Các nhà tự do cá nhân tin rằng cá nhân là tối cao, chứ không phải nhà nước
hay bất cứ tổ chức nào. Họ tin tưởng vào sự tự do tiêu cực, tức tự do khỏi sự
can thiệp từ bên ngoài. Thúc đẩy sở hữu tư nhân và tự do kinh tế thực chất là
tôn trọng cho tự do cá nhân. Trật tự xã hội không mâu thuẫn với tự do cá nhân
mà phát triển từ tự do cá nhân. Việc sử dụng sự ép buộc duy nhất hợp pháp là để
tự vệ hay hiệu chỉnh sự sai lầm. Chính quyền bị ràng buộc bởi các quyên tắc đạo
đức tương tự như cá nhân. Hành động của chính quyền bị coi là bất hợp pháp khi
sử dụng sự ép buộc để cướp bóc, gây hấn, tái phân phối, và các mục đích khác nằm
ngoài việc bảo vệ tự do cá nhân.
Những người tự do cá nhân tin rằng
hầu hết các chính sách đang được thực hiện bởi nhà nước nên hoặc bị bãi bỏ hoặc
chuyển cho tư nhân. Phiên bảo nổi tiếng nhất của kết luận này được trình bày
trong các lý thuyết về“nhà nước tối thiểu” của Robert Nozick, Ayn Rand,
và những người khác. Theo đó, họ cho rằng
nhà nước có thể cung cấp một cách hợp pháp các dịch vụ cảnh sát, tòa án, và
quân đội, ngoài ra không còn gì khác. Bất cứ các chính sách nào của nhà nước:
kiểm soát hay ngăn cấm việc buôn bán, và sử dụng thuốc cấm, nhập ngũ bắt buộc,
thuế để hỗ trợ người nghèo, và thậm chí xây dựng các con đường công cộng …là vi
phạm các quyền (cá nhân) và do đó là bất hợp pháp.
Chủ nghĩa tự do cá nhân khác với
chủ nghĩa tư bản vô chính phủ và chủ nghĩa tự do cổ điển. Những người theo chủ
nghĩa tư bản vô chính phủ tin rằng ngay cả nhà nước tối thiểu là quá lớn,
và sự tôn trọng đúng đắn cho các quyền cá nhân đòi hỏi một sự loại bỏ hoàn toàn
nhà nước và việc cung cấp các dịch vụ bảo vệ sẽ được dành cho thị trường tư
nhân. Trong khi đó, những người tin theo chủ nghĩa tự do cổ điển, trong
khi chia sẻ niềm tin vào thị trường tự do, cũng như sự bi quan về quyền lực của
chính phủ với chủ nghĩa tự do cá nhân, song sẵn sàng cho phép một phạm vi lớn hơn
cho các hoạt động mang tính cưỡng bức của nhà nước, như cung cấp các tiện ích
chung hay thậm chí tái phân phối ở một mức độ giới hạn nào đó.
1. Sự đa dạng của các
lý thuyết tự do cá nhân
Chủ nghĩa tự do cá nhân là một lý
thuyết về vai trò đúng đắn của chính quyền, vai trò này có thể dựa trên các nền
tảng khác nhau như: siêu hình
học, nhận thức luận, hay đạo đức học. Một số nhà tự do cá nhân là người hữu thần,
tức họ tin rằng lý thuyết bắt nguồn từ luật tự nhiên. Trong khi những người
khác lại là người vô thân, tức tin rằng lý thuyết có thể được xây dựng trên các
cơ sở thuần túy thế tục. Một số nhà tự do cá nhân là người theo chủ nghĩa duy
lý, tức tin rằng có thể rút ra các kết luận tự do cá nhân từ các tiền đề đầu
tiên. Những người khác lại rút ra các kết luận tự do cá nhân trên cơ sở những sự
khái quát hóa kinh nghiệm….Một số nhà tự do cá nhân là những người theo thuyết
vị kỉ, tức tin rằng cá nhân không có bổn phận tự nhiên phải giúp đỡ người khác,
trong khi những người khác lại tin tưởng vào một nguyên tắc đạo đức nào đó
trong đó khẳng định rằng những người giàu có hơn có bổn phận giúp đỡ những người nghèo khó hơn. Một số
nhà tự do cá nhân là người theo thuyết nghĩa vụ, trong khi những người khác là
người theo thuyết kết quả, thuyết khế ước….Bài này tập trung chủ yếu vào ba
phiên bản của chủ nghĩa tự do cá nhân: chủ nghĩa tự do cá nhân quyền tự nhiên,
chủ nghĩa tự do cá nhân kết quả, và chủ nghĩa tư bản vô chính phủ.
2. Chủ nghĩa tự do cá nhân (dựa trên nền tảng) quyền tự nhiên
Chắc chắn đây là phiên bản nổi tiếng
nhất và có ảnh hưởng nhất, ít nhất, là giữa các triết gia hàn lâm, nó đặt cơ sở
trên lý thuyết về quyền tự nhiên. Các lý thuyết về quyền tự nhiên khá đa dạng,
nhưng thống nhất ở một niềm tin chung là cá nhân có một số quyền đạo đức nào đó
đơn giản bởi vì họ là con người. Và những quyền này tồn tại trước và độc lập với
sự tồn tại của chính quyền, nó quy định cách thức, được phép về mặt đạo đức, cho các
cá nhân khác hay chính quyền khi đối xử với những con người cá nhân.
a. Các nguồn gốc lịch sử: Locke
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy một
số dấu vết của học thuyết này ở những người chủ chương bình đẳng ở Anh
(Levellers) hay trường phái Salamanca ở Tây ban nha, song tư tưởng chính trị của
John Locke thường được coi là nguồn ảnh hưởng quan trọng nhất đối với phiên bản
chủ nghĩa tự do dựa trên quyền tự nhiên đương đại. Các yếu tố quan trọng nhất
trong lý thuyết của Locke, được phác thảo ra trong tác phẩm Khảo luận thứ hai là: niềm tin của ông về
luật tự nhiên, và học thuyết của ông về quyền tư hữu đối với tài sản bên ngoài
(bản thân con người).
Ý tưởng của Locke về luật tự nhiên
đề ra một sự phân biệt giữa luật và chính quyền, và sự phân biệt này có một sự ảnh
hưởng sâu sắc đối với sự phát triển của tư tưởng tự do cá nhân. Theo Locke, ngay
cả khi chính quyền không tồn tại, thì trạng thái tự nhiên không phải là trạng
thái “phóng túng bừa bãi”. Nói cách khác, con người vẫn bị cai trị bởi luật, mặc
dù luật này không không có bất cứ nguồn gốc chính trị nào. Luật này, mà Locke gọi
là “luật tự nhiên”, cho rằng “mọi người bình đẳng và độc lập, không ai có quyền
làm tổn hại đến tính mạng, sự tự do, hay tài sản của người khác”. Luật tự nhiên
này có chức năng là một tiêu chuẩn quy phạm (quy định con người phải làm thế
này thế kia….) trong việc quản lý hành vi con người. Và Locke tin rằng luật này
có thể khám phá ra bằng lý tính con người, và với tư cách là con người duy lý,
nó ràng buộc lên tất cả chúng ta như nhau.
