Minh
Anh dịch
Lịch sử thời kỳ
đầu của Nga với đầy các cuộc xâm lăng và thống trị từ các thế lực nước ngoài.
Các bộ tộc Slavic nông nghiệp cư trú ở vùng thảo nguyên phía nam nước Nga liên
tục bị các dân tộc Châu Á và Châu Âu xâm chiếm, khiến cho người Slavic bị phân
chia thành ba nhánh, phía tây (Czechs, Slovaks và Poles), phía đông (Russians,
Byelorussians and Ukrainians) và phía nam (Serbs, Croats, Bulgars).
Nhà nước Slavic
phía đông đầu tiên được thiết lập năm 862 bởi Rurik, người đã dẫn dắt một nhóm
người Viking và thiết lập một khu định cư gần Moscow ngày nay, nơi mà ông tuyên
bố mình là công tước. Sau đó con trai ông dời thủ đô của công quốc xuống phía
nam tới thành phố Kiev. Dười thời vua Vladimir (980 – 1015), nhà nước Kiev thiết
lập quan hệ với Đế chế Đông La Mã (Byzantium) và sử dụng Chính thống giáo là
tôn giáo quốc gia, cũng như chữ viết Hilap làm cơ sở cho ngôn ngữ Đông Slavic.
Sau khi công tước
Yaroslavl (1054 – 1236) chết, nhà nước Kiev thống nhất được chia thành nhiều
công quốc do các công tước khác nhau cai trị. Nổi tiếng nhất có lẽ là Alexander
Nevsky, công tước của Novgorod, người trong một giai đoạn ngay trước khi Mông Cổ
thôn tính Nga vào năm 1242 đã chiến thắng các công tước Đức vùng Baltic, những
người đang muốn mở rộng ảnh hưởng của Công giáo La Mã sang Nga. Cùng năm đó
Mông Cổ xâm lược và phá hủy nhà nước Kiev và khuất phục các công quốc Nga. Dưới
sự thống trị của người Mông cổ (1242 – 1480), các nhà nước kiểu thành bang đơn
lẻ bắt đầu phát triển.
Hai nhà nước
đáng chú ý nhất trong số đó là Moscow và Novgorod, với cái sau là trung tâm
thương mại do một hội đồng được bầu chọn quản lý. Trong khi đó, Moscow nắm dưới
sự cai trị của độc đoán của các Đại công tước. Vào năm 1380, Đại công tước của
Moscow là Dmitri đã đánh bại người Mông cổ. Từ đó, quyền lực của Mông cổ dần
suy yếu. Năm 1480, Ivan III tuyên bố ông là Tsar (Nga hoàng), tước hiệu Nga biểu
tượng cho sự thống nhất của giáo hội và nhà nước, và phản ánh yêu sách của Đại
công tước rằng Moscow là “Rome Thứ ba” (Sau Rome và Constantinople). Ông bao vây
Novgorod và cuối cùng trục xuất người Mông cổ khỏi Moscow.
Chiến thắng của
Moscow đánh dấu bước khởi đầu của chế độ cai trị chuyên chế của Tsar. Tuy
nhiên, cũng như ở Tây Âu, có một cuộc đấu tranh liên tục giữa giới quý tộc đất
đai và Vua. Cuộc đấu tranh đó lên đến đỉnh điểm với sự kế vị của Ivan IV - “Kẻ gây khiếp sợ” - vào năm 1547 ở tuổi 16.
Lúc đầu, Ivan dựa chủ yếu vào một hội đồng địa chủ (Zemsky Sobor) trong việc
đưa ra chính sách. Tuy nhiên, sau đó ông phá hủy Hội đồng và tuyên bố nhà nước
Nga thuộc thẩm quyền của chính cá nhân ông. Từ năm 1565-1584, Tsar tiến hành cuộc
thành lọc giới quý tộc, bắt giữ, trục xuất và tịch thu tài sản của họ, do đó vô
hiệu hóa các mối đe dọa mà giới quý tộc có thể gây ra cho quyền lực cá nhân của
ông.
