Tương tự như
Anh, ở Mỹ, các thiết chế dân chủ (tham gia) đã tồn tại từ trước, dù bị chi phối
bởi giới địa chủ, tinh hoa. Từ lâu, nguyên tắc giải trình trách nhiệm đã là một
phần của truyền thống chính trị trong 13 bang thuộc địa và là nền tảng biện
minh cho cuộc chiến giành độc lập từ Anh. Các hội đồng dân cử (quốc hội bang) dần
có quyền lực lớn hơn so với các thống đốc (bang) do Anh bổ nhiệm – đến mức mà ở
các bang như Massachusetts, New Jersey, North Carolina, và Pennsylvania, các hội
đồng thể hiện sức mạnh của mình trong việc từ chối trả lương cho các thống đốc
trong nhiều năm. Do đó, cũng như Anh, khuân khổ của các thiết chế dân chủ đã ra
đời trước khi quá trình công nghiệp hóa diễn ra vào thế kỉ XIX.
Khác biệt chính với Anh là con đường đi đến nền dân chủ hiện đại của Mỹ diễn ra trong điều kiện
nước Mỹ mới hình thành.
-
Và vì vậy mà, thứ nhất, Mỹ không có một
cảm quan được phát triển tốt về bản sắc dân tộc (Mỹ). Thay vào đó, bản sắc khu
vực hay bang vẫn chi phối. Chẳng hạn, một công dân ở Virginia trước tiên sẽ xem
họ như một người Virginian, sau đó mới như một người Mỹ.
-
Thứ hai, có những sự chia rẽ về kinh tế
xã hội trong nửa đầu thế kỉ XVIII, mà đầu tiên, là di sản của quan hệ kinh tế
trọng thương với Anh trước cuộc chiến giành độc lập, và sau đó được tăng cường
hơn nữa do sự mở rộng về phía Tây, cũng như việc giới thiệu nền sản suất (công –
nông nghiệp) sợi ở phía Nam. Vào năm 1860, những sự chia rẽ này đã phát triển
thành ba khu vực xã hội khác nhau: sản xuất sợi ở phía Nam; sản xuất lương thực
ở phía Tây; và công nghiệp hóa nhanh chóng phía Đông – Bắc. Những sự chia rẽ
về kinh tế xã hội này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình phát triển dân dủ ở Mỹ,
khiến cho tiến trình này trở nên đầy bạo lực.
Bản sắc dân tộc không
hoàn chỉnh của Mỹ
Sau cuộc chiến
giành độc lập từ Anh, các thuộc địa cũ (13 bang) tạo nên một liên minh lỏng lẻo
giữa các bang. Những năm đầu tiên của nền cộng hòa tập trung chủ yếu vào việc
xây dựng một sự thống nhất về chính trị từ các thuộc địa rất khác nhau trước
đó, với phe “liên bang” tập trung ở khu vực Đông – Bắc có khuynh hướng thương mại
hơn, chống lại phe “chống liên bang” tập trung ở khu vực nông nghiệp phía Nam
(sở hữu nô lệ).
Thực vậy, nhiều
học giả nhận xét rằng, không giống như Anh, bản sắc quốc gia Mỹ tương đối không
hoàn chỉnh ở thời điểm độc lập. Nhìn chung, trong những năm đầu của nền cộng
hòa, chủ nghĩa địa phương và bẳn sắc địa phương chi phối. Tuy nhiên, nếu nói rằng
bản sắc quốc gia Mỹ hoàn toàn không tồn tại ở đầu thế kỉ XIX thì không hẳn
đúng. Như Russell Arben Fox nhận xét, sẽ sai lầm khi xem cuộc tranh cãi giữa những
người liên bang và chống liên bang trong những năm sau độc lập là cuộc tranh
cãi giữa “những người theo chủ trương quốc gia” và “những người theo chủ trương
địa phương”. Đúng hơn, đó là cuộc tranh luận giữa các khái niệm khác nhau về
“dân tộc, quốc gia”.
Trong khi, tầm nhìn quốc gia của những người chống liên bang bắt
nguồn từ tuyên bố của George Mason cho rằng việc duy trì “sự gắn chặt của công
dân với luật của họ, tự do của họ, và quê hương của họ (bang) sẽ góp phần gắn chặt người
người Mỹ lại với nhau hơn bất cứ ý tưởng, tổ chức chính trị nào (chung - liên bang nào)”. Thì trái lại, quan
điểm của những người liên bang lại nhấn mạnh đến sự cần thiết phải hình thành một dân tộc Mỹ với một nhà nước và một hệ thống chính trị chung (liên bang).