Niềm tin của Locke vào sự ngăn cấm
làm tổn hại đến người khác bắt nguồn từ một niềm tin cơ bản hơn đó là mỗi cá
nhân “có quyền sở hữu đối với chính anh ta”. Nói cách khác, cá nhân là ông chủ
của mình. Nguyên tắc này có một ảnh hưởng to lớn đối với các nhà tư tưởng tự do
cá nhân sau đó, và nó còn được gọi là “nguyên tắc tự sở hữu”. Dù còn nhiều
tranh cãi, song mọi người thừa nhận nó hàm ý rằng mỗi cá nhân sở hữu đối với
thân thể của anh ta, tuy nhiên vấn đề là làm sao anh ta lại có quyền sở hữu những
thứ bên ngoài anh ta như cây cối, đất đai…Locke cho rằng chúng ta phải có một
cách nào đó để có thể sở hữu những tài sản bên ngoài này, nếu không thì không
ai có thể sử dụng chúng. Locke cho rằng, đó là vì chúng ta sở hữu chính mình,
nên chúng ta sở hữu sức lao động của mình. Và bằng cách “trộn” sức lao động của
chúng ta với những tài sản bên ngoài, chúng ta đi đến sở hữu những thứ này. Điều
này cho phép cá nhân tư nhân hóa thế giới mà Thượng đế ban đầu đã ban chung cho
họ. Tuy nhiên, có một giới hạn đối với sự chiếm hữu các tài sản bên ngoài cho sự
sử dụng tư nhân, mà Locke thể hiện trong “mệnh đề” nổi tiếng của mình là: một
hành động chiếm hữu là hợp pháp khi còn để lại “đủ và tốt…. cho người khác”.
Tuy nhiên, ngay cả với sự giới hạn này, thì theo thời gian, sự kế thừa, khả
năng, động cơ, sự may mắn….sẽ dẫn đến một sự bất bình đẳng lớn về tài sản giữa
con người, và Locke cho rằng điều này là một hệ quả chấp nhận được của học thuyết
của ông.
b. Các quyền tự nhiên đương đại: Nozick
Cho đến nay, người có ảnh hưởng
quan trọng nhất đối với nhận thức về chủ nghĩa tự do cá nhân trong giới hàn lâm
là Robert Nozick, với tác phẩm Vô chính
phủ, nhà nước, và không tưởng (1974). Cuốn sách này, vốn là một sự giải
thích và khảo sát tỉ mỉ về các quyền tự do cá nhân, cố gắng cho thấy rằng: làm thế nào mà một nhà nước tối thiểu, và
không lớn hơn tối thiểu, xuất hiện thông qua tiến trình “bàn tay vô hình” từ một
trạng thái tự nhiên, lại không vi phạm các quyền của cá nhân; đồng thời đáp
trả lại các tuyên bố cực kì ảnh hưởng của John Rawls, vốn cho rằng một nhà nước
lớn hơn nhà nước tối thiểu là có thể được bảo chữa; và cuối cùng cho thấy rằng
một chế độ cai trị với các quyền tự do cá nhân có thể thiết lập một “khuân khổ
cho các thử nghiệm không tưởng” trong đó các cá nhân khác nhau có thể tự do tìm
kiếm và tạo ra các thiết chế trung gian (giữa nhà nước và cá nhân) để giúp cho
anh ta thành tựu được tầm nhìn riêng của mình về một đời sống tốt lành.
Chi tiết về các luận điểm của
Nozick có thể tìm thấy trong bài Robert Nozick. Ở đây, chúng ta chỉ
trình bày tóm tắt một số yếu tố quan trọng trong tư tưởng chính trị của Nozick:
sự tập trung của ông vào mặt “tiêu cực” của tự do và quyền, sự bảo vệ kiểu Kant
của ông đối với các quyền, lý thuyết về quyền sở hữu trên cơ sở lịch sử của ông,
và sự chấp nhận của ông đối với mệnh đề kiểu Locke nhưng đã được điều chỉnh cho
việc chiếm hữu tài sản. Thảo luận của ông về nhà nước tối thiểu được bàn trong
phần về chủ nghĩa tư bản – vô chính phủ ở bên dưới.
Đầu tiên, Nozick, giống như hầu hết
các nhà tư tưởng tự do cá nhân quyền tự nhiên, đề cao các tự do và các quyền
tiêu cực so với các tự do và các quyền tích cực. Sự phân biệt giữa tự
do tích cực và tiêu cực, vốn được đưa ra bởi Berlin, thường được nghĩ về như là
sự phân biệt giữa “tự do để” và “tự do khỏi”. Một người có sự tự do tích cực
khi anh ta có cơ hội và khả năng để làm điều anh ta mong muốn (hoặc có lẽ, điều
mà anh ta mong muốn “một cách duy lý”, hay “phải” mong muốn). Mặt khác, một người
có sự tự do tiêu cực khi không có mặt sự can thiệp từ bên ngoài đối với việc
anh ta đang làm cái anh ta muốn – đặc biệt, khi không có sự can thiệp từ bên
ngoài của người khác. Một người quá ốm
yếu không thể lấy thức ăn vẫn có sự tự do tiêu cực đầy đủ - nhưng không có sự tự
do tích cực vì anh ta không thể lấy thức ăn dù anh ta muốn làm như vậy. Nozick
và hầu hết các nhà tự do cá nhân cho rằng vai trò thích hợp của nhà nước là bảo
vệ sự tự do tiêu cực, chứ không phải là đi thúc đẩy sự tự do tích cực, và trên
cơ sở này Nozick tập trung vào các quyền tiêu cực, cũng như phản đối các quyền
tích cực. Các quyền tiêu cực là các yêu sách (đòi hỏi) bắt người khác kiềm chế
không hành động một số dạng hành động mà chống lại bạn. Các quyền tích cực là
các yêu sách bắt người khác thực hiện một số dạng hành động tích cực. Ví dụ,
quyền phản đối sự hành hung là quyền tiêu cực, vì chúng đơn giản đòi hỏi người
khác không hành hung bạn. Mặt khác, các
quyền phúc lợi là các quyền tích cực vì chúng đòi hỏi người khác phải cung cấp
cho bạn tiềm hay các dịch vụ. Bằng cách củng cố các quyền tiêu cực, nhà nước bảo
vệ sự tự do tiêu cực của chúng ta. Có một câu hỏi là liệu việc củng cố đơn thuần
các quyền tự do tiêu cực, như các triết gia tự do cánh tả muốn thúc đẩy, hay củng
cố một sự trộn lẫn giữa các quyền tự do tiêu cực và các quyền tích cực sẽ thúc
đẩy tốt hơn sự tự do
tiêu cực.
