Bị thúc đẩy bởi sự thành công về thương mại của Hà lan và
Anh, một số nhà tư tưởng cho rằng một xã hội thương mại với những nhà sản xuất
tư lợi là tốt đẹp, dù nó trái ngược với các đức hạnh truyền thống, cổ điển, và
Ki tô giáo. Trong miêu tả nổi tiếng của mình về chủ nghĩa tư bản, Adam Smith
cho rằng chỉ một nền kinh tế thị trường tự do mới có thể mang lại ‘sự giàu có phổ
quát', cũng như khuyến khích các phẩn chất khôn ngoan. Smith miêu tả về ‘một bàn
tay vô hình’ hướng dẫn cho sự tư lợi cá nhân tạo ra lợi ích chung. Trong khi ủng
hộ cho thương mại tự do và chính sách không can thiệp của chính phủ, thì Smith cũng
chuẩn đoán các vấn đề của chủ nghĩa tư bản và bảo vệ cho một số hành động của
chính phủ. Tuy nhiên sau này, Thomas Malthus đưa ra một dự đoán gây bối rối rằng nguồn
cung thực phẩm sẽ đề ra một sự giới hạn vĩnh viễn đối với sự tiến bộ. Trong bài
này, chúng ta tìm hiểu về kỉ nguyên của triết học kinh tế.
Nền kinh tế thị trường và trật
tự có ích
· Ít nhất là bao lâu còn có các thành phố, các siêu thị, thì sẽ
còn những nơi mà người sở hàng hóa và người cung cấp các dịch vụ tiến hành giao
dịch với với những người muốn hàng hóa và dịch vụ của họ theo một cách tương đối
tự do.
o
Nhưng hầu hết các nền kinh
tế trong lịch sử đều được vận hành bởi truyền thống, trong đó lao động, sản xuất,
và tiêu dùng được quy định bởi thực tiễn truyền thống. Một cách quản lý nền
kinh tế khác là thông qua các hành động và sự kiểm soát của nhà nước: chính quyền
thiết lập giá cả và các mục tiêu sản xuất.
o
Trong một nền kinh tế thị
trường, cả truyền thống lẫn nhà nước không quản lý lương, giá cả, và việc lựa
chọn và sản xuất hàng hóa, dịch vụ nào. Không ai quản lý chúng; chúng là kết quả
của vô số các tương tác giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
o
Hệ thống này xuất hiện từ thời Thời kì cải cách, và vào thế kỉ 18, nó phát triển hoàn chỉnh ở
Anh. Đó là khởi đầu của nền kinh tế hiện đại.
· Cũng có một khía cạnh triết học ở điều này, đó là ý tưởng
cho rằng trật tự (mà) có lợi là kết quả của các hoạt động tự do, và không được
kế hoạch trước. Điều này là vô lý đối với Plato, Aristotle, hay Aquinas. Đối với
họ, trật tự tốt lành đòi hỏi một sự thiết kế trí tuệ. Thậm chí tệ hơn nữa là
ý tưởng cho rằng thị trường tự do hàm ý rằng các hành động không được thiết kết
trước để tạo ra sự tốt lành, như các hành động tư lợi, thậm chí tham lam lại là tốt
lành, vì những gì nó tạo ra là hữu ích.
· Điều này được ủng hộ bởi một vài tư tưởng thế kỉ 18, bao gồm
Bernard de Mandeville (1670 -1733), người xuất bản cuốn sách tiêu đề: Fable of Bees: Or, Private Vices, Publick
Benefits. Mandeville cho rằng các tư tưởng khổ hạnh, và tôn giáo có hại cho
xã hội bởi vì sự thiêng liêng khuyến khích người ta giảm bớt các ước muốn và các
tham vọng trần tục. Trái lại, lợi ích công, chẳng hạn các phương pháp sản xuất
mới, được tạo ra bởi sự xấu xa tư lợi, chẳng hạn như tham vọng, tham lam, bất
lương.
· Một người ủng hộ khác, vốn là nhà tư tưởng khai sáng nổi tiếng nhất
trong số họ, Francois Marie Arouet, hay còn được gọi là Voltaire (1694 - 1778).
Trong tác phẩm Letters Concerning the
English nation, ông cho rằng thương mại khuyến khích mối quan hệ kinh tế hòa bình giữa
các kẻ thù về văn hóa và tôn giáo.
