Dân chủ hóa 8: Tóm tắt các mô hình phát triển chính trị

Posted on
  • Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018
  • by
  • nguyenminh
  • in
  • Nhãn:
  • Minh Anh dịch
    Sáu trường hợp trên được phân tích theo ba câu hỏi:
    1)   mức độ mà các nguyên tắc giải trình trách nhiệm và pháp quyền được thiết lập trước khi quá trình công nghiệp hóa diễn ra?
    2)   mức độ mà bản sắc quốc gia được thiết lập trước khi quá trình công nghiệp hóa diễn ra?
    3)   và mức độ mà trật tự xã hội cũ bị xóa bỏ trước khi quá trình công nghiệp hóa diễn ra?
    Mỗi trong sáu trường hợp đại diện cho các mô hình phát triển chính trị khác nhau. Các mô hình này được minh họa trong bảng dưới.

    Anh
    Pháp
    Mỹ
    Bản sắc quốc gia
    Bản sắc quốc gia gắn với quốc gia, chứ không phải với vua. Phát triển một bản sắc quốc gia mạnh
    Người cai trị có địa vị nổi bật, lòng trung thành với người cai trị được yêu cầu (quân chủ chuyến chế). Phát triển một bản sắc quốc gia không hoàn chỉnh
    Có sự phân chia chính trị giữa các khu vực của quốc gia. Bản sắc quốc gia dần phát triển sau nội chiến.
    Sự biến đổi chế độ phong kiến/xã hội
    Giai cấp quý tộc bị tư sản hóa (trở thanh giai cấp tư sản). Chế độ phong kiến biến mất (tầng lớp nông dân bị xóa bỏ do việc rào đất)
    Quý tộc phụ thuộc vào vua (đặc biệt Louis XIV và các vua sau đó). Nông nghiệp dựa nhiều vào sức lao động (trồng nho, lúa mỳ); cần một lượng lớn lao động, giai cấp nông dân vẫn còn tồn tại mạnh. Chế độ phong kiến chỉ bị xóa bỏ một phần bởi Cách mạng Pháp.
    Chế độ phong kiến duy trì ở miền Nam. Nông nghiệp đòi hỏi nhiều sức lao động. Di sản bán phong kiến vẫn duy trì ở miền Nam
    Thiết chế hóa
    Người cai trị cam kết với một số hình thức đại diện và trách nhiệm giải trình trước khi Cách mạng Công nghiệp diễn ra.
    Chuyển sang chế độ chuyên chế: không giải trình trách nhiệm cũng không pháp quyền.
    Cam kết với một số hình thức đại diện và giải trình trách nhiệm trước khi công nghiệp hóa diễn ra.


