sự nổi tiếng do những người, ở một chừng mực nào đó, còn chia sẻ quan điểm chung với anh ta. Nhưng những người này ít có được sự kính trọng đối với những loại công việc tư biện về các nguyên lí chung vốn định hình bầu không khí trí tuệ. Quả thực là, nếu anh ta theo đuổi một cách nghiêm túc công việc tư biện [về các vấn đề] dài hạn như vậy anh ta dễ bị mang tiếng là người ‘không lành mạnh’ hay thậm chí là nửa xã hội chủ nghĩa, bởi vì lẽ anh ta không có ý đồng nhất trật tự hiện hành với hệ thống tự do mà anh ta muốn hướng tới [3] . 
Nếu, bất chấp điều này, anh ta vẫn nỗ lực tiếp tục theo đuổi hướng tư biện chung thì anh ta sẽ mau chóng phát hiện ra rằng anh ta không còn được an toàn khi kết giao quá mật thiết với những người có vẻ chia sẻ hầu hết các xác tín của mình và anh ta mau chóng bị cô lập. Quả thực hiện nay có lẽ còn rất ít các công việc bạc bẽo hơn so với nhiệm vụ cốt yếu về việc phát triển nền tảng triết lí mà một xã hội tự do nếu còn muốn tiếp tục phát triển nhất thiết phải dựa vào. Do người gánh vác trọng trách này phải chấp nhận phần lớn khuôn khổ của trật tự hiện tồn nên anh ta sẽ xuất hiện trong con mắt của đa số những trí thức có đầu óc tư biện hơn chỉ đơn thuần như là một người biện hộ nhút nhát về những cái như chúng vốn thế; đồng thời anh ta sẽ bị những người làm công việc thực tiễn sa thải như một nhà lí luận không thực tế. Anh ta không đủ cấp tiến đối với những người biết chỉ cái thế giới nơi “with ease together dwell the thoughts” (dễ dàng cùng nhau chia sẻ các ý tưởng) và quá cấp tiến đối với những người chỉ thấy sao mà lại “hard in space together clash the things” (khó chứa chấp được những thứ gây ra va chạm). Nếu anh ta lợi dụng sự ủng hộ mà anh ta có thể có được từ những người làm công việc thực tiễn, anh ta hầu như chắc chắn sẽ [cảm thấy mình] tự đánh mất uy tín đối với những người mà anh ta phụ thuộc vào để truyền bá các ý tưởng của mình. Đồng thời anh ta cũng sẽ cần phải vô cùng cẩn trọng để tránh xa bất cứ thứ gì giống như sự ngông cuồng hay cường điệu. Trong khi chưa có nhà lí luận xã hội chủ nghĩa nào được biết đến lại cảm thấy mình tự đánh mất uy tín với các bạn hữu ngay cả bằng những đề xuất ngu ngốc nhất thì người theo chủ nghĩa tự do kiểu truyền thống sẽ tự nguyền rủa mình mỗi khi đưa ra một gợi ý không thể thực hiện được. Thế mà đối với giới trí thức anh ta vẫn được xem là chưa đủ tư biện hay đủ phiêu lưu, và những đề xuất thay đổi cũng như cải thiện đối với cấu trúc xã hội mà anh ta cần phải đưa ra sẽ có nội dung có vẻ như là bị hạn chế khi so với cái mà trí tưởng tượng ít bị cản trở hơn của giới trí thức nhào nặn ra. 
Chí ít ở một xã hội trong đó những điều kiện chính yếu cần thiết cho quyền tự do đã có rồi và những điều mà những cải thiện tiếp theo cần phải quan tâm là những điểm so sánh chi tiết thì cương lĩnh tự do có thể chẳng còn chút sức mê hoặc nào của một phát minh mới. Việc thấu hiểu được những cải thiện mà cương lĩnh này mang lại đòi hỏi lượng tri thức về sự vận hành của xã hội hiện tồn nhiều hơn mức mà người trí thức trung bình có được. Việc thảo luận những cải thiện này cần phải được tiến hành ở một mức độ thực tiễn hơn so với mức độ cần cho sự thảo luận về các cương lĩnh cách mạng hơn, vì thế khiến nó có một cục diện kém quyến rũ hơn đối với giới trí thức và có khuynh hướng đưa vào các yếu tố khiến cho người tham gia thảo luận cảm thấy bị công kích trực tiếp. Những người mà thực sự am tường sự vận hành của xã hội hiện thời lại thường là người quan tâm đến việc duy trì các đặc tính khu biệt của xã hội đó, những cái có lẽ không thể bảo vệ được bằng các nguyên lí chung. Không giống như người đi tìm một trật tự tương lai hoàn toàn mới mẻ và người thường giao phó mình cho nhà lí luận dẫn dắt, những người mà tin vào trật tự hiện tồn lại thường xuyên nghĩ rằng họ hiểu nó tốt hơn bất cứ nhà lí luận nào và kết quả là họ có khuynh hướng bác bỏ bất cứ cái gì khác lạ và có tính lí thuyết. 
Sự khó khăn trong việc kiếm tìm sự ủng hộ chân thật và vô tư cho một chính sách có hệ thống vì quyền tự do không phải là mới. Sự tiếp nhận một cuốn sách mới đây của tôi thường gợi cho tôi nhớ lại về một đoạn mà Lord Acton đã mô tả từ rất lâu về việc vì sao “trong mọi thời đại những người bạn chân thành của tự do lại luôn ít ỏi, và những thắng lợi của nó lại luôn là do các thiểu số, những người đã thắng thế nhờ kết hợp mình với các trợ thủ mà có mục tiêu khác với của riêng mình; và sự liên kết vốn luôn luôn nguy hiểm này đôi khi đã gây ra tai hại do nó đem đến các nguyên cớ chính đáng cho những người đối lập tấn công lại...” [4] . Mới đây, một trong những nhà kinh tế học Mĩ tài ba nhất đang còn sống đã than phiền bằng giọng điệu tương tự rằng nhiệm vụ chính của những người tin vào các nguyên lí cơ bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa là thường xuyên phải chống lại các nhà tư bản để bảo vệ hệ thống này – thực ra các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa tự do vĩ đại, từ Adam Smith đến nay, đã luôn luôn biết điều này. 
Cản trở nghiêm trọng nhất, phân tách những người làm công việc thực tiễn vốn thực tâm với sự nghiệp tự do khỏi các thế lực vốn quyết định tiến trình phát triển trong lĩnh vực tư tưởng, là sự ngờ vực sâu sắc của họ đối với công việc tư biện lí thuyết và khuynh hướng ngả sang tính chính thống của họ; điều này, hơn bất cứ thứ gì khác, tạo ra một rào cản hầu như không thể vượt qua nổi giữa họ và những người trí thức mà muốn hiến dâng cho cùng sự nghiệp, những người mà sự giúp đỡ của họ là không thể thiếu được nếu muốn sự nghiệp thành công. Mặc dù khuynh hướng này có lẽ là tự nhiên đối với những người bảo vệ một hệ thống bởi vì hệ thống đó đã biện minh được chính nó trong thực tiễn, và đối với những người ấy sự biện minh (justification) trí tuệ dường như là không quan trọng, thì đó lại là tai họa cho sự sống còn của hệ thống bởi vì khuynh hướng này bỏ đi sự ủng hộ mà hệ thống cần nhất. Tính chính thống thuộc bất cứ loại nào, tức bất kỳ sự nguỵ tạo nào theo đó một hệ thống tư tưởng là chân lý cuối cùng và cần phải được chấp nhận một cách không nghi vấn như là một tổng thể, là một loại quan niệm chắc chắn đối địch với tất cả giới trí thức, bất kể quan điểm của họ về các vấn đề cụ thể là thế nào. Bất cứ hệ thống nào mà đánh giá con người căn cứ vào sự tuân thủ trọn vẹn của họ đối với một tập hợp các quan điểm cố định, theo ‘sự tuyệt hảo’ của họ hay mức độ mà họ có thể tin cậy được để giữ gìn các quan điểm đã được chấp nhận trên tất cả các khía cạnh sẽ tự đánh mất đi sự ủng hộ mà nếu thiếu nó thì chẳng tập hợp tư tưởng nào có thể duy trì được ảnh hưởng của mình trong xã hội hiện đại. Khả năng để phê phán các quan điểm đã được chấp nhận, để khai phá các triển vọng mới và để trải nghiệm những quan niệm mới, tạo ra bầu không khí mà thiếu nó thì người trí thức không thể hít thở. Một sự nghiệp không tạo ra môi trường để nuôi dưỡng các nhu cầu này sẽ không thể nhận được sự ủng hộ nào từ anh ta và vì thế bị tất bị thất bại trong bất cứ xã hội nào mà, chẳng hạn như xã hội chúng ta, tựa trên các dịch vụ của anh ta. 
