Cách mạng Pháp, sự kiện chính trị vĩ đại nhất của thế kỉ 18,
đã truyền cảm hứng cho vô số các nhà tư tưởng chính trị. Trong bài này và ba
bài tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu sự ảnh hưởng về mặt triết học của nó. Đầu
tiên, chúng ta tìm hiểu sự tranh luận giữa các tác giả trong thế giới nói tiếng
Anh: Một người Anh là Richard Price đã xuất bản một khảo luận trong đó xem cuộc
cách mạng là một sự thể hiện các nguyên tắc chính trị của Anh; trong khi đó
Edmund Burke, cha đẻ của tư tưởng bảo thủ trong nền chính trị Anh Mỹ, lập luận
chống lại Price khi cho rằng cách mạng là một sự vi phạm các nguyên tắc chính
trị của Anh. Còn Thomas Pain, người viết những cuốn sách mỏng về chính trị nổi
tiếng nhất trong lịch sử Mỹ, ủng hộ cách mạng và chống lại Burke. Và Mary
Wollstonecraft cũng có quan điểm tương tự như Paine. Trong bài này, chúng ta sẽ
tìm hiểu cuộc chiến của các cuốn sách mỏng (của các tác giả kể trên), một cuộc
tranh cãi trí tuệ đầu tiên về ý nghĩa của cách mạng.
Cách mạng Pháp
· Cách mạng Pháp là sự kiện chính trị quan trọng nhất ở cuối
thế kỉ 18, có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với Cách mạng Mỹ. Điều làm cho cuộc
cách mạng này có ảnh hưởng như vậy là nó làm cho chủ nghĩa cấp tiến ngày càng
gia tăng, cuối cùng dẫn đến sự thất bại của nó.
· Bắt đầu vào tháng 6 và tháng 7 năm 1789, giai cấp tư sản và
công nhân ở Pháp nổi dậy chống lại Vua Louis XVI, bãi bỏ các đặc quyền đặc lợi
phong kiên và các đặc quyền đặc lợi của Giáo hội công giáo và thiết lập một nền
quân chủ lập hiến. Sau đó, vào năm 1792 – 1793, một nền cộng hòa được thành lập;
các cường quốc châu Âu tấn công Pháp; và vua bị xử tử.
· Năm 1789, Quốc hội Pháp thông qua Tuyên ngôn về các quyền của con người và công dân, ở một mức độ nào
đó nó tương tự với Tuyên ngôn độc lập
và Đạo luật về các quyền của Mỹ.
Nhưng vào năm 1793, đảng Jacobin cấp tiến
nắm quyền kiểm soát và, dưới sự chỉ đạo của Robespierre và Ủy ban an ninh toàn
quốc, đã xử tử hơn 10000 người bị nghi là phản quốc trong Thời kì Khủng bố.
[Tuyên ngôn về các quyền của con người và công dân]
· Những người Jacobin bị thay thế bởi Hội đồng đốc chính
(1795), hội đồng này kéo dài cho đến năm 1799, khi Napoleon lên nắm quyền, thiết
lập minh là hoàng đế vào năm 1804. Trong giai đoạn này, Pháp chiến tranh hết lần
này đến lần khác với các tế lực lớn khác ở Châu âu. Napoleon cuối cùng bị đánh
bại vào năm 1815, và vương triều Bounbon được khôi phục.
Cuộc chiến của các cuốn
sách mỏng
· Trong những tháng ngay sau khi cuộc cách mạng nổ ra, các trí
thức buộc phải lựa chọn lập trường ủng hộ hoặc chống lại nó. Một cuộc chiến nổi
tiếng còn được gọi là cuộc chiến của các cuốn sách mỏng, liên quan đến Richard
Price, Edmund Burke, Thomas Paine, và Mary Wollstonecraft.
· Trong tác phẩm Một khảo
luận về tình yêu đối với đất nước của chúng ta (1789), triết gia, tu sĩ người
Anh Richard Price (1723 – 1791) ca ngợi cách mạng, tin rằng Pháp đã thực hiện được
lời hứa của Cuộc các mạng vinh quang 1688 một cách hoàn chỉnh hơn so với Anh.
Price chê bai lòng trung thành quá mức đối với vua và tuyên bố rằng vương miện
của vua phụ thuộc vào lựa chọn của người dân, những người có quyền lựa chọn người
cai trị của họ và sa thải họ nếu họ làm sai.
[Richard Price (1723 – 1791)]
· Những quan điểm này đã khiêu khích cha đẻ của chủ nghĩa bảo
thủ hiện đại, Edmund Burke (1729 - 1797). Tác phẩm Các phản tư về Cách mạng Pháp là một phản ứng đối với (các quan điểm
của) Price, nhưng nó trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa bảo thủ truyền thống
trong nền chính trị Anh Mỹ.