· Các tác phẩm nổi bật nhất về xã hội thương mại đến từ các
tác giả Khai sáng Scotlen thế kỉ 18, bao gồm Hutcheson (194 174), Furguson
(1723 181), Hume (1711 177), và Smith (1723 1790).
o
Giống như Hume, đối với
Smith, mọi đạo đức của con người đều bắt nguồn từ sự đồng cảm đối với người
khác, đặc biệt là khả năng của chúng ta để đặt chính mình (một cách đồng cảm) vào
vị trí người khác. Kì cùng, chúng ta nhìn chính mình từ lập trường của một “người
quan sát vô tư”.
o
Điều này cho phép Smith giải
thích về sự khác nhau giữa hai nhóm đức hạnh chính: đức hạnh của sự tự chủ, chẳng
hạn danh dự, được ủng hộ bởi những người Khắc kỉ La mã, và đức hạnh tử tế của
người Ki tô giáo, chẳng hạn sự khoan dung. Đối với Smith, cái trước xảy ra khi tác
nhân có thái độ của người khán giả, và cái sau, khi khán giả đóng vai trò của
người chịu đựng.
o
Trong tác phẩm Theory of the Moral Sentiments (1759),
trước tiên Smith chú ý đến tình yêu sự phù hợp với mục đích của các
công cụ, tình yêu “hệ thống” của con người. Ông chỉ ra rằng những người phát
minh theo đuổi một sự phù hợp như vậy ngay cả khi họ bị đánh lừa về các lợi ích
thực tế của chúng. Sự vị kỉ và cần cù của số ít, “được dẫn dắt bởi một bàn
tay vô hình” sẽ mang lại lợi ích rộng lớn hơn. Thượng đế, hay tự nhiên dường
như đã xắp xếp mọi thứ theo cách mà sự chăm chỉ của các cá nhân tư lợi thường
phục vụ cho một mục đích mà họ không hề dự định trước: mang lại lợi ích cho
toàn bộ xã hội.
Của cải của các quốc gia
· Năm 1776, Smith xuất bản cuốn An inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations. Ở
đây, ông miêu tả các cơ chế trung tâm của thị trường tự do như sự thúc đẩy trao
đổi và sự phân chia lao động. Sự thúc đẩy trao đổi là xưa cũ, nhưng sự phân
chia lao động hay sự chuyên biệt hóa là một sự phát triển hiện đại mà đã mang lại
hiệu quả sản xuất to lớn.
[Tác phẩm
Của cải của các quốc gia vẫn còn là một
trong những phân tích hoàn chỉnh nhất về các lợi ích và rủi ro của nền kinh tế
thị trường tự do.]
· Trong phân tích của Smith về trao đổi tự do, cung và cầu dẫn
dắt giá cả thị trường hướng đến làm cho chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ ở
mức thấp nhất.
o
Khi cung tăng so với cầu,
người tiêu dùng mặc cả để hạ giá xuống, người sản xuất rời bỏ thị trường (hiện
tại) để chuyển sang sản xuất các sản phẩm khác, từ đó cung giảm và giá có xu hướng
đi lên một lần nữa; trái lại, khi cầu tăng so với cung, người sản xuất sẽ tăng
giá sản phẩm, người tiêu dùng hạn chế tiêu dùng hoặc dùng các sản phẩm khác,
giá cả có xu hướng đi xuống.
o
Khi cung và cầu cân bằng,
giá cả thị trường và giá cả thực bằng nhau. Trong điều kiện cạnh tranh tự do –
điều mà Smith gọi là “tự do hoàn hảo” -
không có sự độc quyền hay sự can thiệp của nhà nước, giá cả thị trường sẽ có xu
hướng hướng đến giá cả thực.
o
Bởi vì giá cả thực là giá
thấp nhất mà nhà sản xuất còn có thể tiếp tục sản xuất, nên điều này cũng có
nghĩa là một sản lượng lớn nhất có thể được tạo ra. Nhiều người hơn có thể
trang trải để mua hàng hóa. Lúc này, hoạt động sản xuất gia tăng sẽ đưa tiền
vào tay người lao động.
· Smith phân loại các nhân tố hay thành phần của sản xuất, và
từ đó các thành phần của giá cả - như máy móc, lao động, và đất đai.
· Ông cũng phât biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Nước hữu ích hơn kim cương nhiều nhưng lại có một giá trị thị trường thấp hơn
nhiều. Smith chấp nhận lý thuyết giá trị lao động. Giá trị của một thứ là lượng
lao động đòi hỏi để tạo ra thứ đó cho thị trường; như trong trường hợp này, nước
dễ kiếm được hơn kim cương.
· Smith ca ngợi sự tốt lành của xã hội thương mại, trong đó mọi
người là người buôn bán sức lao động của anh ta. Giống như Voltair, ông tin rằng
thương mại mang lại hòa bình, tự do và thịnh vượng. Và giống như các nhà tư tưởng
thế kỉ 18 khác, ông thừa nhận xã hội thương mại là một giai đoạn mới trong lịch
sử con người.
· Sự biện minh của Smith cho thị trường tự do rõ ràng dựa trên
nền tảng công lợi, mà không phải trên nền tảng quyền tự nhiên. Thị trường mang
lại sự hiệu quả hơn, phổ biến sự giàu có và thúc đẩy các đức tính hòa bình dù
gây ra sự bất bình đẳng và phân chia lao động.