VII
Có lẽ là một xã hội tự do như chúng ta vốn đã biết mang trong mình các lực tự hủy hoại chính nó, rằng một khi đã giành được quyền tự do nó được coi như là dĩ nhiên và thôi không còn được coi trọng, và rằng sự phát triển tự do của các tư tưởng, điều cốt yếu của một xã hội tự do, sẽ có xu hướng hủy hoại các nền tảng mà nó phụ thuộc vào. Không có mấy nghi ngờ rằng ở các nước tương tự như Hoa Kì lí tưởng về quyền tự do ngày nay thực sự kém hấp dẫn giới trẻ so với ở các nước nơi họ đã biết được ý nghĩa của nó khi mất nó. Mặt khác, có dấu hiệu rõ ràng là ở Đức cũng như nơi khác, nơi thanh niên chưa bao giờ biết đến một xã hội tự do, nhiệm vụ xây dựng một xã hội tự do có thể trở nên lí thú và quyến rũ như bất cứ cương lĩnh xã hội chủ nghĩa nào đã xuất hiện trong một trăm năm vừa qua. Có một sự thực khác thường, dù là sự thực mà nhiều du khách đã trải nghiệm, rằng khi ai đó nói chuyện với các sinh viên Đức về các nguyên lí của một xã hội tự do,anh ta bắt gặp một cử tọa nhanh nhạy hơn và thậm chí nhiệt tình hơn so với anh ta có thể hi vọng tìm thấy ở bất cứ nền dân chủ phương Tây nào. Tại Anh quốc cũng đã xuất hiện trong thanh niên một mối quan tâm mới về các nguyên lí của một chủ nghĩa tự do thật sự, điều chắc chắn đã không tồn tại vài năm trước. 
Phải chăng điều này có nghĩa là quyền tự do chỉ được coi trọng khi nó bị đánh mất, rằng thế giới ở mọi nơi phải kinh qua một pha tăm tối của chủ nghĩa toàn trị xã hội chủ nghĩa trước khi các lực lượng tự do có thể lại lấy lại được sức mạnh? Có thể là thế, nhưng tôi hi vọng không nhất thiết phải vậy. Thế nhưng, chừng nào trong các giai đoạn dài hơn những người quyết định công luận vẫn tiếp tục bị lôi cuốn bởi các lí tưởng của chủ nghĩa xã hội thì chiều hướng đó sẽ còn tiếp tục. Nếu chúng ta muốn tránh một sự tiến triển như vậy, chúng ta phải có khả năng đưa ra một cương lĩnh tự do mới có sức quyến rũ trí tưởng tượng. Chúng ta phải khiến cho việc xây dựng một xã hội tự do một lần nữa là một công cuộc phiên lưu trí tuệ, một sự dấn thân quả cảm. Cái chúng ta thiếu là một Utopia tự do, một cương lĩnh dường như chẳng phải là một sự bảo vệ đơn thuần các thứ như chúng vốn thế, cũng chẳng phải là một loại dung dịch pha loãng của chủ nghĩa xã hội, mà là một chủ nghĩa cấp tiến tự do thật sự, loại chủ nghĩa không có chỗ cho tính dễ tự ái của kẻ hùng mạnh (kể cả các công đoàn), không quá thực tiễn một cách khắt khe, và không giới hạn mình ở cái ngày nay tỏ ra là khả dĩ về mặt chính trị. Chúng ta cần các lãnh tụ trí thức, những người miễn dịch được với mật ngọt của quyền lực và ảnh hưởng, và sẵn sàng làm việc cho một lí tưởng, dẫu triển vọng hiện thực hoá trong giai đoạn trước mắt của nó có nhỏ nhoi đến nhường nào. Họ phải là những người sẵn sàng gắn mình vào các nguyên lý và tranh đấu vì sự hiện thực hoá chúng một cách đầy đủ, dẫu còn xa đến đâu. Họ phải để những nhượng bộ thực tiễn cho các chính trị gia. Thương mại tự do và quyền tự do về cơ hội có lẽ vẫn là các lí tưởng gây phấn khích cho trí tưởng tượng của đông người, nhưng một sự “tự do thương mại hợp lý” đơn thuần hay một “sự nới lỏng kiểm soát” đơn thuần là những thứ chẳng đáng trọng về mặt trí tuệ cũng chẳng gây được cảm hứng cho bất cứ sự nhiệt tình nào. 
Bài học chủ yếu mà người theo chủ nghĩa tự do chân chính phải học từ sự thành công của những người xã hội chủ nghĩa là, chính sự dũng cảm của họ để trở thành người Utopia đã khiến họ có được sự ủng hộ của giới trí thức và vì thế có được một ảnh hưởng lên công luận, cái hàng ngày làm cho cái chỉ mới đây còn có vẻ hoàn toàn xa vời trở nên có thể. Những người chỉ biết vùi mình vào cái vẻ thực tiễn của tình trạng dư luận hiện hành thường xuyên thấy rằng ngay cả điều này cũng mau chóng trở thành không thể trên khía cạnh chính trị do những sự thay đổi trong công luận, cái mà họ đã chẳng làm gì để định hướng. Viễn cảnh của tự do quả thực vẫn còn đen tối trừ phi chúng ta có thể làm cho những nền tảng triết lí của một xã hội tự do một lần nữa lại trở thành một chủ đề trí tuệ sống động, và việc thực hiện nó trở thành một nhiệm vụ thách thức tài khéo léo cũng như trí tưởng tượng của những cái đầu hoạt bát nhất của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta có thể lấy lại niềm tin vào sức mạnh của các tư tưởng, cái đã là biểu tượng của chủ nghĩa tự do ở đỉnh điểm của nó, cuộc chiến vẫn chưa bị thua. Sự nghiệp phục hưng trí tuệ của chủ nghĩa tự do đã lên đường ở nhiều nơi trên thế giới rồi. Liệu có kịp thời không?
(Hết)
Chú thích
[1]Chính vì thế (như đã được gợi ý bởi một nhà phê bình cuốn Con đường tới nô lệ, giáo sư J. Schumpeter), không phải là “sự tôn trọng đối với một sai lầm” mà là sự xác tín sâu sắc về tầm quan trọng của điều này đã dẫn tôi, theo lời giáo sư Schumpeter, “hầu như không bao giờ gán cho các đối thủ bất cứ gì ngoài lỗi lầm trí tuệ”.