Sau một giai đoạn
bất ổn sau cái chết của Fedor (người kế tục Ivan) từ năm 1598-1613, quyền lực
tuyệt đối lại một lần nữa được cố kết vào trong tay một triều đại mới,
Romanovs. Một trong những người nổi tiếng nhất trong các Tsar Romanovs là Peter
I (1672 – 1725) người tuyên bố mình là Hoàng Đế, chinh phục các vùng đất mới ở
phía tây và phía nam, cũng như tìm cách hiện đại hóa nước Nga. Peter giới thiệu
nhiều cải cách chính trị và xã hội; thiết lập một bộ máy quan liêu dựa trên tài
năng, cũng như giới thiệu việc treo thưởng địa vị quý tộc cho các cá nhân đã
đóng góp phục vụ nhà nước. Chính sách này đã làm xói mòn hơn nữa địa vị của giới
quý tộc và về cơ bản khiến giới quý tộc phục thuộc vào Vua. Ngoài ra, các cải
cách của Peter không đến được với mọi bộ phận của nước Nga. Sau khi chết, Peter
để lại một nước Nga chia rẽ giữa giữa một giới tinh hoa tây hóa, thường nói tiếng
Pháp, với một giai cấp nông dân truyền thống.
Sự củng cố của
chế độ độc đoán và sự mở rộng của Đế chế Nga đã tạo ra những hệ quả đối với sự
phát triển của bản sắc dân tộc Nga. Chất kết dính mà qua đó giữ đế chế lại với
nhau, từ Balan ở phía Tây, Caucasus ở phía Nam, cho tới Siberia ở phía Đông, là
lòng trung thành với Tsar, chứ không phải lòng trung thành với một cộng đồng quốc
gia cụ thể nào. Chế độ Tsar phủ nhận dân tộc Nga có một bản sắc, thông qua sự
phụ thuộc của nó với chế độ chuyên chế, một hình thức chính quyền trong đó xã hội
không có vài trò gì, cũng như không được đại diện (cho việc cai trị).
Về sự phát triển
kinh tế xã hội của Đế chế Nga vào đầu thế kỷ XIX, xã hội Nga được tổ chức tương
tự chế độ phong kiến phổ biến ở Tây Âu thời Trung cổ. Gần 80% người dân là nông
nô, hay nông dân song bị ràng buộc về mặt pháp lý với đất đai và có thể bị mua
bán cùng với đất đai. Nông nô có địa vị không khá hơn nô lệ là mấy. Dù tồn tại
từ lâu trước đó, song chế độ nông nô đã được chính thức hóa bởi sắc lệnh của
nhà nước vào năm 1649, ràng buộc nông dân vào đất để ngăn chặn khả năng di cư của
nông dân phía đông tới Siberia khi đế chế chinh phục những vùng đất mới.
Do đó, vào đầu
thế kỷ XIX, Nga chưa phát triển một cảm quan mạnh về bản sắc dân tộc. Hơn nữa,
chế độ phong kiến hầu như không có nhiều biến đổi, với việc người nông dân chiếm
phần lớn dân số. Với sự phục thuộc của giới quý tộc vào nhà nước, không có xã hội
dân sự hay lực lượng nào xuất hiện để có thể kiểm soát lại các hành động tùy tiện
của vua, và vì vậy bản chất của nhà nước (lúc này) bác bỏ quan niệm về giải
trình trách nhiệm (của người cai trị với người dân). Nhìn chung, Nga đại diện
cho một cực đối lập với hoàn cảnh đã phát triển ở Anh.
Tuy nhiên, hiện
đại hóa đã đến với Nga. Quân đội Nga là một bộ phận quan trọng trong việc đánh
bại Napoleon, và các thành viên chủ chốt của nó tham gia chiếm đóng Pháp sau thất
bại của Napoleon. Nhiều quan chức trẻ được tiếp xúc với các nguyên tắc của Cách
mạng Pháp, và khi trở lại Nga, đã tiến hành âm mưu lật đổ chế độ chuyên chế.
Tháng 12/1825, ngay sau cái chế của Alexander I, một nhóm quan chức Nga đã nỗ lực
đảo chính chống lại Tsar mới là Nicholas I (1825 –1855). Cuộc cách mạng nhanh
chóng bị đàn áp và những người cầm đầu bị xử tử hoặc trục xuất tới Siberia. Tuy
nhiên, dù sự đàn áp gia tăng sau cách mạng, các ý tưởng cách mạng vẫn được phổ
biến rộng rãi.