    Đức
    Nhật
    Nga
    Bản sắc quốc gia
    Có sự chia  rẽ về chính trị; sự khác biệt lớn giữa các khu vực. Cảm quan về bản sắc dân tộc yếu.
    Chia rẽ về chính trị, sự khác biệt phong kiến mạnh. Tuy nhiên, bản sắc quốc gia khá phát triển.
    Đế chế được xây dựng trước khi hình thành khái niệm dân tộc; Trung thành với Tsar được ưu tiên. Bản sắc dân tộc hiện nay vẫn còn là chủ đề tranh cãi.
    Sự biến đổi chế độ phong kiến/xã hội
    Biến đổi giới hạn. Giai cấp quý tộc vẫn còn ảnh hưởng trong giới quân sự và trong khu vực phía Đông (Phổ).
    Biến đổi giới hạn. Quý tộc vẫn còn mạnh.
    Quý tộc củng cố trật tự phong kiến cũ. Chế không phong kiến không biết mất trước khi công nghiệp hóa diễn ra; công nghiệp hóa do chính quyền lãnh đạo.
    Thiết chế hóa
    Chế độ quân chủ phản kháng lại việc giải trình; có một truyền thống mạnh về việc tuần theo nhà nước; nguyên tắc giải trình hay pháp quyền không được chấp nhận.
    Chế độ phong kiến và một số hình thức giải trình giới hạn của Shogun và Hoàng Đế. Tuy nhiên, sự đại diện phổ thông không tồn tại trước khi công nghiệp hóa xảy ra.
    Không có bất cứ sự thiết chế hóa nào hình thành dưới thời Tsar; nguyên tắc giải trình và pháp quyền không được chấp nhận.
    -       Trường hợp Anh minh họa cho mô hình nơi mà trước khi công nghiệp hóa diễn ra, bản sắc chính trị quốc gia đã được phát triển qua đó kết nối người dân lại với nhau.
    o  Dù sự phát triển của một chính quyền tập trung mạnh sớm đóng góp cho sự phát triển này của bản sắc quốc gia, song vào cuối thế kỷ XVII, bản sắc dân tộc Anh không đơn thuần tương đương với việc trung thành với nhà vua, mà nó đồng nhất với cộng đồng quốc gia rộng lớn hơn. Điều này có nghĩa rằng các lực lượng ly tâm mà công nghiệp hóa tạo ra sẽ bị chặn lại bởi cảm quan về cộng đồng và bản sắc quốc gia chung kết dính người Anh lại với nhau.
    o  Thứ hai, cấu trúc xã hội phong kiến đã thay đổi văn bản trước khi công nghiệp hóa diễn ra; tầng lớp nông dân đã bị phá hủy bởi việc rào đất và tầng lớp quý tộc bị biến thành một tầng lớp tư sản nông thôn mang tinh thần thương mại. Điều này có nghĩa rằng các gia cấp xã hội thù địch nhất với quá trình hiện đại hóa đã bị vô hiệu hóa một cách hiệu quả.
    o  Thứ ba, sự phát triển của các nguyên tắc giải trình trách nhiệm và tham gia dẫn đến sự phát triển của nguyên tắc pháp quyền và xã hội dân sự xảy ra trước công nghiệp hóa. Hơn nữa, các thiết chế tham gia (quốc hội và các cuộc bầu cử) đã tồn tại. Do đó, khi yêu cầu cho sự tham gia tăng cao xuất hiện trong thế kỷ XIX (do công nghiệp hóa tạo ra), tất cả những gì cần làm là mở rộng địa hạt chính trị - mà không phải tái xây dựng lại địa hạt này.
    -       Trường hợp Pháp đại diện cho một mô hình nơi mà sự biến đổi không hoàn tất trong thời kì tiền công nghiệp hóa khiến cho con đường đi đến dân chủ không ổn định.
    o  Một mặt, Pháp đã phát triển một số cảm quan về bản sắc dân tộc, ít nhất trong giới trí thức. Tuy nhiên, như Macridis chỉ ra, bản sắc này phần nào phân mảnh, với văn hóa chính trị Pháp được đặc trưng bởi mức độ bất mãn rộng lớn thay vì đồng thuận.
    o  Hơn nữa, dù Cách mạng Pháp xóa bỏ một phần chế độ phong kiến với việc phá bỏ nền quân chủ và giai cấp quý tộc, song giai cấp nông dân vẫn còn là một lực lượng phản hiện đại, phản dân chủ lớn ở thời điểm đó trong nền chính trị Pháp.
    o  Cuối cùng, dù một truyền thống về chính quyền giới hạn và giải trình trách nhiệm kì cùng đã phát triển sau đó trong thế kỷ XIX, những truyền thống này không kéo dài. Sự phụ thuộc của xã hội vào triều đình trước đó có nghĩa rằng các nguyên tắc giải trình và chính quyền đại diện được phát triển tương đối yếu ở thời điểm quá trình hiện đại hóa kinh tế diễn ra trong nửa sau thế kỉ XIX. Điều này có nghĩa rằng hệ thống Pháp chỉ được chuẩn bị một phần trước khi nó chuyển sang hệ thống dân chủ khi công nghiệp hóa diễn ra.
    -       Trường hợp Mỹ đại diện cho một ví dụ khác về hệ thống chỉ được chuẩn bị một phần – đặc biệt bản chất không hoàn chỉnh của bản sắc quốc gia Mỹ trước Nội chiến. Nội chiến, với mức độ bạo lực như đã xảy ra, mang đến sự khởi đầu cho việc tạo ra một “liên minh” hoàn chỉnh hơn và một bản sắc quốc gia mà qua đó mở đường cho sự mở rộng của dân chủ. Mặt khác, cũng như với các nền dân chủ ở trên, các thiết chế giải trình trách nhiệm, đã tồn tại trước khi sự mở rộng kinh tế và thay đổi xã hội xảy đến do quá trình công nghiệp hóa tạo ra. Do đó, quá trình dân chủ hóa của Mỹ ít bạo lực, và êm thuận hơn so với trường hợp Pháp.
    -       Không như Anh, Pháp, và Mỹ; Đức, Nga và Nhật không có các thiết chế dân chủ trước khi quá trình mở rộng kinh tế và công nghiệp hóa diễn ra. Trong trường hợp Đức, ba chuyển biến tiền công nghiệp này thậm chí ít hơn nhiều so với trường hợp của Pháp. Chỉ có một cảm quan yếu về bản sắc quốc gia, với một mức độ phân mảnh và khác biệt cao tồn tại ở các khu vực khác nhau của Đức. Thứ hai, dù có một sự thay đổi hạn chế đối với trật tự phong kiến diễn ra trong khu vực phía Tây, đặc biệt dọc sông Rhine, song chế độ phong kiến vẫn mạnh ở phía Đông (Phổ). Cuối cùng, không có truyền thống về trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân trước đó.
    -       Nhật cũng có một bản sắc quốc gia không hoàn chỉnh ít nhất theo nghĩa nghĩ một nhà nước dân tộc, vẫn còn khá phong kiến cho đến gần đây, dù đã có một số mức độ về giải trình của Hoàng đế và sự tự trị tương đối của tầng lớp lãnh chúa trong thời kì Tokugawa. Điều này có nghĩa rằng ở Đức cũng như ở Nhật, những sự chuẩn bị về thể chế cho những thách thức mà công nghiệp hóa tạo ra mới chỉ diễn ra một phần, và vẫn còn khá yếu ớt.
    -       Trường hợp Nga đại diện cho cực đối lập với trường hợp của Anh. Với Nga, không có một bản sắc quốc gia rõ ràng dưới thời Tsar. Hơn nữa, không giống như Đức, trật tự phong kiến hầu như không có thay đổi gì vào giữa thế kỷ XIX, và chắc chắn cho đến cả đầu thế kỉ XX. Cuối cùng, với bản chất của chế độ chuyên chế Nga, khi mọi quyền lực đều tập trung vào một nhà độc tài duy nhất, không nguyên tắc giải trình, pháp quyền hay tham gia nào được phát triển. Khi các nguyên tắc như vậy bắt đầu phát triển vào đầu thế kỷ XX, chúng chỉ được giới quân chủ chấp nhận một cách miễn cưỡng và bị làm cho xói mòn ngay sau đó. Nhưng các hành động do dự như vậy khiến cho những điều chỉnh chế độ sau này trở nên quá muộ. Các lực lượng xã hội (mà côn nghiệp hóa tạo ra) kỳ cùng sẽ phá hủy chế độ quân chủ ở mức độ lớn hơn nhiều so với các nỗ lực yếu ớt để ngăn chặn chúng.
    (hết phần 8)
    Nguồn: John T. Ishiyama. Comparative Politics
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org