[Edmund Burke (1729 - 1797)]
· Burke phủ nhận cách mạng và bất kì sự tương tự nào của nó với
Anh. Ông nói, Anh tự do bởi vì các thiết chế truyền thống của nó.
o
Ông chấp nhận quan điểm cho
rằng sự tự do ở Anh phụ thuộc vào một tập hợp các thiết chế cân bằng lẫn nhau -
hoàng gia, quý tộc, Quốc hội, giáo hội, và các quyền truyền thống của người
dân.
o
Nhưng sự cân bằng đúng đắn
là kết quả từ các bài học lịch sử, không phải là kết quả của sự suy luận triết
học được rút ra từ các quyền tự nhiên. Lịch sử mang lại những sự tự do và các
trách nhiệm cho các công dân và người cai trị, bao gồm vua.
o
Các chuẩn mực chính trị của
Anh không được rút ra từ lý tính hay các nguyên tắc triết học; chúng được chứa
đựng trong các thực tiễn và thiết chế có từ lâu đời.
· Burke bác bỏ nền dân chủ và chủ nghĩa cộng hòa cho Anh. Ông
phủ nhận quan điểm cho rằng chính quyền phải phụ thuộc vào một sự đồng thuận
công khai - một cuộc bầu cử. Tất cả mọi người có các quyền nhưng không phải là
quyền tự nhiên; họ có các quyền mà truyền thống Anh đã trao cho người dân từ
lâu đời. Đúng là người dân “có” quyền lực tối cao. Nhưng người dân muốn được
cai trị và không muốn thấy những người cai trị của họ được lựa chọn như “những
người đầy tớ”, như Price mô tả họ.
· Burke cũng phủ nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý. Các giai cấp
khác nhau có địa vị pháp lý khác nhau. Đúng là mọi người có quyền bình đẳng
nhưng “không bình đẳng ở mọi thứ”. Mỗi giai cấp có các đặc quyền truyền thống của
nó, các đặc quyền này đi cùng với nghĩa vụ và bổn phận.
· Burke đặc biệt chỉ trích các nhà lý thuyết khế ước xã hội.
Xã hội không phải là sản phẩm của sự lựa chọn ở một khoảnh khắc nào đó. Nếu có
một “khế ước” giữa mọi người, thì nó phải vĩnh viễn, không được diễn đạt ra, và
bao gồm cả người chết và người chưa sinh ra trong nó.
· Điều mà Burke bác bỏ mạnh mẽ nhất là nỗ lực của các nhà trí
thức để cải cách xã hội theo các nguyên tắc suy luận trừu tượng, mà không liên
quan đến truyền thống.
o
Sự cai trị của “lý tính”,
như nó được hiểu bởi những người ủng hộ các mạng, thực sự là một dạng chuyên chế.
Nghĩa là, các nhà tư tưởng ghế bành không thể dùng một tập hợp nhỏ “các nguyên
tắc duy lý” để cải cách toàn bộ xã hội.
o
Ý nghĩa văn hóa của quyền
uy là quan trọng, ngay cả khi chúng không được giải thích một cách duy lý,
chúng phải được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
· Bản chất của chủ nghĩa bảo thủ của Burke có thể được miêu tả
như sau: Quyền uy, địa vị, và bất bình đẳng là tốt lành khi xứng đáng và hợp
pháp. Đời sống xã hội trở nên khả thi bởi văn hóa đã làm thuần hóa các sự kiện
tàn nhẫn của quyền lực và tự nhiên. Phục tùng người tao nhã và biết vâng lời là
một đức hạnh, và mỗi người sẽ tìm thấy sự tôn trọng trong mối quan hệ bất bình
đẳng đó. Con người tư sản mới muốn quy giản chúng ta tới sự bình đẳng của động
vật và cởi bỏ đi những thứ vốn làm cho đời sống có thể chung sống được cũng như
trở nên đáng trân trọng.
· Burke là người bảo thủ nhưng không cứng nhắc, ông tin rằng sự
thay đổi là không thể tránh được. Chủ nghĩa bảo thủ của ông nỗ lực duy trì những
thứ tốt đẹp của xã hội hiện tại. Ông ủng hộ Cách mạng Mỹ, tin rằng vua (Anh) đã
vi phạm các quyền truyền thống của người Mỹ. Ông cũng không tán thành sự đối xử
của công ty Đông ấn với Ấn độ. Và ông chấp nhận quan điểm của Smith về kinh tế
và sự đáng mong muốn của thương mại tự do so với chủ nghĩa bảo hộ.
Thomas Pain
· Giống như Jefferson, Thomas Paine (1737 – 1809) là người ái
mộ nước Pháp. Sự phê phán của ông đối với Burke nằm trong tác phẩm Các quyền của con người (1791). Nguồn gốc
thực sự của các quyền là Thượng đế và tự nhiên; lịch sử là không liên quan. Khế
ước xã hội là một hiến pháp dựa trên sự đồng thuận, và chính quyền là công cụ
theo sau của nó.
[Thomas Paine (1737 – 1809)]
· Quyền tự nhiên là cố hữu trong con người, đó là “quyền đối với
sự tồn tại của anh ta” – điều này phù hợp với lý tính – đối lập với chính quyền,
thứ xuất hiện từ “sự mê tín hay chinh phạt”. Các quyền dân sự gắn liền với con
người vốn có cơ sở trong quyền tự nhiên. Quốc hội, là quốc gia và nắm giữ mọi
quyền. Tất cả các quyền cha truyền con nối và các dạng chính quyền hỗn hợp là
vi phạm một cách phi lý các quyền của quốc gia.