Thứ hai, trong khi Nozick đồng ý với
bức tranh kiểu Locke về nội dung và tính độc lập (với chính quyền) của luật tự
nhiên và quyền tự nhiên, thì sự bảo vệ của ông đối với các quyền này lại lấy cơ
sở của nó từ Immanuel Kant hơn là từ Locke. Nozick không cung cấp lý lẽ đủ mạnh
để biện minh cho các quyền tự do cá nhân chống lại các lý thuyết về quyền khác
không thuộc khuân khổ của tư tưởng tự do cá nhân – một điều mà
ông đã chịu nhiều sự chỉ trích, mà nổi tiếng nhất là từ Thomas Nagel. Nhưng những
gì mà ông muốn nói trong sự bảo vệ của ông đối với các quyền tự do cá nhân cho
thấy rằng ông xem các quyền tự do cá nhân là một sự kế thừa từ một yếu tố trong
sự hình thành Mệnh lệnh nhất quyết thứ hai của Kant - đó là: chúng ta đối xử với con người (chúng
ta và người khác) như là các các mục đích tự thân, không bao giờ chỉ đơn thuần
như là các phương tiện (cho chúng ta hay người khác sử dụng). Theo Nozick,
cả thuyết công lợi và các lý thuyết mà củng cố các quyền tự do tích cực, cho
phép sự hi sinh không tự nguyện các lợi ích của một cá nhân cho các mục đích của
cá nhân khác. Chỉ các quyền tự do cá nhân, mà đối với Nozick, trong hình thức của
một sự kiềm chế tuyệt đối chống lại bao lực và lừa dối, mới cho thấy sự tôn trọng
đúng mức đối với tính cá biệt của con người khi khước từ một sự hi sinh như vậy,
và cho phép mỗi cá nhân tự do theo đuổi các mục tiêu của mình mà không chịu sự
can thiệp.
Thứ ba, một điều quan trọng cần lưu
ý là, chủ nghĩa tự do cá nhân của Nozick đánh gia tính công bằng của các vấn đề,
như phân phối tài sản dựa vào quá trình
hay lịch sử mà nó xuất hiện, mà không
phải dựa vào mức độ mà nó
thỏa mãn điều mà ông gọi là nguyên tắc công bằng khuân mẫu. Theo Nozick,
sự phân phối tài sản là công bằng khi chúng phát sinh từ một sự phân phối công
bằng trước đó thông qua các phương thức công bằng. Để biết được tính công bằng
của sự phân phối hiện tại đòi hỏi chúng ta phải thiết lập một lý thuyết về
công bằng trong việc trao đổi – cho chúng ta biết phương thức nào là sự trao đổi tài sản hợp pháp giữa
con người – và một lý thuyết công bằng về sự chiếm hữu –cho chúng ta biết
làm thế nào cá nhân đi đến chiếm hữu các tài sản bên ngoài mà trước đó không ai
sở hữu. Dù Nozick không phát triển một cách hoàn chỉnh các lý thuyết này, song
lập trường chính của ông rất có ý nghĩa, vì nó chỉ ra rằng chỉ một phả hệ (pedigree)
lịch sử đúng đắn mới làm cho một sự phân phối là công bằng, và những sự trệch
khỏi phả hệ đúng đắn này khiến cho sự phân phối là không công bằng. Một hàm ý
trong quan điểm này là bạn không thể nhìn vào một mình số liệu thống kê – chỉ một
số ít người giàu kiểm soát 80% tài sản của nước Mỹ - kết luận rằng một sự phân
phối như vậy là không công bằng. Thay vào đó, tính công bằng của một sự phân phối
phụ thuộc vào việc sự phân phối đó được thực hiện như thế nào – bởi bạo lực hay
bởi thương mạng? Bởi mức độ khác nhau về sự làm việc chăm chỉ và may mắn? Hay
bởi lừa đảo và trộm cắp? Do đó nằm ở trung tâm về mặt lịch sử của chủ nghĩa tự
do cá nhân là một nguyên tắc chống lại: quan điểm quân bình – về kết quả,
vốn cho rằng chỉ những sự phân phối bình đẳng là công bằng, quan điểm công lợi,
vốn cho rằng sự phân phối là công bằng khi nó tối đa hóa hóa công lợi, và quan
điểm ưu tiên, vốn cho rằng sự phân phối là công bằng khi chúng mang lại lợi
ích cho những người có hoàn cảnh kém thuận lợi. Sự công bằng trong phân phối nằm
ở sự tôn trong cho các quyền của con người, mà không phải là để đạt được một kết
quả nào đó.
Yếu tố cuối cùng trong tư tưởng của
Nozick là việc ông chấp nhận phiên bản sửa đổi của mệnh đề của Locke là một phần
trong lý thuyết về sự chiếm hữu công bằng của ông. Nozick điều chỉnh yêu sách của
Locke rằng hành động chiếm hữu là hợp pháp khi để lại đủ và tốt cho người khác
thành yêu sách rằng sự chiếm hữu phải không được làm xấu đi tình trạng của người
khác. Thoạt nhìn, điều này dường như chỉ là một sự thay đổi nhỏ so với phát biểu
ban đầu của Locke, nhưng Nozick tin rằng nó cho phép một sự tự do lớn hơn cho việc
tự do trao đổi và chủ nghĩa tư bản. Nozick đạt được kết luận này trên cơ sở của
một số niềm tin dựa trên kinh nghiệm về ảnh hưởng tích cực của sở hữu tư nhân.
Sở hữu tư nhân làm gia tăng sản lượng xã hội bằng
cách đặt các phương tiện sản xuất vào trong tay của những người có thể sử dụng
chúng hiệu quả nhất; sự thử nghiệm được khuyến khích, bởi vì các nguồn lực do
các cá nhân riêng biệt kiểm soát, anh ta không phải xin phép ai, hay nhóm nào để
tiến hành thử nghiệm một ý tưởng mới; sở hữu tư nhân bảo vệ con người tương lai
bằng cách khiến một số người đi đến giữ lại một số nguồn lực từ sự tiêu dùng hiện
tại cho thị trường tương lai….
Nếu những điều này đúng, thì mọi
người sẽ không bị làm cho khốn khó thêm bởi hành động chiếm hữu ban đầu ngay cả
khi những hành động này không để lại đủ và tốt cho người khác chiếm hữu. Sở hữu
tư nhân và thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra sự sung túc, và những người đến
sau trò chơi chiếm hữu (như chúng ta hiện nay) ở trong một hoàn cảnh tốn hơn
nhiều. Như David Schmidtz chỉ ra:
Sự chiếm hữu ban đầu làm giảm bớt nguồn
(kho) của những gì có thể được chiếm hữu ban đầu, ít nhất là trong trường
hợp của đất đai, nhưng điều này không có nghĩa là sẽ làm giảm bớt nguồn (kho dự
trữ) của những gì mà chúng ta có thể sở hữu. Trái lại, khi tiến hành kiểm
soát các nguồn lực và do đó di chuyển những nguồn lực cụ thể này khỏi nguồn
(kho) tài sản, mà có thể đạt được bởi sự chiếm hữu ban đầu, mọi người tạo ra một
sự gia tăng nguồn (kho) tài sản, mà có thể đạt được thông qua thương mại. Bài học
là sự chiếm hữu không phải là cuộc chơi zero – sum (tổng lợi ích không thay đổi). Nó
là một cuộc chơi positive – sum (tổng lợi ích tăng lên).