[2]Liên quan đến việc này là một hiện tượng quen thuộc khác: có ít lí do để tin rằng cộng đồng những người không phải Do Thái lại có tỷ lệ ít ỏi hơn những người có tài năng trí tuệ thực sự hàng đầu để tạo ra công trình khai nguồn so với cộng đồng người Do Thái. Tuy thế, hầu như không mấy ai nghi ngờ việc những người thuộc dòng dõi Do Thái ở hầu như tất cả mọi nơi chiếm một tỷ phần lớn không cân xứng trong giới trí thức theo định nghĩa của chúng ta, tức là những người phiên dịch tư tưởng chuyên nghiệp. Đây có lẽ là thiên phú đặc biệt của họ và tất nhiên nghề này là cơ hội chủ yếu của họ ở những nước có định kiến cản trở họ trên con đường chiếm lĩnh các lĩnh vực khác. Lý do họ chiếm một tỉ lệ lớn đến vậy trong giới trí thức có lẽ là một lý do hợp lý hơn cả để giải thích việc họ có vẻ tiếp nhận các tư tưởng xã hội chủ nghĩa dễ dàng hơn nhiều so với những người thuộc dòng dõi khác.
[3]Thí dụ nhãn tiền nhất mới đây về kiểu qui kết như vậy là việc một số bình luận về tác phẩm Chính sách kinh tế cho một xã hội tự do (Economic Policy for a Free Society)(1948) của Henry Simons đã quá cố cho rằng công trình vốn có hơi hướng tự do phi chính thống này là “xã hội chủ nghĩa”. Một ai đó không nhất thiết phải đồng ý với tất cả nội dung của công trình này, và thậm chí một ai đó có thể coi một số gợi ý trong đó là không tương thích với một xã hội tự do, nhưng vẫn cần phải thừa nhận rằng nó là một trong những đóng góp quan trọng nhất được đưa ra gần đây cho vấn đề của chúng ta và đúng là loại công trình mà đòi hỏi chúng ta cần phải bắt đầu thảo luận từ những vấn đề nền tảng. Ngay cả những người kịch liệt không chấp nhận một số gợi ý của nó cũng nên hoan nghênh tiếp nhận nó như là một đóng góp nêu ra được các vấn đề trung tâm của thời đại chúng ta một cách rõ ràng và dũng cảm.
[4]Acton, The History of Freedom, I (1922)
(Nguồn http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8456&rb=0301)
Read More...

Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội (P1/2)

Friedrich A. Hayek
Đinh Tuấn Minh dịch 
I
Có một niềm tin sâu đậm phổ biến ở tất cả các nước dân chủ, ở Mỹ niềm tin này thậm chí còn sâu sắc hơn, rằng ảnh hưởng của giới trí thức đối với chính trị là không đáng kể. Không còn nghi ngờ gì điều này là đúng khi nói về sức mạnh của những người trí thức trong việc khiến các ý kiến riêng biệt của mình về hiện tại ảnh hưởng đến các quyết định của quần chúng, xét ở mức độ làm thay đổi tỷ lệ bầu cử đại chúng về các vấn đề mà họ có quan điểm khác với các quan điểm hiện thời của quần chúng. Tuy nhiên, xét trong những khoảng thời gian dài hơn một chút, thì có lẽ chưa bao giờ họ có được một ảnh hưởng lớn như họ đang có ngày nay ở chính các nước đó. Họ nắm được quyền lực này bằng định hướng dư luận. 
Có một điều hơi lạ là, dưới ánh sáng của lịch sử mới đây, quyền lực có tính quyết định này của nhóm những người môi giới trung gian chuyên nghiệp về tư tưởng (the professional secondhand dealers in ideas) vẫn chưa được thừa nhận ở một qui mô rộng lớn hơn. Diễn tiến chính trị của thế giới phương Tây trong một trăm năm qua là một minh họa sáng tỏ nhất. Lúc đầu chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ và chẳng ở đâu là một phong trào của tầng lớp lao động. Nó chẳng hề là một phương thuốc hiển nhiên cho một hiểm họa hiển nhiên nhất thiết đòi hỏi bởi các lợi ích của tầng lớp ấy. Nó là một kiến tạo của các nhà lí luận, bắt nguồn từ các xu hướng nhất định của tư duy trừu tượng mà chỉ giới trí thức mới tỏ tường được sau một khoảng thời gian dài; và nó đòi hỏi những nỗ lực dài hơi của giới trí thức trước khi các tầng lớp lao động bị thuyết phục để chấp nhận nó như là cương lĩnh của họ. 
Trong mọi quốc gia đã chuyển sang hướng chủ nghĩa xã hội, trước pha phát triển trong đó chủ nghĩa xã hội có vai trò quyết định đối với hoạt động chính trị là một giai đoạn nhiều năm trong đó các lí tưởng xã hội chủ nghĩa đã chi phối tư duy của nhóm trí thức hoạt động tích cực hơn. Tại Đức giai đoạn này đã đạt được vào cuối thế kỉ trước; ở Anh và Pháp, vào khoảng thời gian Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Đối với nhà quan sát tình cờ, thì dường như Hoa Kì đã tiến tới pha này sau Chiến tranh Thế giới lần II và sức hấp dẫn của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa và chỉ huy đối với giới trí thức Mỹ giờ đây mạnh mẽ giống như là nó đã từng hấp dẫn các đồng nghiệp Đức hay Anh của họ. Kinh nghiệm gợi ý rằng, một khi đã chuyển sang giai đoạn này thì việc các quan điểm do giới trí thức nắm giữ bây giờ trở thành xung lực chi phối hoạt động chính trị chỉ còn là vấn đề thời gian. 
Vì thế, đặc điểm của quá trình theo đó các quan điểm của giới trí thức ảnh hưởng đến hoạt động chính trị ngày mai khiến chúng ta cần lưu tâm trên cả sự quan tâm học thuật. Bất kể chúng ta muốn chỉ đơn thuần nhìn thấy trước hay chỉ muốn thử tác động đến diễn tiến của các sự kiện thì đặc điểm trên là một nhân tố có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với thường được hiểu. Cái đối với người quan sát đương thời có vẻ như là cuộc đấu tranh giữa các lợi ích mâu thuẫn nhau thì thực ra thường là cái đã được quyết định trước từ lâu trong một cuộc đụng chạm giữa các tư tưởng diễn ra trong các nhóm hẹp. Tuy vậy, khá ngược đời là nhìn chung các đảng phái cánh tả một mặt đã nỗ lực nhiều nhất để truyền bá niềm tin rằng chính sức mạnh về lượng của các lợi ích vật chất đối ngược nhau mới là cái quyết định các vấn đề chính trị, thì mặt khác trong thực tiễn chính các đảng phái này lại thường xuyên hành động và thành công cứ như thể họ hiểu được vị trí then chốt của giới trí thức. Dù là do có chủ định hay do hoàn cảnh bắt buộc, họ đã luôn luôn nỗ lực hết mình để tranh thủ sự ủng hộ của giới élite (giới tinh hoa) này. Trong khi các đảng phái bảo thủ hơn thì lại hành động, cũng đều đặn nhưng không thành công, trên một quan điểm ấu trĩ hơn về dân chủ số đông và thường nỗ lực một cách vô vọng để tiếp cận và thuyết phục trực tiếp cử tri cá nhân. 