· Smith đặc biệt bảo vệ thương mại tự do, cũng như chống lại
thuyết trọng thương. Một quan điểm phổ biến ở châu Âu thời đó là thương mại phải
được kiểm soát cho các mục đích của quốc gia, điều này dẫn đến tạo ra chủ nghĩa
trọng thương. Smith chỉ ra rằng thuế suất đối với hành nhập khẩu để bảo vệ các
nhà sản xuất trong nước không mang lại lợi ích cho toàn thể xã hội; nó chỉ bảo
vệ một số ít các nhà sản xuất và công nhân của họ song lại khiến cho toàn bộ
người tiêu dùng phải trả một giá cao hơn cho hàng hóa mà đáng ra họ không phải.
Các giới hạn và mối đe dọa
của thị trường tự do
· Smith hoàn toàn ý thức về các giới hạn và mối đe dọa của một
nền kinh tế tự do. Ông thừa nhận rằng một vài vấn đề xã hội không thể được quản
lý bởi thị trường, bao gồm quân sự, tòa án, công trình công cộng, và một số thị
trường, như các thiết chế tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm.
· Ông cũng nhận ra rằng thị trường tự do gia tăng sự bất bình
đẳng khi tạo ra một số nhà sản xuất giàu có. Nhưng đây là cái giá của sự giàu
có phổ quát.
· Đối với Smith, mối đe dọa lớn nhất của thị trường là sự phân
chia lao động sẽ phá hủy tinh thần của người công nhân với sự đồng điệu nhàm
chán của các công việc nhỏ nhặt ngày một tăng. Ngăn chăn hậu quả này đỏi hỏi phải
có sự giáo dục công.
Bẫy Malthus
· Trong tác phẩm Một
nghiên cứu về nguyên tắc của dân số (1789), Malthus (1766 –1834), một nhà
kinh tế người Anh, nêu lên một sự bác bỏ đáng sợ đối với niềm tin lạc quan của
Khai sáng đối với sự tiến bộ không ngừng. Ông chỉ ra rằng khả năng của trái đất
để gia tăng nguồn cung thực phẩm thông qua nông nghiệp bị giới hạn bởi đất đai
có thể đưa vào sử dụng. Nguồn cung thực phẩm có chỉ tăng với cấp số cộng. Tuy
nhiên, mỗi khi có sự gia tăng thực phẩm lại tạo ra sự gia tăng dân số, song dân
số lại tăng theo cấp số nhân.
· Malthus cho rẵng bất cứ sự gia tăng đối với nguồn cung thực
phẩm sẽ dẫn đến sự gia tăng dân số mà sẽ vượt xa nguồn cung thực phẩm, gây ra nạn
đói và chết chóc, cho đến khi sự gia tăng dân số cân băng với sự gia tăng tự phẩm.
Ông đưa ra luận điểm này để nói rằng cần phải kiểm soát dân số, hoặc bằng cách
giới hạn nguồn cung thực phẩm hoặc bằng các phương pháp xã hội như trì hoãn việc
kết hôn và sinh con trong giới lao động phổ thông. Kết luận “ảm đạm” này sau đó
được gọi là Bẫy Malthus.
· Trong thực tế, con người bị giới hạn bởi bẫy Malthus cho đến
thế kỉ 18. Từ đó về sau, rõ ràng rằng năng suất nông nghiệp không bị giới hạn
theo cấp số cộng. Đất đai tuy giới hạn, song nguồn cung thực phẩm có thể gia
tăng do sự cải thiện về thương mại và kĩ thuật trong nông nghiệp. Sự phát triển
có những giới hạn, song chúng không như những gì Malthus nghĩ.
Tác động tư tưởng của Mô
hình thị trường tự do
· Tác động tư tưởng và triết lý của mô hình kinh tế thị trường
tự do là không thể ước tính được. Thứ nhất, nó giới thiệu ý tưởng về trật tự tự
phát: trật tự tốt hành hay có lợi có thể nảy sinh từ vô số các tương tác cục bộ
không chịu sự chỉ huy từ trung tâm. Nếu một ý tưởng mới lạ nằm ở trung tâm của
hiện đại, thì đó là ý tưởng này.
· Với việc chấp nhận thị trường, sự bác bỏ các tư tưởng về đức
hạnh vốn chi phối lý thuyết chính trị trước Machiavelli và Hobbes được thúc đẩy
hơn nữa. Sự tự lợi là tốt lành, và thậm chí tính hám lợi là có lợi. Những điều
nay không tồn tại trong tư tưởng truyền thống trước đó.
· Cuối cùng, Smith thừa nhận rằng không chỉ mong muốn mạnh mẽ
cho việc buôn bán và trao đổi hàng hóa mà sự phân chia lạo động vốn làm tăng
nhanh khả năng sản xuất cũng là một yếu tố mới và sẽ nằm ở trung tâm của sự
phát tiển kinh tế và xã hội hiện đại. Theo Durkheim, nhà xã hội học người Pháp,
thì sự phân chia lạo động là một cách hoàn toàn mới để nối kết con người thành
một toàn thể xã hội. Và tất cả những điều này sẽ biến đổi và làm phức tạp hơn
quan niệm mà con người có về chính họ, về xã hội, và về mục đích của cuộc đời.
Nguồn: The Modern Political Tradition: Hobbes to Habermas