Về mức độ thịnh vượng trong một thế
giới mà không có gì để chiếm hữu tư nhân, thì cá nhân nhìn chung không bị làm
cho tồi tệ hơn bởi hành động chiếm hữu tư nhân. Do đó, Nozick kết luận rằng, mệnh
đề của Locke sẽ “không cung cấp một cơ hội cho các hành động trong tương lai của
nhà nước” trong dạng thức của một sự tái phân phối hay điều tiết tài sản tư
nhân.
3. Chủ nghĩa tự do cá nhân kết quả
Trong khi chủ nghĩa tự do cá nhân
phiên bản Nozick tìm thấy nguồn cảm hứng của nó ở Locke và Kant, thì có một
phiên bản chủ nghĩa tự do cá nhân khác tìm thấy nguồn cảm hứng của nó từ David
Hume, Adam
Smith,
và John Stuart Mill. Các nguyên tắc chính trị của dạng
chủ nghĩa tự do cá nhân này không đặt trên nền tảng tự sở hữu hay quyền tự
nhiên của con người, mà trên hệ quả có lợi mà các quyền và thiết chế tự do cá
nhân tạo ra so với các khả năng lý thuyết và thực tiễn khác. Các nhà lý thuyết mà cho rằng,
kết quả, và chỉ duy kết quả, mới được sử dụng để biện minh cho chủ nghĩa tự do cá
nhân, họ được coi là những người theo thuyết
kết quả. Một trong
các dạng (dựa trên) kết quả này của chủ nghĩa tự do cá nhân là thuyết công lợi.
Nhưng thuyết kết quả không đồng nhất với thuyết công lợi, và phần này chúng ta sẽ
tìm hiểu sự bảo vệ của thuyết công lợi định lượng, thuyết kết quả (dựa trên) truyền thống đối với chủ nghĩa tự
do cá nhân.
a. Thuyết
công lợi định lượng
Về mặt triết học, cách tiếp cận trong
đó tìm cách biện minh cho các thiết chế chính trị thông qua việc cho thấy khả
năng tối đa hóa lợi ích chung (công lợi) của chúng có nguồn gốc rõ ràng
nhất từ tư tưởng của Jeremy Bentham, một nhà
lý thuyết đạo đức và cải các pháp lý. Dù Bentham không ủng hộ cho chủ nghĩa laissez-faire (tự do tuyệt đối trong kinh doanh), song cách tiếp cận của ông có ảnh hưởng to lớn đối
với các nhà kinh tế học, đặc biệt là Trường phái Áo và Chicago,
nhiều người trong hai trường phái này đã sử dụng phân tích công lợi để ủng hộ
cho các kết luận chính trị tự do cá nhân. Một số nhà kinh tế học ảnh hưởng là
các nhà tự do cá nhân (tự ý thức) – nổi tiếng nhất trong số đó là Ludwig von
Mises, Friedrich Hayek, James Buchanan, và Milton Friedman (Ba người sau được
trao giải Nobel).
Sự bảo
vệ kiểu công lợi cho chủ nghĩa tự do cá nhân thường bao gồm hai nhánh: lập
luận công lợi ủng hộ cho sở hữu tư nhân và trao đổi tự do, và lập luận
công lợi chống lại các chính sách của nhà nước mà vượt quá ranh giới của nhà nước
tối thiểu. Sự bảo vệ mang tính công lợi đối với sở hữu tư nhân và trao đổi
tự do rất đa dạng, tuy nhiên ở đây chúng ta chú ý đến hai luận điểm chính vốn đặc
biệt ảnh hưởng: luận điểm “Bi kịch sở hữu chung” cho sở hữu tư nhân và
luận điểm “Bàn tay vô hình” cho tự do trao đổi.
i. Bi kịch sở hữu chung và sở hưu
tư nhân
Luận điểm
bi kịch sở hữu chung cho rằng trong một số điều kiện nào đó khi tài sản được sở
hữu chung, hay không được sở hữu bởi bất
cứ ai, thì nó sẽ không được sử dụng hiệu quả và nhanh chóng bị thoái hóa. Trong
miêu tả của mình về sở hữu chung, Hardin bảo chúng ta tưởng tượng về một bãi cỏ
để mở cho tất cả, trên đó những người chăn gia súc thả gia súc của mình. Mỗi
khi thêm gia súc chăn thả thì có nghĩa là anh ta sẽ thu được một lợi ích lớn hơn,
và lợi ích này hoàn toàn thuộc về anh ta. Dĩ nhiên, việc tăng lượng gia súc
trên bãi cỏ sẽ phải trả một một cái giá đó là cho bãi cỏ thoái hóa, nhanh chóng
biến mất, nhưng điều quan trọng là cái giá phải trả cho việc thêm gia súc này, không
giống như lợi ích, được phân bổ cho tất cả những người chăn gia súc. Vì mỗi người
chăn gia súc nhận được toàn bộ lợi ích của việc tăng thêm gia súc nhưng chỉ
gánh một phần của cái giá “phân tán” này, nên sẽ có lợi cho anh ta để thêm nhiều
hơn gia súc trên đồng cỏ. Song vì lô gic tương tự được áp dụng như nhau cho tất
cả những người chăn gia súc, nên chúng ta hiểu rằng họ sẽ hành động tương tự, kết
quả là số lượng động vật nhanh chóng vượt quá giới hạn mà đồng cỏ có thể đáp ứng.
Đây gọi là bi kịch sở hữu chung.
Bi kịch
sở hữu chung đặc biệt rõ ràng nếu chúng ta phân tích nó dựa trên lý thuyết Tình thế tiến thoái lưỡng nan của
người tù, trong đó xem xét hệ quả của việc lựa chọn thả thêm gia súc gia súc của
mỗi bên. (Xem hình bên dưới, nơi A và B đại diện cho hai người chăn gia súc,
“thả thêm” và “không thả thêm” là các lựa chọn của họ, và có bốn kết quả khả dĩ
của các hành động kết hợp của họ. Trong các ô, các con số đại diện cho lợi
ích mà mỗi người chăn gia súc nhận được,
và kết quả của A là con số bên trái, và B bên phải). Như thảo luận ở trên, kết quả tốt nhất đối với mỗi người chăn gia súc là khi họ chăn
thêm gia súc, còn người kia thì không (5)- ở đây người chăn gia súc thu về mọi
lợi ích và chỉ chịu một phần cái giá phải trả cho việc chăn thêm. Trái lại, kết
quả xấu nhất đối với mỗi người chăn gia súc là không chăn thêm gia súc, trong
khi người kia chăn thêm (0) – trong hoàn cảnh này, người chăn gia súc phải gánh
vác giá phải trả (đồng cỏ bị thoái hóa do người khác chăn thêm gia súc) nhưng
không nhận được thêm lợi ích. Còn hai kết quả khả hữu khác. Trong đó, cả hai người chăn gia súc sẽ ở trong tình trạng tốt hơn nếu không ai
thêm gia súc (3), so với kết quả trong đó cả hai thêm gia súc (1). Lợi ích lâu
dài của việc chăn thả trong phạm vi mà đồng cỏ có thể cung cấp, lớn hơn lợi ích
ngắn hạn của việc chăn thả thêm của cả hai người chăn gia súc. Tuy nhiên, với lô
gic về tình thế tiến thoái lưỡng nan của người tù, những người chăn gia súc, vốn
là những người duy lý và tư lợi sẽ không lựa chọn việc ràng buộc lẫn nhau để
không chăn thêm gia súc. Điều này là vì, bao lâu mà cái giá phải trả cho việc
thả thêm gia súc được chia một phần cho những người cùng sử dụng nguồn lực, thì
đối với cá nhân mỗi người chăn gia súc sẽ có lợi hơn khi thả thêm gia súc mà
không cần quan tâm đến điều gì mà phía bên kia sẽ làm. Theo ngôn ngữ của lý
thuyết chò trơi, thì việc thả thêm gia súc sẽ thắng thế việc tự chế ước (lẫn
nhau giữa những người chăn gia súc để không thả thêm). Kết quả, không chỉ nguồn
lực chung bị cạn kiệt, mà hoàn cảnh sẽ tệ hại hơn đối với mỗi cá nhân so với khi
thả thêm gia súc.