II
Tuy nhiên, thuật ngữ “trí thức” không truyền đạt ngay tức thì bức tranh trung thực về cái tầng lớp rộng lớn mà chúng ta nhắc đến và thực tế rằng việc chúng ta không có được một cái tên tốt hơn để mô tả cái mà chúng ta gọi là nhóm những người môi giới trung gian về tư tưởng không phải là lí do quá tầm thường vì sao quyền lực của họ lại không được hiểu đúng. Ngay cả các cá nhân vốn dùng từ “trí thức” chủ yếu theo cách lạm dụng vẫn có thiên hướng loại bỏ nhiều người rõ ràng thực hiện chức năng đặc trưng đó. Chức năng này chẳng phải là chức năng của nhà tư tưởng khai nguồn (original thinkers), cũng không phải của học giả hay chuyên gia về một lĩnh vực tư duy cụ thể nào. Người trí thức điển hình không phải là một trong hai loại đó: anh ta không cần có tri thức đặc biệt về bất cứ cái gì cụ thể, thậm chí chẳng cần quá thông minh, để thực hiện vai trò của mình với tư cách người môi giới trong việc truyền bá tư tưởng. Cái làm cho anh ta đủ tư cách thực hiện công việc của mình là anh ta có thể dễ dàng nói và viết trên một dải rộng các chủ đề, và có một vị trí hay các thói quen mà qua đó anh ta đón nhận các tư tưởng mới sớm hơn những người anh ta truyền đạt cho. 
Thật khó có thể hình dung được tầng lớp này rộng lớn đến cỡ nào, phạm vi hoạt động của nó liên tục gia tăng ra sao trong xã hội hiện đại, và vì sao tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào nó chỉ đến khi chúng ta bắt tay vào liệt kê tất cả các ngành nghề và các hoạt động thuộc về tầng lớp này. Tầng lớp này không chỉ gồm các nhà báo, các nhà giáo, các mục sư, các giảng viên, những chuyên gia thời sự, các nhà bình luận radio, các nhà viết tiểu thuyết, những người vẽ tranh biếm họa, và các nghệ sĩ – tất cả những người này có thể là các bậc thầy về kĩ thuật truyền đạt các tư tưởng nhưng thường là những người nghiệp dư xét ở chừng mực liên quan đến thực chất vấn đề mà họ truyền đạt. Tầng lớp này cũng gồm nhiều nhà chuyên môn và người làm kĩ thuật, chẳng hạn các nhà khoa học và các bác sĩ, những người mà thông qua sự tiếp xúc thường xuyên với các ấn phẩm trở thành những người truyền tải các tư tưởng mới không thuộc lĩnh vực chuyên môn của họ và những người mà, vì tri thức uyên thâm của họ về các chủ đề riêng của họ, được mọi người lắng nghe với sự kính trọng khi họ bàn về hầu như mọi thứ khác. Ngày nay, người bình thường hiểu biết về về các sự kiện hoặc các tư tưởng hầu như thông qua tầng lớp này; và ngoài các lĩnh vực chuyên môn của mình hầu như tất cả chúng ta xét trên khía cạnh này đều là những người bình thường, những người vốn có nhu cầu về thông tin và kiến thức phụ thuộc vào những người biến nhu cầu này thành việc làm theo sát dư luận của họ. Chính giới trí thức theo nghĩa này mới là những người quyết định quan điểm và dư luận nào đến với chúng ta, những sự thực nào đủ tầm quan trọng mà chúng ta nên biết, và chúng được trình bày dưới dạng nào và từ góc cạnh nào. Liệu chúng ta có biết được các kết quả nghiên cứu của chuyên gia và của nhà tư tưởng khai nguồn nào đó hay không chủ yếu phụ thuộc vào quyết định của giới trí thức này. 
Người bình thường có lẽ không ý thức đầy đủ được đâu là mức độ ảnh hưởng của tầng lớp này ngay cả đối với việc hình thành danh tiếng đại chúng (popular reputation) của các nhà khoa học và các học giả và sự chi phối không thể tránh khỏi bởi các quan điểm của tầng lớp này về các chủ đề vốn chẳng mấy liên quan đến các nội dung của các thành tựu thực sự. Và đặc biệt quan trọng đối với vấn đề của chúng ta là mỗi học giả có lẽ đều có thể nêu ra được nhiều ví dụ từ lĩnh vực của mình về những người đã đạt được danh tiếng đại chúng một cách không xứng đáng như các nhà khoa học lớn chỉ bởi lẽ họ bám giữ cái mà giới trí thức coi là quan điểm chính trị “tiến bộ”; nhưng có lẽ tôi vẫn nên điểm qua một thí dụ nơi kiểu hư danh khoa học (scientific pseudo-reputation) như vậy lại được ban cho học giả vốn có thiên hướng bảo thủ hơn. Việc tạo ra danh tiếng kiểu này bởi giới trí thức là đặc biệt ảnh hưởng trong các lĩnh vực nơi các kết quả nghiên cứu chuyên môn không được các nhà chuyên môn khác sử dụng, mà lại đa phần phụ thuộc vào quyết định chính trị của công chúng. Quả thực về điều này hiếm có minh họa nào tốt hơn thái độ mà các nhà kinh tế học chuyên nghiệp dành cho sự phát triển của các học thuyết như chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa bảo hộ. Có lẽ đa số các nhà kinh tế học, những người có danh tiếng được công nhận bởi các đồng nghiệp trong giới của họ, chưa khi nào lại đi ưa thích chủ nghĩa xã hội (hay với cả chủ nghĩa bảo hộ). Thậm chí hoàn toàn có thể đúng khi nói rằng không có nhóm các nhà nghiên cứu tương tự nào lại có một tỉ lệ các thành viên của mình cao đến vậy dứt khoát chống chủ nghĩa xã hội (hay chủ nghĩa bảo hộ). Một điều còn có ý nghĩa hơn là, trong thời gian gần đây, người ta có khuynh hướng chọn kinh tế học làm nghề của mình không phải là do sự quan tâm ban đầu đến những kế hoạch cải cách theo thiên hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không phải là các quan điểm đa số của các chuyên gia mà là các quan điểm của một thiểu số, phần lớn thường có vị trí khá đáng ngờ trong nghề nghiệp của mình, lại được giới trí thức vớ lấy và truyền tụng. 
Ảnh hưởng lan tỏa khắp của giới trí thức trong xã hội đương thời còn được củng cố thêm bởi tầm quan trọng ngày càng gia tăng của “tổ chức”. Một niềm tin phổ biến, nhưng có lẽ sai lầm, rằng sự gia tăng của tổ chức làm tăng ảnh hưởng của chuyên gia hay nhà chuyên môn. Điều này có thể đúng đối với chuyên gia hành chính và chuyên gia tổ chức, nếu có những người như vậy, nhưng hầu như là không đúng đối với chuyên gia trong bất cứ lĩnh vực tri thức cụ thể nào. Đúng hơn là điều này làm tăng quyền lực của người mà có kiến thức chung đủ để đánh giá lời phát biểu của chuyên gia và để so sánh đánh giá giữa các chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, điểm quan trọng đối với chúng ta là, một học giả mà trở thành hiệu trưởng trường đại học, một nhà khoa học mà chịu trách nhiệm về một viện hay một quỹ, một học giả mà trở thành một nhà biên tập hay người bảo trợ tích cực của một tổ chức phục vụ một sự nghiệp đặc biệt nào đó, tất cả mau chóng không còn là các học giả hay chuyên gia nữa và trở thành các trí thức theo định nghĩa của chúng ta ở đây, những người mà đánh giá tất cả các vấn đề không phải bằng các phẩm tính đặc thù của chúng, mà, theo cách thức đặc trưng của những người trí thức, chỉ dựa theo ánh sáng của các tư tưởng thời thượng chung nhất định. Số lượng các tổ chức như vậy, nơi sản sinh ra các trí thức và làm tăng số lượng và quyền lực của họ, tăng lên mỗi ngày. Hầu như tất cả các “chuyên gia” chỉ về kĩ năng làm cho tri thức luân chuyển, liên quan tới chủ đề mà họ xử lí, là các trí thức chứ không phải là các chuyên gia. 