Do đó cảm quan
ban đầu về một bản sắc dân tộc Mỹ là không hoàn chỉnh – theo nghĩa, tiến trình
kết hợp cảm quan về một bản sắc quốc gia Mỹ với việc tạo ra một nhà nước thống
nhất tập trung không được phát triển đầy đủ. Dù có ít nghi ngờ rằng người Mỹ đã
phát triển một cảm quan về một sự ràng buộc chung, với ý tưởng cho rằng như một
tập thể họ nắm chủ quyền (tối cao), song điều còn thiếu chính là việc cho rằng
chủ quyền đó phải được chứa trong một nhà nước thống nhất, thay vì trong một tập
hợp các chính quyền bang (như lúc đó). Như Liah Greenfield viết, sự khẳng định
về “một bản sắc Mỹ” ban đầu không đi cùng với “cảm quan của người Mỹ về việc tạo
thành một thể thống nhất (về chính trị)”, mà vấn đề về bản sắc quốc gia Mỹ và
đi cùng với nó là một nhà nước tập trung thống nhất, phải đợi cho đến cuộc Nội chiến
Mỹ (1861-1865) mới được giải quyết.
Một chủ nghĩa liên bang
Mỹ?
Ngoài bản chất
không hoàn chỉnh của bản sắc quốc gia Mỹ, cũng tồn tại những khác biệt quan trọng
về kinh tế xã hội giữa các khu vực khác nhau của đất nước. Như Barrington Moore
khẳng định, sự khác biệt chính là khuynh hướng khu vực, tức sự đối đầu giữ miền
Nam sản xuất sợi, với miền Bắc sản xuất công nghiệp, và miền Tây sản xuất lương
thực. Tuy nhiên, nếu coi hoàn cảnh kinh tế xã hội này ở Mỹ trước nội chiến là kiểu tổ chức phong kiến thì không chính xác.
Thực vậy, không
như Anh hay Pháp, cuộc đấu tranh giữa quý tộc đất đai và vua không tồn tại ở Mỹ;
sản xuất nông nghiệp theo hướng thương mại luôn là một phần quan trọng trong nền
sản xuất ở miền Nam từ thời kì của các đồn điền thuốc lá đầu tiên ở Virginian.
Hơn nữa, xã hội Mỹ chưa bao giờ có một tầng lớp nông dân lớn có thể so sánh với
các xã hội nông nghiệp ở châu Âu và châu Á.
Tuy nhiên, một
cuộc nội chiến đầy bạo lực đã nảy sinh từ quá trình công nghiệp hóa đất nước
say này. Barrington Moore cho rằng Nội chiến Mỹ không thể được hiểu chỉ đơn giản
như một cuộc chiến giữa giai cấp thương mại chống lại giai cấp địa chủ phong kiến
tiền thương mại, như từng xảy ra ở nơi khác. Đúng hơn, ông cho rằng, Nội chiến
Mỹ, một trong những cuộc xung đột đẫm máy nhất trong lịch sử hiện đại, trong thực
tế là cuộc cách mạng tư bản, với chủ nghĩa tư bản công nghiệp (đang lớn mạnh)
chiến thắng trước nền nông nghiệp miền Nam, mà thực chất cũng chỉ là một dạng
chủ nghĩa tư bản khác; với sự khác biệt là dù miền Nam có “nền văn minh tư bản”,
song nó không có “một giai cấp tư sản”.
Thay vì “thách
thức ý niệm về nguyên trạng dựa trên dòng dõi, như giai cấp tư sản châu Âu từng
làm khi họ thách thức quyền cai trị của giới quý tộc, các chủ đồn điền miền Nam
cũng tìm cách chiến đấu để bảo vệ các đặc lợi kế thừa của họ”. Các đặc lợi này
dựa trên ý niệm về sự cao hơn về chủng tộc và chế độ sở hữu nô lệ. Theo nhiều
cách, điều này tương tự với những thôi thúc thương mại của quý tộc Pháp, những
người dù tham gia vào thị trường, song chưa bao giờ từ bỏ ý tưởng về các đặc lợi
quý tộc.
Những sự khác biệt
này trở nên sâu sắc hơn với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản công nghiệp ở miền
Bắc. Về mặt chính trị, những sự khác biệt này được thể hiện trong cuộc tranh
cãi về tỉ lệ thuế quan (xuất khẩu) trong giai đoạn 1820-1861. Một mặt, Thượng
nghị sĩ Henry Clay và Đảng Whig của ông, đại diện cho giới công nghiệp phía Bắc,
cho rằng thuế cao chống lại hàng sợi nhập khẩu từ Anh sẽ giúp bảo vệ “nền công
nghiệp non trẻ” ở phía Bắc. Các Đạo luật về thuế trong khoảng thời gian 1828
-1832 ủng hộ quan điểm này, khiến cho miền Nam tức giận.