B
|
|||
Không thả thêm
|
Thả thêm
|
||
A
|
Không thả thêm
|
3, 3
|
0, 5
|
Thả thêm
|
5, 0
|
1, 1
|
Bi kịch sở hữu chung như là Tình thế tiến thoái lưỡng nan của người tù
Lời giải kinh điển đối với Bi kịch
sở hữu chung là sở
hữu tư nhân. Nhớ rằng bi kịch xuất hiện bởi vì những người
chăn thả không phải chịu toàn bộ cái giá phải trả đối với hành động của họ
(chăn thả và chăn thả thêm gia súc). Bởi vì đất đai là của chung, chi phí chăn
thả thêm được chuyển một phần cho những người cùng sử dụng nguồn lực khác (có
thể chăn thả thêm hoặc không chăn thả thêm). Nhưng sở hữu tư nhân thay đổi điều
này. Nếu, thay vì được sở hữu chung bởi tất cả, đồng cỏ được phân chia thành
các mảnh nhỏ hơn, và được giao cho tư nhân, thì những người chăn thả gia súc sẽ
có quyền để loại bỏ người khác khỏi sử dụng tài sản riêng của họ. Một người chỉ
chăn thả gia súc trên cánh đồng của mình, hay trên cánh đồng của người khác
theo các điều khoản của người chủ sở hữu cánh đồng đó, và điều này có nghĩa rằng
chi phí của việc chăn thả thêm đó sẽ do
một mình anh ta gánh vác. Sở hữu tư nhân buộc các cá nhân chịu trách nhiệm cho
hành động của mình, và điều này một lần nữa khuyến khích cá nhân sử dụng nguồn
lực một cách khôn ngoan.
Bài học
là bằng việc tạo ra và tôn trọng quyền sở hữu tư nhân đối với nguồn lực bên
ngoài, chính quyền cung cấp cho cá nhân sự khuyến khích để sử dụng những nguồn
lực này theo cách hữu hiệu, mà không cần phải quy định quản lý và giám sát
nghiêm ngặt đối với các nguồn lực này. Những người theo chủ nghĩa tự do cá nhân
sử dụng tầm nhìn cơ bản này để bảo chữa việc: bảo vệ quyền tư hữu, tư nhân hóa các công trình công cộng, như đường
xa, trường học...cũng như coi đó là một lời giải cho các vấn đề về
môi trường…..
ii. Bàn tay vô hình và trao đổi tự
do
Những
người theo chủ nghĩa tự do cá nhân tin rằng các cá nhân và các nhóm nên được tự
do để trao đổi bất cứ thứ gì với bất cứ ai mà họ muốn, với rất ít hoặc không có
sự can thiệp của chính quyền. Do đó, họ phản đối những bộ luật ngăn cấm một số
dạng trao đổi nào đó (chẳng hạn, các quy định cấm mại dâm và bán các loại thuốc
bất hợp pháp, hay luật về lương tối tiểu mà sẽ cấm các thỏa thuận lao động với
lương thấp…) cũng như các bộ luật trong đó áp đặt một gánh nặng lên sự trao đổi thông qua áp đặt chi phí giao dịch cao (như thuế nhập khẩu).
Lý do
mà những người theo chủ nghĩa tự do công lợi ủng hộ sự tự do trao đổi là, họ
cho rằng, nó có xu hướng phân bố các nguồn lực vào tay những người sẽ coi trọng
chúng nhất, và khi làm như vậy sẽ tăng tổng lượng lợi ích (công lợi) của toàn xã hội. Bước đầu tiên để thấy điều này là, việc hiểu rằng
ngay cả nếu thương mại là cuộc chơi zero-sum liên quan đến các đối
tượng được trao đổi (không thứ gì
được tạo ra
hay phá hủy, mà chỉ chuyển đổi), thì đó là một cuộc chơi positive – sum
về mặt công lợi (mang
lại lợi ích tích cực cho các bên trao đổi). Điều này là vì các cá nhân có đánh
giá khác nhau lợi ích mà họ gán cho các đối tượng. Một người có kế hoạch di
chuyển từ Chicago tới Sandiego sẽ gán một giá trị tương đối thấp cho đồ đạc lớn
và nặng của cô ta. Rất khó và đắt để
chuyển, và có thể không phù hợp với kiểu cách ngôi nhà mới. Nhưng đối với ai đó
vừa chuyển đến một căn phòng trống ở Chicago, thì đồ đạc đó lại rất có ích. Nếu
người đầu định giá đồ đạc là 200$, và người thứ hai định giá nó 500$, cả hai sẽ
được lợi nếu họ trao đổi cho một mức giá mà nằm giữa những giá trị này. Mỗi người
sẽ từ bỏ thứ gì mà họ xem là ít có giá trị để đổi lại thứ mà họ xem là có giá
trị hơn, và từ đó lợi ích chung sẽ tăng lên.
Như
Hayek đã chỉ ra, nhiều thông tin về giá trị tương đối được gán cho các hàng hóa
khác nhau được truyền cho các tác nhân khác nhau trên thị trường thông qua hệ
thống giá cả. Một sự gia tăng về giá của một hàng hóa biểu thị nhu cầu cho hàng
hóa đó tăng lên tương đối so với nguồn cung. Người tiêu dùng có thể phản ứng với
sự tăng giá này bằng cách tiếp tục sử dụng các hàng hóa với giá thấp hơn, hoặc chuyển
sang dùng hàng hóa thay thế, hoặc không tiếp tục sử dụng hoàng hóa đó. Quyết định
của mỗi cá nhân bị ảnh hưởng bởi giá cả của các hàng hóa có liên quan lẫn có ảnh
hưởng đến giá cả đến mức mà nó làm tăng hoặc giảm tổng cung và tổng cầu. Do đó,
dù họ không biết về điều này, song quyết định của mỗi người là một phản ứng đáp
lại các quyết định của hàng triệu người tiêu dùng và các nhà sản xuất hàng hóa
khác, mỗi trong số họ đặt quyết định của mình trên kiến thức cụ thể, cục bộ của
mình về các hàng hóa. Và dù tất cả những gì họ cố gắng làm là tối đa hóa lợi
ích của mình, mỗi người sẽ được dẫn dắt để hành động theo cách mà làm cho các
nguồn lực, hàng hóa được sử dụng với giá trị cao nhất của nó. Những ai thu được
lợi ích nhiều nhất từ hàng hóa sẽ trả giá cao hơn người khác để sử dụng nó, và
người khác sẽ tìm kiếm các hàng hóa khác rẻ hơn.