· Có lẽ cốt lõi trong sự khác nhau giữa Paine và Burke là ông
tin rằng lý tính và lịch sử là xung đột. Paine cho rằng, Burke về cơ bản là người
ủng hộ sự không duy lý, tin vào cảm xúc, tình cảm và các ngẫu nhiên của lịch sử
hơn là sự suy luận. Theo Paine, truyền thống là xấu xa, nó không thể ràng buộc
các thế hệ tương lai bởi vì mỗi thế hệ có sự tự do theo luật tự nhiên của mình.
o
Quan điểm duy lý, khai sáng
đặt quyền lực vào tay người sống để lựa chọn về đâu là người và chính sách tốt
nhất sẽ cai trị trong tương lai của họ. Giống như Jeffeson, Pain tin rằng quá
khứ đã chết và không nên đè nặng lên người sống. Tự do và tính liên tục của lịch
sử là xung khắc với nhau (tự do là tuyệt đối, không phụ thuộc vào lịch sử).
o
Nguồn gốc của các quyền, vốn
là cơ sở của chính quyền, không ở trong lịch sử mà thượng đế đã đặt chúng vào
trong bản chất của chúng ta. Mọi người là bình đẳng bởi vì họ có địa vị như
nhau với thượng đế và “có được sự tồn tại từ thượng đế”. Không thế hệ nào sở hữu
quyền hay sức mạnh có tính ràng buộc đối với thế hệ sau. Không thể có kiểu quyền
lực kế thừa, của vua hay quý tộc hay của một quyết định lịch sử nào.
Mary Wollstonecraft
· Mary Wollstonecraft (1759 -1797), một nhà văn, nhà giáo dục
độc lập, xuất bản tác phẩm Sự khẳng định
các quyền của con người vào năm (1790) như một sự phản ứng đối với Burke.
Sau đó vào năm 1972 bà cho xuất bản tác phẩm Sự khẳng định các quyền của phụ nữ.
[Mary Wollstonecraft (1759 -1797)]
· Trong tác phẩm đầu, lý lẽ của Wollstonecraft chủ yếu lấy từ
truyền thống cộng hòa tự do, đó là một sự kết hợp giữa các cam kết cho tự do và
các cam kết cộng hòa cho đức hạnh của sự tự cai trị. Bà ủng hộ Cách mạng Pháp.
Bà nói, Burke là người bất nhất, ông phải lên án tất cả các cuộc cách mạng chống
lại quyền lực cha truyền con nối, song ông lại không làm như vậy. Bình đẳng,
giáo dục phổ quát, và phân chia đất đai kế thừa và tài sản giáo hội, và sự độc
quyền giáo dục sẽ tái phân phối lại toàn bộ tài sản và làm cho Anh trở thành Vườn
địa đàng.
· Tác phẩm thứ hai của Wollstonecraft nhận được sự quan tâm lớn
hơn bởi vì tính độc đáo của nó. Trong nó, bà chỉ ra rằng một nửa chủng tộc người
bị phủ nhận các quyền mới của nam giới. Phụ nữ dù được giáo dục cũng không có tự
do hay độc lập. Đây là một sự vi phạm đối với cả về quyền và lợi ích công. Nó
phá hoại xã hội, làm cho phụ nữ là người vợ, người mẹ, và người công dân thấp
kém.
o
Lý lẽ của bà khá đơn giản.
Chỉ có một thượng đế và, do đó, một hệ thống các đức hạnh cho hình ảnh của Thượng
đế (nhân loại) trên trái đất. Nam và nữ phục vụ cùng một thượng đế và phải tìm
cách khuân đúc chính họ theo các tiêu chuẩn tương tự. Mọi con người phải được dạy
sự trung thực, chăm chỉ, can đảm, độc lập, tri thức, và sự hi sinh.
o
Nhưng trong hệ thống hiện tại,
phụ nữ bị ngăn cản một cách có hệ thống khỏi sự giáo dục về tinh thần và sự độc
lập và thay vào đó được giáo dục để trở nên phụ thuộc và ngoan ngoãn. Sự khắc
sâu ghi nhớ tính nhu mì ngăn chặn sự đam mê cho các ý tưởng, công bằng xã hội,
hay sự sáng tạo nghệ thuật.
o
Chúng ta đang giáo dục một
nửa chủng tộc người không phát triển các khả năng của họ để đóng góp cho xã hội.
Sự giáo dục sai lầm này làm chậm sự tiến bộ của nhân loại, làm cho sự nuôi dạy
trẻ con một mình của người phụ nữ là không đầy đủ, làm cho hôn nhân của họ, một
khi ngọn lửa lãng mạn của thời kì đầu mất đi, chẳng còn lại gì.
Nguồn: The Modern Political Tradition: Hobbes to Habermas