Theo nghĩa mà chúng ta sử dụng thuật ngữ, thì giới trí thức thực ra là một hiện tượng khá mới mẻ của lịch sử. Dẫu rằng chẳng ai còn tiếc nuối việc giáo dục đã không còn là một đặc ân của các tầng lớp giàu có, thì sự thực rằng các tầng lớp giàu có đã không còn là những người được giáo dục tốt nhất nữa, và sự thực rằng đa phần những người mà có địa vị [trong xã hội] chỉ đơn thuần nhờ giáo dục phổ thông là những người không có loại kinh nghiệm về sự vận hành của hệ thống kinh tế vốn có được từ việc quản lí tài sản là những điểm đáng lưy ý để hiểu được vai trò của giới trí thức. Giáo sư Schumpeter, người đã dành một chương sáng sủa trong cuốn Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, và dân chủ (Capitalism, Socialism, and Democracy) của mình để bàn về một số khía cạnh của vấn đề của chúng ta, đã nhấn mạnh không phải không công bằng rằng chính cái sự thiếu vắng trách nhiệm trực tiếp đối với các công việc thực hành và hệ quả là sự thiếu vắng tri thức trực tiếp về chúng mới là cái để phân biệt người trí thức điển hình với những người khác mà cũng nắm được quyền lực của lời nói và chữ viết. Tuy vậy, sẽ là đi quá xa ở đây để xem xét kỹ càng hơn sự phát triển của tầng lớp này và một tuyên bố lạ kì được cổ vũ gần đây bởi một trong những nhà lí luận của nó, rằng chỉ những ai có các quan điểm dứt khoát không bị chi phối bởi các lợi ích kinh tế mới là người trí thức. Một trong những điểm quan trọng cần được xem xét đối với một thảo luận kiểu như thế có lẽ là: luật bản quyền đã gây ra một kích thích nhân tạo đối với mức độ tăng trưởng của tầng lớp này như thế nào [9] ? 
III
Không ngạc nhiên rằng học giả hay chuyên gia thực sự và người làm các công việc thực tiễn thường coi khinh người trí thức, không thích thừa nhận quyền lực của anh ta, và cảm thấy phẫn nộ khi khám phá ra điều đó. Xét từng cá nhân một, họ thấy giới trí thức hầu hết là những người chẳng có hiểu biết gì đặc biệt sâu sắc và đánh giá của họ về các vấn đề họ hiểu cho thấy ít dấu hiệu của sự uyên thâm đặc biệt. Nhưng sẽ là sai lầm chết người khi đánh giá thấp quyền lực của họ vì lí do này. Cho dù kiến thức của họ thường hời hợt và trí tuệ của họ có hạn thì điều này không làm thay đổi sự thực rằng chính đánh giá của họ mới là nhân tố chủ yếu quyết định quan điểm mà xã hội sẽ hành xử trong tương lai không quá xa. Không cường điệu khi nói rằng, một khi bộ phận tích cực hơn của giới trí thức đã ngả theo một tập hợp các niềm tin thì điều tiếp theo sẽ là một quá trình hầu như tự động và không thể cưỡng lại được, theo đó những niềm tin này nói chung sẽ được [quần chúng] chấp nhận. Những trí thức này là những phần tử hữu cơ mà xã hội hiện đại đã sản sinh ra để truyền bá tri thức và tư tưởng, và chính các xác tín (convictions) và ý kiến của họ mới là bộ phận hoạt động giống như một chiếc sàng mà tất cả các quan niệm mới phải lọt qua trước khi có thể đến được với quần chúng. 
Bản chất công việc của người trí thức là anh ta phải dùng tri thức và xác tín của riêng mình để thực hiện nhiệm vụ hàng ngày. Anh ta duy trì được địa vị của mình bởi vì anh ta sở hữu, hoặc hàng ngày phải sử dụng, loại tri thức mà người chủ của anh ta nói chung không có, và vì thế những người khác chỉ có thể chi phối các hoạt động của anh ta ở mức độ giới hạn. Và chính vì giới trí thức hầu hết là những người trung thực về mặt trí tuệ nên một điều không thể tránh khỏi là họ sẽ theo các xác tín của chính mình bất cứ khi nào họ được tự do làm theo ý mình và họ sẽ đưa ra một định kiến tương ứng đối với mọi thứ qua tay họ. Ngay cả khi việc định hướng chính sách nằm trong tay các nhà hoạt động thực tiễn với những quan điểm khác nhau thì nói chung việc thực hiện chính sách vẫn sẽ nằm trong tay các trí thức, và thông thường thì quyết định về chi tiết là cái xác định kết quả cuối cùng. Chúng ta thấy điều này được minh họa hầu như trong tất cả các lĩnh vực của xã hội đương thời. Các tờ báo do chủ “tư bản” sở hữu, các đại học do các hội đồng quản trị “phản động” chỉ huy, các hệ thống truyền thông do các chính phủ bảo thủ sở hữu, đều được biết đến như là những cơ quan tác động đến dư luận theo hướng chủ nghĩa xã hội, bởi vì đấy đã là xác tín của nhân viên. Điều này thường xảy ra không chỉ bất chấp, mà thậm chí có lẽ bởi vì, các nỗ lực của những người ở trên đỉnh muốn kiểm soát dư luận và áp đặt các nguyên tắc chính thống. 
Ảnh hưởng của việc sàng lọc các tư tưởng thông qua các xác tín của một tầng lớp mà tự gắn mình vào những quan điểm nhất định chẳng hề bó hẹp chỉ trong phạm vi quần chúng. Ngoài lĩnh vực chuyên môn của mình, chuyên gia nói chung cũng không kém phụ thuộc vào tầng lớp này và hiếm khi tránh khỏi việc bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của họ. Kết quả của việc này là, ngày nay trong hầu hết các thành phần của thế giới phương Tây, ngay cả những người chống đối chủ nghĩa xã hội quyết liệt nhất, cũng tìm thấy nguồn gốc tri thức của mình từ các nguồn xã hội chủ nghĩa về hầu như mọi chủ đề mà họ không có thông tin trực tiếp. Việc càng có nhiều định kiến chung thuộc tư duy xã hội chủ nghĩa thì càng có nhiều mối quan hệ giữa hệ tư tưởng này với các kiến nghị thực tiễn chẳng hề hiển nhiên ngay lập tức, và hậu quả là nhiều người mặc dù tin mình là những người chống đối kiên quyết đối với hệ tư tưởng đó thực ra lại trở thành những người truyền bá hữu hiệu các tư tưởng đó. Ai mà lại không biết việc những người hành động thực tiễn, trong lĩnh vực riêng của mình thì lên án chủ nghĩa xã hội là “thối tha độc hại” nhưng, khi bước ra khỏi chủ đề của mình thì lại tuôn ra chủ nghĩa xã hội như bất cứ nhà báo cánh tả nào? 