Theo giải
thích này, vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Trường phái kinh tế Áo, thị trường
là một quá trình với sự canh tranh, khám phá, đổi mới liên tục. Thị trường không
bao giờ ở trong một trạng thái cạnh tranh cân bằng, và nó sẽ luôn “thất bại”
theo tiêu chuẩn về tính hiệu quả hoàn hảo. Nhưng chính sự thất bại của thị trường,
cung cấp cơ hội trong tương lai cho các doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận thông qua
các phát minh mới. Cạnh tranh là một quá
trình, không phải là một mục tiêu để đạt đến, và nó là một quá trình được thúc
đẩy bởi các quyết định cụ thể của các cá nhân, những người hầu như không ý thức
về xu hướng tổng thể và dài hạn của các quyết định của họ. Song dù không ai quan tâm đến việc làm gia tăng tổng lợi ích của toàn xã hội,
nhưng anh ta, như Adam Smith viết, “bị dẫn dắt bởi bàn tay vô hình để thúc đẩy
một mục đích vốn không nằm trong dự định của anh ta”. Và trong thực tế, tất cả
những gì mà chính quyền được đòi hỏi phải làm để đạt được kết quả này là định
nghĩa và củng cố các quyền sở hữu tư nhân một cách rõ ràng cũng như cho phép hệ thống giá cả tự do điều chỉnh để đáp lại sự thay đổi của
hoàn cảnh.
iii. Lý lẽ chống lại sự can thiệp
của chính quyền
Hai lý
lẽ ở trên, nếu thành công, giải thích rằng thị trường tự do và sở hữu tư nhân tạo
ra các kết quả công lợi tích cực. Nhưng ngay cả khi điều này đúng, thì vẫn có
thể là sự can thiệp có chọn lọc của chính quyền vào nền kinh tế có thể tạo ra
các kết quả mà thậm chí còn có thể tốt hơn. Chính quyền có thể sử dụng thuế
cũng các cưỡng bách khác nhằm mang
lại lợi
ích công, hay ngăn một số dạng thất bại của thị trường như độc quyền. Hoặc
chính quyền có thể thực hiện sự tái phân phối thuế trên cơ sở giảm bớt mức lợi ích (vốn có tác dụng
ít ỏi) của người giàu, nhưng khi làm như vậy lại tạo ra một mực độ cao hơn về lợi
ích tổng thể. Để bảo vệ sự phản đối của mình đối với sự can thiệp của chính quyền,
những người tự do cá nhân đã tạo ra các lý lẽ nhằm cho thấy rằng các chính sách
như vậy sẽ không tạo ra lợi ích lớn hơn so với chính sách laissez-faire. Việc tạo
ra các lý lẽ như vậy là một công việc phức tạp của các nhà kinh tế học tự do cá
nhân, và ở đây chúng ta không bàn chi tiết đến. Tuy nhiên có hai lý lẽ đặc biệt
có ảnh hưởng. Chúng ta có thể gọi chúng là lý lẽ khuyến khích và lý
lẽ lựa chọn công.
Lý lẽ
khuyến khích xuất phát từ tuyên bố cho rằng các chính sách của chính quyền được
thiết kế để thúc đẩy công lợi lại thực
sự tạo ra sự khuyến khích cho các cá nhân hành động theo cách trái ngược với việc
thúc đẩy công lợi. Một số
ví dụ về lý lẽ khuyến khích bao gồm (a) phúc lợi được cung cấp bởi chính quyền
ngăn cản cá nhân chịu trách nhiệm cho sự thịnh vượng kinh tế của họ, (2) luật về
lương tối thiểu bắt buộc tạo ra sự thiết nghiệp ở người lao động không có kĩ
năng, (3) sự ngăn cấm pháp lý đối với các thuốc “cấm” tạo ra thị trường chợ đen
với giá cả bị thổi phồng, chất lượng thấp…(d) thuế cao khiến cho mọi người lao
động và đầu tư ít hơn, và từ đó dẫn đến giảm bớt sự phát triển kinh tế.
Mặt
khác, lý lẽ lựa chọn công thường được các nhà tự do cá nhân sử dụng để làm suy
yếu khẳng định cho rằng chính quyền sẽ sử dụng sức mạnh của mình để thúc đẩy lợi
ích công theo cách mà theo người dân mong muốn. Lựa chọn công là một lĩnh vực dựa
trên giả định rằng mô hình tư lợi duy lý được sử dụng rộng rãi bởi các nhà kinh
tế nhằm cho biết trước hành vi của các tác nhân thị trường cũng có thể được sử
dụng để dự báo hành vi của các tác nhân cai trị. Đó là, thay vì cố gắng để tối
đa lợi ích công, các tác nhân cai trị
luôn hướng đến việc tái cử (trong trường hợp của quan chức được bầu) hay duy
trì hoặc mở rộng ngân sách lẫn sự ảnh hưởng (trong trường hợp của giới quan
liêu). Từ mô hình phân tích cơ bản này, các nhà lý thuyết lựa chọn công cho rằng
(a) thực tế là chi phí cho nhiều chính sách được phân chia rộng rãi cho những
người đóng thuế, trong khi lợi ích thì thường tập trung vào một số ít thụ hưởng,
đồng thời một khi các chính sách hoàn toàn không hiệu quả như vậy được ban
hành, rất khó để dỡ bỏ, (b) các chính trị gia và công chức sẽ thực hiện các
hành vi “tìm kẽ hở” bằng cách lợi dụng quyền lực từ địa vị của mình cho các mục
đích cá nhân hơn là lợi ích chung, và (c) một số lợi ích chung nào đó sẽ được
cung cấp dư thừa, trong khi các lợi ích khác thì lại thiếu bởi chính tiến trình
chính trị, vì chính quyền thiếu cả tri thức và động cơ cần thiết để cung cấp
các lợi ích như vậy một cách hiệu quả. Những vấn đề này là căn bệnh đặc thù gắn
liền với tiến trình chính trị, và không dễ để chỉnh sửa về mặt lập pháp hay hiến
pháp. Từ đây, nhiều người kết luận rằng cách duy nhất giảm bớt các vấn đề của
quyền lực chính trị là tối thiểu phạm vi của quyền lực chính trị, khiến nó chỉ
sử dụng trong một vài lĩnh vực của đời sống.
b. Chủ nghĩa kết quả (dựa trên) truyền thống
Các nhà
công lợi định lượng vừa duy lý lẫn cấp tiến trong cách tiếp cận của họ đối với
các cải cách xã hội. Đối với họ, việc tối đa lợi ích là nguyên tắc đầu tiên
không phải bàn cãi, từ đó các chính sách có thể được đưa ra dựa trên các đánh giá
kinh nghiệm về quan hệ nhân quả. Từ Bentham đến Singer, các nhà công lợi định lượng
ủng hộ sự cải cách mạnh mẽ đối với các thiết chế xã hội, tất cả được bảo vệ
nhân danh lý tính và tính đạo đức mà các thiết chế này mang lại.