Trong khi đó, miền
Nam ủng hộ thuế thấp – bởi thuế cao có nghĩa rằng những người miền Nam sẽ phải
trả nhiều hơn cho hàng hóa nhập khẩu, có thể bán ít sợi hơn ra nước ngoài (cụ
thể tới Anh) đặc biệt sau khi Anh đáp trả bằng cách đánh thuế cao đối với các sản
phẩm nông nghiệp nhập từ Mỹ và tìm cách mở rộng nhập khẩu sợi từ Ai Cập và Ấn
Độ để thay thế sợi từ Mỹ. Người miền Nam phản kháng dữ dội với đạo luật thuế
1828 đến nỗi Thượng nghị sĩ John C.
Calhoun của bang South Carolina, trong nỗ lực “bãi bỏ” thuế liên bang đã kêu gọi
ly khai vào năm 1832.
Cuộc khủng hoảng
Bãi Bỏ này đã khiến đảng Whig trì hoãn chính sách thuế cao trong 10 năm cho đến
năm 1842. Song khi giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử năm 1840 và 1842, họ
tái thiết lập thuế cao. Tuy nhiên, những người dân chủ (đại diện cho miền Nam)
lại chiến thắng vào năm 1844, với việc bầu James K. Polk làm tổng thống. Polk
thành công trong việc thông qua Đạo luật Walker Tarif năm 1846 (bằng cách thống
nhất miền Nam với miền Tây) để hạ thấp thuế quan. Và Mỹ vẫn giữ chính sách thuế
thấp có lợi cho miền Nam này cho đến khi Nội chiến bắt đầu năm 1861.
Khi khác biệt về
kinh tế giữa miền Bắc và miền Nam tăng lên (với miền Tây ngày càng đứng về phía
miền Bắc khi thực phẩm của nó được xuất khẩu cho dân số đang tăng lên ở miền Bắc
do công nghiệp hóa), làm cho sự thỏa hiệp ngày càng khó đạt được. Đối với miền
Nam để duy trì sản xuất sợi phục vụ thương mại, họ cần, trước tiên, tiếp cận với
đất chưa khai phá khi đất hiện tại (do việc trồng trọt) trở nên ít màu mỡ hơn,
và thứ hai, thuế thấp để mở rộng thị trường cho sợi miền Nam.
Mặt khác, điều
này đi đến xung đột trực tiếp với các lợi ích của miền Bắc, vốn tìm cách bảo vệ
nền công nghiệp non trẻ thông qua duy trì thuế tương đối cao. Hơn nữa, khi các
khu vực miền Tây sản xuất lương thực trở nên đông dân với các nông dân độc lập,
các điền chủ miền Nam, những người “từng chào đón các nông dân miền Tây như
liên minh của mình trong việc chống lại giới tài phiệt miền Bắc, đã đi đến xem
việc mở rộng của các nông dân độc lập như một mối đe dọa cho việc sở hữu nô lệ
và hệ thống riêng của họ”.
Các chính trị
gia miền Nam chống lại các Đạo luật cấp đất cho người di cư năm 1850, bác bỏ
trao đất “miễn phí” bởi nó sẽ dẫn đến việc “bãi bỏ chế độ nô lệ” của họ. Trong
cuộc bầu cử năm 1860, một liên minh chính trị mới hình thành giữa miền Bắc và
miền Tây trong đó giới kinh doanh miền Bắc cam kết hỗ trợ các yêu cầu về đất
đai của nông dân (miền Tây) để đổi lấy sự ủng hộ cho các biện pháp bảo hộ
thương mại. Chính liên minh này khiến miền Nam phản ứng và là chất xúc tác
chính cho Nội chiến Mỹ - kì cùng là xung đột giữa hai hệ thống kinh tế khác
nhau, không tương thích với nhau về chế độ nô lệ.
Những sự phân
chia khu vực này đã để lại một dấu vết không thể gột sạch trong sự phát triển của
hệ thống chinh trị Mỹ. Tuy nhiên, chính Nội chiến đã đưa đến sự đi lên của ý tưởng
nhà nước – dân tộc ở Mỹ. Chắc chắn, những sự khác biệt về kinh tế xã hội, vốn
thúc đẩy miền Bắc chống lại miền Nam, vẫn sẽ còn dai dẳng theo thời gian – tuy
nhiên, sự hợp nhất về chính trị của nhà nước Mỹ kì cùng là hệ quả trực tiếp của
bạo lực (từ sự khác biệt này) và mở đường cho sự củng cố của nền dân chủ Mỹ sau
đó.
(hết phần 4)
Nguồn: John
T. Ishiyama. Comparative Politics