Không ở trận tuyến nào mà ảnh hưởng vượt trội của giới trí thức xã hội chủ nghĩa lại mạnh mẽ suốt trong một trăm năm qua bằng ảnh hưởng lên các mối quan hệ giữa các nền văn minh dân tộc khác nhau. Sẽ vượt quá giới hạn của bài viết này để truy tìm các nguyên nhân và tầm quan trọng của sự thực rất quan trọng rằng trong thế giới hiện đại giới trí thức hầu như là chiếc cầu nối duy nhất để hình thành một cộng đồng quốc tế. Đây mới chính là nhân tố chủ yếu để giải thích cảnh tượng lạ thường rằng, trong nhiều thế hệ, phương Tây – nơi được xem là “tư bản chủ nghĩa” – lại đi ủng hộ vật chất và tinh thần hầu như chỉ riêng cho các phong trào ý thức hệ ở các nước tít tận phương Đông, nơi mong muốn làm xói mòn nền văn minh phương Tây; và rằng, đồng thời, thông tin mà công chúng phương Tây nhận được về các sự kiện ở Trung và Đông Âu hầu như không thể tránh khỏi bị một thiên kiến xã hội chủ nghĩa tô vẽ. Nhiều hoạt động “giáo dục” của các lực lượng Mĩ đóng tại Đức đã cung cấp các ví dụ rõ ràng và mới mẻ về xu hướng này. 
IV
Vì thế, việc hiểu đúng các lí do khiến cho nhiều người trong giới trí thức có xu hướng ngả theo chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng. Ở đây, điểm đầu tiên mà những người không chấp nhận khuynh hướng tư tưởng này phải thẳng thắn đối mặt là, chẳng phải các lợi ích bản thân cũng chẳng phải các ý định xấu xa, mà chủ yếu là các xác tín trung thực và các ý định tốt đẹp mới là những cái quyết định quan điểm của giới trí thức. Quả thực, cần phải công nhận rằng, xét về tổng thể, người trí thức điển hình ngày nay càng dễ trở thành một người xã hội chủ nghĩa nếu anh ta càng được dẫn dắt bởi thiện ý và trí tuệ, và rằng trên bình diện lí lẽ trí tuệ thuần túy anh ta nói chung sẽ có khả năng chứng tỏ mình giỏi hơn đa số các đối thủ của mình bên trong tầng lớp mình. Nếu chúng ta vẫn nghĩ rằng anh ta sai thì chúng ta phải thừa nhận rằng đó có lẽ phải là sự sai lầm đích thực (genuine error) khiến cho những người có ý tốt và thông minh, nắm giữ các địa vị then chốt trong xã hội của chúng ta lại đi truyền bá các quan điểm mà đối với chúng ta là một mối đe dọa đối với nền văn minh của nhân loại [1] . Không có gì quan trọng hơn là phải cố gẳng hiểu được những nguồn gốc của sai lầm này để chúng ta có khả năng chống lại nó. Thế mà những người nói chung được coi như là các đại diện của trật tự hiện hành và những người tin rằng họ hiểu được các mối nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội lại thường còn rất xa mới nắm bắt được điều này. Họ có khuynh hướng coi giới trí thức xã hội chủ nghĩa chẳng là gì hơn một lũ mọt sách cấp tiến thay vì đánh giá cao ảnh hưởng của họ và, bằng toàn bộ thái độ của mình đối với họ, lại có khuynh hướng đẩy họ lún sâu hơn vào việc chống đối trật tự hiện hành. 
Muốn hiểu được khuynh hướng tư tưởng lạ kì này của một phần lớn giới trí thức, chúng ta phải làm rõ hai điểm. Thứ nhất, thông thường họ xét đoán tất cả các vấn đề cụ thể chỉ dưới ánh sáng của các tư tưởng chung nào đó; thứ hai, các sai lầm đặc trưng của bất cứ thời đại nào thường xuất phát từ một số chân lí mới đích thực được khám phá ra ở thời đại ấy, và chúng là các áp dụng sai lầm của những khái quát hóa mới vốn được chứng tỏ là có giá trị trong các lĩnh vực khác. Kết luận của chúng ta sau khi cân nhắc đầy đủ các thực tế này là: việc bác bỏ thuyết phục các sai lầm như vậy sẽ thường đòi hỏi sự tiến bộ trí tuệ hơn nữa, và thường là sự tiến bộ về các điểm rất trừu tượng và có vẻ rất xa các vấn đề thực tiễn. 
Có lẽ nét đặc trưng nhất của người trí thức là: anh ta phán xử các tư tưởng mới không phải bằng các phẩm tính cụ thể của chúng mà bằng sự sẵn sàng ăn khớp của chúng với những quan niệm chung của anh ta, với bức tranh về thế giới mà anh ta cho là hiện đại hay tiên tiến. Thông qua ảnh hưởng của chúng đối với anh ta và đối với sự lựa chọn ý kiến của anh ta về các vấn đề cụ thể, quyền lực của các tư tưởng đối với cái thiện và cái ác tăng lên tỉ lệ thuận với tính tổng quát, tính trừu tượng, và thậm chí tính mơ hồ của chúng. Khi anh ta biết ít về các vấn đề cụ thể, tiêu chuẩn của anh ta phải nhất quán với các quan điểm khác của anh ta và phải phù hợp để gắn kết được vào một bức tranh mạch lạc về thế giới. Thế nên, việc lựa chọn này từ vô số tư tưởng mới phô bày ra ở mọi thời điểm tạo ra bầu không khí đặc trưng về quan điểm, cái Weltanschauung(thế giới quan) thống lĩnh của một thời kì, cái sẽ thuận lợi cho sự chấp nhận một số quan điểm và không thuận lợi cho các ý kiến khác, và cái sẽ làm cho người trí thức sẵn sàng chấp nhận một kết luận và bác bỏ kết luận khác mà không cần phải có hiểu biết thật sự về các vấn đề. 
Trong một số khía cạnh người trí thức thực ra gần với triết gia hơn là với bấy cứ nhà chuyên môn nào, và theo một nghĩa sâu xa hơn triết gia là một loại ông hoàng trong giới trí thức. Tuy ảnh hưởng của ông ta là xa vời với công việc thực tiễn và vì thế chậm hơn và khó lần ra dấu vết hơn ảnh hưởng của người trí thức thường, nó cùng loại và về dài hạn thậm chí có tác động mạnh hơn ảnh hưởng của người trí thức thường. Đối với cả hai người, chính cùng nhiệt huyết hướng tới một sự tổng hợp, nhưng với triết gia thì được theo đuổi một cách có phương pháp hơn, cùng sự đánh giá về những quan điểm cụ thể ở chừng mực mà chúng khớp với một hệ thống tư duy chung thay vì bằng các phẩm tính cụ thể của chúng, và cùng là sự cố gắng vì một thế giới quan nhất quán, là những cái tạo cơ sở chính yếu để chấp nhận hay bác bỏ các tư tưởng. Vì lí do này triết gia có lẽ có một ảnh hưởng mạnh hơn đối với giới trí thức so với bất cứ học giả hay nhà khoa học nào khác và, hơn bất cứ ai khác, là người xác định phương thức theo đó giới trí thức thực hiện chức năng sàng lọc của mình. Ảnh hưởng đại chúng của chuyên gia khoa học chỉ bắt đầu kình địch với ảnh hưởng của triết gia khi ông ta không còn là nhà chuyên môn nữa và bắt đầu triết lí về sự tiến bộ của lĩnh vực của mình – và thường chỉ sau khi ông ta được giới trí thức đẩy lên vì các lí do chẳng liên quan mấy đến thành tựu khoa học nổi tiếng của ông ta. 