Tuy
nhiên, có một khuynh hướng khác của chủ nghĩa kết quả, ít tin tưởng hơn vào khả năng của lý tính để cải cách các thiết chế xã hội một cách cấp
tiến cho các mục đích tốt hơn. Đối với những người theo chủ nghĩa kết quả này,
các thiết chế xã hội là sản phẩm của một quá trình tiến hóa, mà quá trình tiến
hóa lại là sản phẩm của hàng triệt các quyết định của các cá nhân riêng rẽ. Mỗi
cá nhân lại sở hữu tri thức mà, dù có thể không quan trọng, nhưng khi gộp chung
lại thì không một nhà cải cách xã hội riêng lẻ nào có thể so sánh được. Sự yếu
kém của con người, chứ không khả năng duy lý, được dạng chủ nghĩa kết quả này ủng
hộ.
Mặc dù
nó có mối quan hệ với các nguyên tắc bảo thủ như các nguyên tắc của Edmund Burke, Michael Oakeshott, và Russell
Kirk, nhánh chủ nghĩa kết quả này có ảnh hưởng to lớn đối với chủ nghĩa tự do
cá nhân thông qua các tác phẩm của Hayek. Tuy nhiên, Hayek cố gắng giữ khoảng
cách với ý thức hệ bảo thủ, và lưu ý rằng sự tôn trọng của ông đối với truyền
thống không dựa trên việc tôn thờ cho sự nguyên trạng hay phản đối sự thay đổi,
mà sâu xa hơn, đó là trên các nguyên tắc tự do. Đối với Hayek, truyền thống là
có giá trị, bởi vì, nó tiến hóa theo cách phi tập trung và hòa bình. Các chuẩn
mực xã hội, vốn được lựa chọn bởi các cá nhân tự do và tồn tại thông qua quá
trình cạnh tranh với các chuẩn mục khác mà không thông qua sự ép buộc, là đáng nhận
được sự tôn trọng ngay cả khi chúng ta không ý thức về tất cả những lý do tại
sao các thiết chế này còn tồn tại. Ta thấy phần nào đó khá nghịch lý khi Hayek
tin rằng chúng ta có thể củng cố một cách duy lý các thiết chế mà chúng ta thiếu
những cơ sở biện minh thực sự cho việc
củng cố chúng. Lý do điều này có thể là duy lý là, ngay cả khi chúng ta thiếu những cơ sở biện minh thực sự,
thì chúng ta vẫn có cơ sở biện minh về mặt phương thức, đó là thực tế
rằng, các thiết chế là kết quả của một sự tiến hóa nào đó, thực tế này cho chúng ta cơ sở để tin rằng có những cơ sở biện minh thực sự cho nó, ngay cả khi chúng ta không biết cơ sở
này là gì.
Theo
Hayek, về cơ bản thì các phương thức mà cung cấp sức mạnh biện minh cho các thiết
chế là các phương thức cho phép cá nhân tự do hành động như họ mong muốn bao
lâu họ không hành động gây hấn đối với người khác. Tuy nhiên, theo Hayek,
nguyên tắc này không phải là một chân lý đạo đức mà theo sau từ niềm tin của
ông vào những giới hạn và cách sử dụng tri thức trong xã hội. Một bộ phận
quan trọng trong lập luận của Hayek liên quan đến hệ thống giá cả là tuyên bố của
ông cho rằng mỗi cá nhân sở hữu một tập hợp độc nhất các kiến thức về hoàn cảnh,
sự quan tâm, ước muốn, khả năng của anh ta. Hệ thống giá cả, nếu được phép hoạt
động tự do mà không có các quy định trần, sẽ phản ánh tri thức này và truyền nó
tới những cá nhân có quan tâm khác, do đó cho phép xã hội sử dụng hữu hiệu tri
thức phân tán này.
Nhưng sự
bảo vệ của Hayek đối với hệ thống giá cả chỉ là một sự áp dụng của một nguyên
lý tổng quát hơn. Sự kiện tri thức thuộc tất cả các dạng tồn
tại trong dạng thức phân tán giữa các cá nhân là một sự kiện căn bản trong sự tồn
tại của con người. Và vì tri thức này liên tục thay đổi để đáp lại sự
thay đổi của hoàn cảnh và do đó không thể tập hợp và chỉ đạo bởi một cơ quan
trung ương, nên cách duy nhất để làm cho việc sử dụng tri thức này hiệu quả là
cho phép các cá nhân tự do hành động theo cách của chính họ. Điều này có nghĩa
rằng chính quyền phải không chấp nhận việc các nhân bị cưỡng ép từ các cá nhân
khác, và cũng phải không được cưỡng ép chính họ. Trật tự xã hội mà các hành động
tự nguyên như vậy tạo ra là trật tự mà, với sự phức tạp của hệ thống kinh tế xã
hội và sự giới hạn
hết sức to lớn trong khả năng của chúng ta để đạt được tri thức về các chi tiết
cụ thể này, không thể được áp đặt
bởi các mệnh lệnh, nhưng tiến hóa một cách tụ phát theo cách từ dưới lên.
Hayek, giống như Mill trước ông, ủng hộ thực tế rằng một xã hội tự do là
một xã hội cho phép cá nhân tham gia vào “những thử nghiệm sống động” và do đó,
như Nozick lập luận trong phần thứ ba trong tác phẩm Vô chính phủ, nhà nước,
không tưởng của ông, nó có thể phục vụ như một “không tưởng cho các
không tưởng” nơi các cá nhân tự do tổ chức các quan niệm riêng của họ về đời
sống tốt lành với người khác, những người tự nguyện chia sẻ tầm nhìn của họ.
4. Chủ nghĩa tư bản vô chính phủ
Các nhà
tư bản vô chính phủ tuyên bố rằng không nhà nước nào được bảo chữa về mặt đạo đức
(vô chính phủ), và thay vào đó các chức năng truyền thống của nhà nước
phải được cung cấp bởi sự sản xuất và giao dịch tự nguyện (chủ nghĩa tư bản).
Quan điểm này đề ra một thách thức thực sự đối với cả các nhà tự do cổ điển ôn
hòa lẫn những người tự do cá nhân chủ trương một nhà nước tối thiểu, dù, như
chúng ta sẽ thấy, cái sau (nhà nước tối thiểu) đặc biệt bị đe dọa bởi thách thức
vô chính phủ này.