Hệ quả của Chiến
tranh Crimean (1835-1856) thấy rõ trên toàn bộ đất Nga, và sự thất bại sau đó của
nó trước Anh, Pháp và Thổ, đã thúc đẩy nhu cầu cải cách và hiện đại hóa Nga. Đối
với nhiều người trong chính quyền Alexander II, người kế nhiệm Nicholas I vào
năm 1855, thì sự thất bại là do sự lạc hậu về kinh tế và quân sự của Nga. Để
thúc đẩy hiện đại hóa kinh tế, Alexander II đề ra một sắc lệnh giải phóng nông
nô vào năm 1861, và tiến hành các cải cách chính trị giới hạn. Dù Alexander bị
ám sát vào năm 1881, dẫn tới sự đàn áp những người bất đồng bởi Alexander III,
trong những năm 1880, Nga bắt đầu một chương trình công nghiệp hóa nhanh chóng
thông qua việc sử dụng tư bản nhà nước. Kiến trúc sư của chương trình công nghiệp
hóa Nga là bộ trưởng tài chính Sergei Witte, người tiến hành mở rộng mạng lưới
đường sắt và xây dựng công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa
cũng tạo ra các tầng lớp xã hội mới vào cuối thế kỷ XIX, giai cấp tư sản công
nghiệp và giai cấp vô sản, dù số lượng của họ vẫn còn hạn chế. Công nghiệp hóa
cũng góp phần làm suy yếu cơ sở giai cấp của chế độ độc tài Nga và tạo ra sự nhấn
mạnh lớn hơn vào xã hội Nga. Gánh nặng thuế đối với nông dân tạo ra sự bất mãn
lớn hơn chống lại trật tự hiện hành ở vùng quê; trong khi đó, giai cấp vô sản sống
và làm việc trong điều kiện bẩn thỉu ở thành phố. Hoàn cảnh lên đến đỉnh điểm
khi vào 9/01/1905 (ngày chủ nhật đẫm máu), các binh sĩ đã bắn vào cuộc tuần
hành của công nhân khi họ mang một danh sách yêu cầu tới cho Tsar Nicholas II ở
St Petersburg. Hàng trăm người bị giết. Sự kiện này khởi đầu cho một cuộc cách
mạng, mà Tsar phải rất khó khăn mới có thể dập tắt. Cách mạng 1905 buộc
Nicholas II chấp nhận cải cách, bao gồm thiết lập một nghị viện (Duma), cũng
như hứa hẹn về một hiến pháp, các cuộc bầu cử tự do và bảo vệ các quyền dân sự.
Tuy nhiên, Tsar giữ quyền lực tuyệt đối có thể phủ quyết Duma và bãi bỏ Duma tùy
ý, và khi giận giữ cách mạng chìm xuống, ông cũng chối bỏ lời hứa về một hiến
pháp cùng sự bảo vệ các quyền dân sự.
Cho rằng có quá
nhiều thành phần cách mạng đại diện trong Duma đầu tiên (1906), Tsar giải tán
nó vào tháng 7. Duma thứ hai được bầu vào tháng 3/1907, song thậm chí còn cấp
tiến hơn Duma đầu và bị giải tán ngay sau khi đó. Năm 1907, chính quyền Tsar
thay đổi luật bầu cử có lợi cho tầng lớp giàu có. Duma thứ ba, vốn được bầu vào
cuối năm 1907, và phục vụ trọn nhiệm kì cho đến năm 1912, gồm các thành phần bảo
thủ hơn về chính trị.
Chiến tranh thế
giới I đã tạo ra một thảm họa cho Đế chế Nga. Các lực lượng Nga chịu một loạt
các thất bại nặng nề trên chiến trường, và vào cuối năm1916, do tác động của
chiến tranh, nền kinh tế hoàn toàn sụp đổ. Vào tháng 2/1917, Tsar bị buộc thoái
vị và được thay thế sau đó bởi em ông là Mikhail. Mikhail cũng bị buộc thoái vị và được thay thế bởi một chính phủ
lâm thời bao gồm một liên minh các đảng dân chủ trung tâm trong Duma. Chính phủ
lâm thời này một lần nữa bị lật đổ trong một cuộc đảo chính được lãnh đạo bởi
Vladimir Ilych Lenin vào tháng 10, Lenin tuyên bố sự độc tài của giai cấp vô sản
và công nhân. Sau nội chiến kéo dài (1917-1922), Lãnh đạo Đảng Cộng sản tuyên bố
thiết lập Liên Xô và giai đoạn cai trị của cộng sản bắt đầu (1917-1990).
(hết phần 7)
Nguồn: John
T. Ishiyama. Comparative Politics