Vì thế, “không khí dư luận” của bất cứ thời kì nào về cơ bản là một tập các định kiến chung theo đó giới trí thức phán xử tầm quan trọng của các hiện tượng và ý kiến mới. Các định kiến này chủ yếu là những ứng dụng mà theo anh ta thì có vẻ là các khía cạnh quan trọng nhất của các thành tựu khoa học, một sự chuyển giao sang các lĩnh vực khác cái đặc biệt gây ấn tượng với anh ta khi quan sát công việc của các nhà chuyên môn. Ta có thể đưa ra một danh mục dài về các mốt và khẩu hiệu trí tuệ, mà trong diễn tiến của hai hay ba thế hệ đã lần lượt chế ngự tư duy của giới trí thức. Dù đó là “cách tiếp cận lịch sử” hay lí thuyết tiến hóa, quyết định luận thế kỉ mười chín và niềm tin vào ảnh hưởng áp đảo của môi trường đối lại với di truyền, lí thuyết tương đối hay lòng tin vào sức mạnh của vô thức – mỗi một trong những khái niệm chung này đã được biến thành hòn đá tảng để thử nghiệm các phát kiến mới trong các lĩnh vực khác. Dường như là các tư tưởng này càng ít cụ thể hay chính xác (hay được hiểu càng kém thấu đáo), thì ảnh hưởng của chúng có lẽ lại càng rộng. Vì thế đôi khi chính cái không hơn một ấn tượng mơ hồ, hiếm khi được biểu đạt bằng ngôn từ, lại là cái có được một ảnh hưởng sâu sắc. Những niềm tin kiểu như sự kiểm soát có chủ ý hay sự tổ chức có ý thức đối với cả các quá trình xã hội thì luôn cho kết quả ưu việt hơn các quá trình tự phát không được điều khiển bởi đầu óc của một con người, hay kiểu như bất cứ trật tự nào dựa trên một kế hoạch được đưa ra trước đó hẳn phải tốt hơn trật tự do sự cân bằng của các lực lượng đối trọng nhau tạo ra, thông qua con đường này đã tác động sâu sắc đến diễn tiến chính trị. 
Vai trò của giới trí thức chỉ có vẻ khác hẳn khi mà người ta quan tâm tới sự phát triển của các lý tưởng xã hội đúng đắn hơn. Ở đây các thiên hướng lạ kì của họ tự biểu lộ trong việc hình thành các khẩu hiệu của các quá trình trừu tượng hóa, trong duy lí hóa và đẩy đến cực đoan những hoài bão nhất định nào đó nảy sinh từ sự giao tiếp bình thường của con người. Vì dân chủ là một điều tốt nên nguyên lý dân chủ càng có thể được đẩy xa hơn thì đối với họ càng có vẻ đưa đến kết cục tốt hơn. Lý tưởng mạnh nhất trong các tư tưởng chung này, những cái đã định hình sự phát triển chính trị trong thời gian mới đây, tất nhiên là lý tưởng về bình đẳng vật chất. Nó, một cách đặc trưng, không phải là một trong những xác tín đạo đức phát triển một cách tự phát, được áp dụng đầu tiên trong quan hệ giữa các cá nhân cụ thể, mà là một kiến tạo trí tuệ được thai nghén dưới dạng trừu tượng và có ý nghĩa cũng như khả năng ứng dụng mù mờ trong các trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, nó đã hoạt động một cách mạnh mẽ như là một nguyên lý chọn lọc giữa các phương án khác nhau của chính sách xã hội, gây ra một áp lực dai dẳng lên quá trình tổ chức các công việc xã hội mà chẳng ai hình dung ra được một cách rõ ràng. Rằng một biện pháp cụ thể có khuynh hướng dẫn đến sự bình đẳng lớn hơn thì có xu hướng được xem như là một kiến nghị mạnh đến mức hiếm còn biện pháp nào khác được cân nhắc đến. Do đối với mỗi vấn đề cụ thể chính đây là một khía cạnh mà những người định hướng dư luận có một xác tín rõ ràng nên lý tưởng bình đẳng đã quyết định sự thay đổi xã hội thậm chí còn mạnh hơn mức độ mà những người chủ trương nó dự định. 
Tuy nhiên, các lí tưởng đạo đức không chỉ vận động theo cách này. Đôi khi thái độ của giới trí thức đối với các vấn đề về trật tự xã hội có thể là hệ quả của những tiến bộ về tri thức khoa học thuần túy; và trong các trường hợp này, các quan điểm sai lầm của họ về các vấn đề cụ thể trong một thời gian dường như chứa đựng tất cả uy tín của các thành tựu khoa học mới nhất đứng đằng sau chúng. Chúng ta không nên ngạc nhiên khi một tiến bộ đích thực về tri thức tự bản thân nó thỉnh thoảng lại trở thành nguồn gốc của một lỗi lầm mới theo cách thức này. Nếu không có kết luận sai nào tiếp sau những khái quát hóa mới thì chúng sẽ là những chân lí cuối cùng và chẳng bao giờ cần hiệu chỉnh lại. Mặc dù, như là một qui luật, một khái quát hóa mới như vậy sẽ chỉ đơn thuần chứa đựng các hệ quả sai mà có thể rút ra được từ khái quát hoá đó cộng với các quan điểm đã được chấp nhận trước đây, và như thế sẽ không dẫn tới sai lầm mới, nhưng rất có khả năng là một lí thuyết mới, chỉ vì giá trị của nó được chứng tỏ bởi những kết luận mới hợp lệ có được từ nó, sẽ tạo ra những kết luận mới khác mà sẽ bị chứng tỏ là sai lầm bởi sự tiến bộ tiếp theo. Song trong trường hợp như vậy một niềm tin sai lạc sẽ xuất hiện với tất cả uy tín của tri thức khoa học mới nhất ủng hộ nó. Mặc dù trong một lĩnh vực khoa học cụ thể mà niềm tin [sai lạc] đó được gắn với mọi bằng chứng khoa học có lẽ đều chống lại niềm tin đó, nhưng trước tòa án của giới trí thức và dưới ánh sáng của các tư tưởng chi phối tư duy của họ thì nó vẫn được lựa chọn như là quan điểm phù hợp nhất với tinh thần thời đại. Vì thế, các nhà chuyên môn có được danh tiếng trong công chúng và có ảnh hưởng rộng rãi sẽ không phải là những người được các đồng nghiệp trong giới của họ công nhận mà thường là những người bị các nhà chuyên môn khác coi là chơi nổi (crank), nghiệp dư, thậm chí là lừa lọc, nhưng dưới con mắt của công chúng nói chung thì họ lại trở thành những nhân vật nổi tiếng nhất trong lĩnh vực của họ. 
Cụ thể là, hầu như không còn nghi ngờ gì nữa rằng cách thức mà con người học được để tổ chức các lực lượng tự nhiên trong vòng một trăm năm qua đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra một thứ niềm tin rằng một sự kiểm soát tương tự các lực lượng xã hội sẽ mang lại những tiến bộ tương đương trong điều kiện [xã hội] loài người. Một kết luận rằng, với việc áp dụng những biện pháp kĩ nghệ (engineering techniques), việc điều khiển tất cả các hình thức hoạt động của con người trong xã hội theo một kế hoạch thống nhất sẽ mang lại thành công như nó đã thành công trong vô vàn nhiệm vụ kĩ thuật, có vẻ là một kết luận không phải là không quá hay để quyến rũ được hầu hết những người phấn chấn bởi thành tựu của lĩnh vực khoa học tự nhiên. Có hai điểm quả thực phải thừa nhận là, [thứ nhất], để bẻ lại cái giả định chắc chắn dẫn đến việc ủng hộ một kết luận như vậy thì sẽ cần phải có những lí lẽ mạnh mẽ và [thứ hai], các lí lẽ này vẫn chưa được đưa ra một cách thỏa đáng. Việc chỉ ra những khuyết điểm của các đề xuất cụ thể dựa trên loại lập luận này là không đủ. Cái lí lẽ đó sẽ không mất đi sức mạnh của nó cho tới khi chúng ta có thể chỉ ra một cách thuyết phục vì sao cái đã tỏ ra thành công vang dội đến vậy trong việc đem lại những tiến bộ trong vô vàn lĩnh vực lại vẫn có những giới hạn đối với tính hữu ích của nó và sẽ trở nên cực kỳ nguy hại nếu được mở rộng quá các giới hạn này. Đây là một nhiệm vụ vẫn chưa được theo đuổi tới nơi tới chốn và nó cần phải được hoàn thành trước khi nghĩ tới việc có thể loại bỏ được động lực hướng tới chủ nghĩa xã hội. 