Chủ
nghĩa tư bản vô chính phủ có thể được bảo vệ trên cơ sở kết quả hoặc đạo đức. Về mặt kết quả, người ta cho rằng sự bảo
vệ của cảnh sát, hệ thống tòa án, và thậm chí ngay cả luật pháp có thể được cung cấp tự nguyên với một giá nào đó giống như bất cứ hàng hóa nào
khác trên thị trường. Và không chỉ thị trường có thể cung cấp các hàng hóa theo
truyền thống nhà nước cung cấp, mà thực sự là đáng mong muốn khi thị trương làm
như vậy, vì với áp lực cạnh tranh trên thị trường, sẽ tạo ra các hàng hóa có chất
lượng chung cao hơn, đồng thời đa dạng hơn để làm
thỏa mãn các sở thích khác nhau của con người. Về mặt đạo đức, các nhà tư
bản vô chính phủ cho rằng nhà nước tối thiểu nhất thiết vi phạm các quyền cá
nhân trong trừng mực mà nó (1) tuyên bố độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp và do
đó cấm các cá nhân khác không được sử dụng vũ lực theo quyền tự nhiên của họ,
(2) gây quỹ cho việc cung cấp dịch vụ bảo vệ với thuế thu nhập bắt buộc mà đôi
khi (3) được sử dụng
theo cách tái phân phối khi chi trả cho sự bảo vệ cho những người không thể chi
trả cho sự bảo vệ của chính họ.
Nozick
là một trong những triết gia hàn lâm đầu tiên giải quyết thách thức của những người vô chính phủ một cách nghiêm túc. Trong phần đầu của Vô chính
phủ, nhà nước, và không tưởng, ông cho rằng nhà nước tối thiểu có thể tiến
hóa từ một xã hội tư bản vô chính phủ thông qua quá trình bàn tay vô hình
mà không vi phạm quyền của bất cứ ai. Ông cho rằng áp lực cạnh tranh và xung đột
bạo lực sẽ khuyến khích cho các công ty bảo vệ cạnh tranh đi đến sát nhập hay
thông đồng từ đó những sự độc quyền (cung cấp dịch vụ bảo vệ) sẽ xuất hiện
trong một khu vực nào đó. Dù sự độc quyền này tồn tại trên thực tế, song cơ
quan bảo vệ chi phối vẫn chưa phải là nhà nước. Để cho điều đó xảy ra, thì “công
ty bảo vệ trội hơn” phải tuyên bố rằng đó là bất hợp pháp về mặt đạo đức khi
các công ty bảo vệ khác hoạt động, và tiến hành một số nỗ lực duy lý để ngăn chặn
các công ty này hoạt động. Lý lẽ của Nozick rằng, sẽ là hợp pháp cho công ty bảo
vệ trội hơn làm như vậy, đây là một trong khía cạnh tranh cãi trong lập luận của
ông. Về cơ bản, ông cho rằng cá nhân có quyền không chịu sự rủi ro của việc bị
vi phạm các quyền, và do đó công ty bảo vệ trội hơn có thể ngăn cấm một cách hợp
pháp các hoạt động bảo vệ của các đối thủ cạnh tranh của nó trên cơ sở là hoạt
động của họ liên quan đến việc tạo ra các rủi ro đó. Khi tuyên bố và củng cố sự
độc quyền này, cơ quan bảo vệ chi phối trở thành điều mà Nozick gọi là “nhà nước
ultraminimal” – ultraminimal bởi vì nó không cung cấp các dịch vụ bảo vệ cho tất
cả mọi người trong lãnh thổ của nó, nhưng chỉ cho những ai chi trả cho nó. Sự dịch
chuyển từ nhà nước ultraminimal sang nhà nước tối thiểu xảy ra khi cơ quan bảo
vệ chi phối cung cấp dịch vụ bảo vệ cho tất cả các cá nhân trong phạm vi lãnh
thổ của nó, và Nozick cho rằng nhà nước này có nghĩa vụ đạo đức phải làm như vậy
để bồi thường cho các cá nhân, những người bị thua thiệt bởi sự tóm lấy độc quyền
quyền lực của nó.
Các lý
lẽ của Nozick chống lại những
người vô
chính phủ gặp phải một số thách thức. Thứ nhất, sự biện minh cho nhà nước
mà nó cung cấp là hoàn toàn mang tính giả thuyết – hầu hết ông nỗ lực để tuyên
bố là một nhà nước có thể xuất hiện hợp pháp từ trạng thái tự
nhiên, mà không phải là bất cứ nhà nước thực tế nào phải như vậy. Nhưng nếu sự giả thuyết không vấn đề gì, thì một câu truyện thuyết
phục tương tự có thể kể về làm thế nào mà một nhà nước tối thiểu có thể trở lại
thành một tác nhân cạnh tranh đơn thuần với các tác nhân khác bởi một quá trình
mà không vi phạm quyền của ai, do đó khiến chúng ta ở một trạng thái bế tắc cho sự biện minh. Thứ hai, đó là
đáng nghi liệu việc ngăn cấm các hành động vốn có khả năng vi phạm các quyền,
nhưng không thực sự vi phạm gì cả, có tương thích với các nguyên tắc tự do căn
bản hay không. Cuối cùng, ngay cả khi nguyên tắc ngăn cấm tổng quát với
sự bồi thường là hợp pháp, thì đáng ngờ rằng, cách đúng
đắn để bồi thường cho những
người vô
chính phủ, những người bị làm tổn hại bởi yêu sách của nhà nước về sự độc quyền,
là cung cấp cho anh ta những điều
anh ta không muốn – cảnh sát nhà nước và dịch vụ quân sự.
Dù chưa
chưa hoàn toàn thuyết phục, song quan điểm của các nhà vô chính phủ vẫn là một
thách thức nghiêm trọng đối với những người tự do cá nhân, đặc biệt là đối với những người chủ chương nhà nước tối thiểu. Điều này hoàn toàn đúng bất kể
việc liệu chủ nghĩa tự do cá nhân được bảo vệ trên cơ sở kết quả hay trên cơ sở
quyền tự nhiên. Đối với các nhà tự do kết quả, thách thức là giải thích tại sao
luật và các dịch vụ bảo vệ là thứ tốt duy nhất được đòi hỏi bởi nhà nước nhằm tối
đa lợi ích. Ví dụ, nếu sự biện minh kết quả cho các bộ luật là: luật là một thứ
tốt đẹp công, thì câu hỏi là: tại sao các thứ tốt công khác lại cũng không được
cung cấp? Tuyên bố chỉ có cảnh sát, tòa án, quân đội phù hợp với lý thuyết là một tuyên bố dựa trên niềm tin hơn là dựa
trên kết quả
từ một sự phân tích kinh nghiệm. Điều
này giải thích tại sao rất nhiều nhà tự do cá nhân kết quả là những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển, vốn sẵn
sàng cho phép cho một nhà nước lớn hơn nhà nước tối thiểu. Đối với các nhà tự
do đạo đức, thách thức là cho thấy tại sao nhà nước được biện minh khi (a) ngăn
câm cá nhân không được thực thi hay mua các dịch vụ bảo vệ cho chính họ và (b)
cung cấp tài chính cho các dịch vụ bảo vệ thông qua thuế ép buộc và thuế tái
phân phối. Nếu dạng ngăn cấm này, và dạng cưỡng ép và tái phân phối này được bảo
chữa, thì tai sao lại không thể biện minh cho cái khác? Một khi ranh giới rõ ràng của sự không gây hấn
này bị vượt qua, thì rất khó để đưa ra lý do thuyết phục.
Nguồn:http://www.iep.utm.edu/libertar/