Tất nhiên, đây chỉ là một trong nhiều trường hợp nơi cần thêm tiến bộ trí tuệ để bác bỏ các tư tưởng có hại trong trào lưu hiện thời, và công cuộc mà chúng ta sẽ tiến tới, xét đến cùng, sẽ được quyết định bởi việc thảo luận về những vấn đề rất trừu tượng. Sự tin tưởng của một người làm công việc thực tiễn dựa trên những hiểu biết sâu sắc của anh ta về một lĩnh vực cụ thể rằng các lí thuyết về chủ nghĩa xã hội mà được suy ra từ những tư tưởng tổng quát hơn sẽ không thể hoạt động được trong thực tiễn là chưa đủ. Anh ta có thể hoàn toàn đúng, thế nhưng sự chống đối của anh ta sẽ bị lấn át và tất cả những hậu quả đáng tiếc mà anh ta phỏng đoán từ trước sẽ vẫn diễn ra trừ phi anh ta nhận được sự ủng hộ từ một bác bỏ thuyết phục đối với idées mères (các tư tưởng thuần tuý [của chủ nghĩa xã hội]). Chừng nào mà người trí thức có được loại lí lẽ chung tốt hơn, chừng đó những chống đối hợp lệ nhất đối với một vấn đề nhất định nào đó sẽ bị gạt sang một bên. 
(Hết P1/2)
Nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8456&rb=0301
Read More...

Chủ nghĩa cá nhân: Chân và Giả (P2/2)

Friedrich A. von Hayek
Đinh Tuấn Minh dịch
5. 
Từ nhận thức về những sự hạn chế của tri thức cá nhân và từ thực tế là không ai hoặc không một nhóm nhỏ người nào có thể biết đầy đủ về cái mà một ai đó biết, chủ nghĩa cá nhân chân chính cũng đưa ra kết luận thực tiễn chủ đạo của nó là: sự đòi hỏi về việc hạn chế chặt chẽ tất cả các loại quyền lực độc tôn hoặc quyền lực cưỡng bức. Tuy vậy, nó chỉ chống lại việc sử dụng sự cưỡng bức trong việc hình thành tổ chức hay hiệp hội chứ không chống lại bản thân hiệp hội như nó hiện hữu. Thay vì trở thành đối nghịch với hiệp hội tự nguyện thì ngược lại, kho tàng của người theo chủ nghĩa cá nhân chân chính dựa trên luận điểm cho rằng hầu hết những điều mà theo ý kiến của nhiều người là chỉ có thể đạt được thông qua sự dẫn dắt có chủ đích lại có thể đạt được tốt hơn nhờ sự hợp tác tự nguyện và tự phát bởi các cá nhân. Do đó, người theo chủ nghĩa cá nhân chân chính kiên định phải là một người đam mê việc hợp tác tự nguyện, ở bất cứ nơi đâu và bất kỳ khi nào khi điều này không bị thoái hoá, biến thành sự cưỡng ép người khác tham gia hoặc dẫn tới sự hình thành các loại quyền lực độc tôn. 
Read More...

Chủ nghĩa cá nhân: Chân và Giả (P1/2)

Friedrich A. von Hayek
Đinh Tuấn Minh dịch
Với những người yêu mến và tranh đấu cho tự do cá nhân, cái tên F. A. Hayek hoàn toàn không xa lạ. Từ chỗ là người có cảm tình với chủ nghĩa xã hội, dù chỉ màu hồng kiểu Fabian, Hayek nhanh chóng nhận thức ra tính phi lý của nó và trở thành người phê phán chủ nghĩa xã hội thành công nhất trong thế kỷ 20: chủ nghĩa xã hội không mang lại sự sung túc về của cải vật chất vì nó không thể nào sử dụng được một cách có hiệu quả các tri thức thực tiễn sở hữu bởi các cá nhân trong xã hội, và chủ nghĩa xã hội cũng không đem đến tự do cho con người vì nó luôn bắt các cá nhân phải tôn thờ một khách thể không tồn tại trên thực tế nhưng lại có hình hài được vẽ ra bởi một nhóm thiểu số nắm quyền lực. Tuy nhiên, Hayek không dừng lại ở đó. Ông còn xây dựng nên cả một nền tảng triết học kinh tế chính trị cho một xã hội vì tự do cá nhân. Bài luận “Chủ nghĩa cá nhân: Chân và Giả” (Individualism: True and False) dưới đây, lấy từ cuốn Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế (Individualism and Economic Order, xuất bản năm 1948), được xem như là một bản tuyên ngôn về chủ nghĩa tự do cá nhân, tại đó, ông xác lập các nguyên lý chung nhất mà một xã hội thực sự vì sự phát triển của con người cần phải tựa vào. Dựa trên các tiền đề cơ bản này, ông đã triển khai thành những tác phẩm đồ sộ, chi tiết sau này như Hiến pháp về tự do (The Constitution of Liberty, 1960),Luật, Luật pháp, và Tự do (Law, Legislation, and Liberty, ba tập in lần lượt vào các năm 1973, 1976, và 1979), và Sự tự phụ chết người: Các sai lầm của Chủ nghĩa xã hội (The Fatal Conceit: The Errors of Socialism, 1988). 
Read More...

Thế kỷ Hayek

Đinh Tuấn Minh
 “Hầu như không quá khi nói rằng, thế kỷ XX là thế kỷ Hayek."
John Cassidy, The New Yorker, 07/02/2000
Năm 1975, David Young, một thương gia độc lập người Anh, đã quyết định từ bỏ công việc kinh doanh của mình để di cư sang Mỹ bởi vì chính phủ Anh đã khiến ông quá thất vọng. Nền kinh tế của Anh lúc bấy giờ đang rơi vào vực xoáy với mức lạm phát cao, thuế khoá nặng, và các cuộc bãi công của các nghiệp đoàn diễn ra liên miên. Vào buổi sáng ngay sau khi tới Mỹ, trong lúc đang đi dạo ngang qua Nghị viện Boston, Young và vợ bỗng tuôn trào nước mắt. Tuy nhiên, đấy không phải là vì họ nhớ tới quê hương mà họ đã bỏ lại phía sau. Đúng hơn, đó là kết quả của hơi cay do cảnh sát dùng để giải tán cuộc nổi loạn của đám sinh viên bị buộc phải đi xe buýt. Vợ ông đã nói với ông khi họ đang dùng khăn tay lau mắt: “Anh đúng là đã mất trí. Anh thật là điên rồ nếu anh nghĩ là em sẽ từ bỏ gia đình chỉ vì những thứ này”. Nền kinh tế Mỹ dưới thời chính phủ Nixon và Ford cũng chẳng hơn gì. Ngay tối hôm đó, họ đáp máy bay quay trở lại London. Trên đường đi, Young tự nhủ rằng nhất định vẫn phải còn một tia hy vọng nào đó. Và sau đấy, ông đã tìm được niềm tin ở Margaret Thatcher, người được bầu làm lãnh đạo Đảng Bảo thủ trước đấy không lâu. 
Read More...
 
Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org