Phương pháp này
về cơ bản tương tự phương
pháp SMDP, song áp dụng cho đơn vị bầu cử nhiều đại diện. Cử tri cũng chỉ
có một lá phiếu và bỏ cho một ứng viên duy nhất. Sự khác biệt nằm ở chỗ là
trong phương pháp SMDP, cử tri chỉ bầu ra một người đại diện cho đơn vị bầu cử
của mình, còn trong phương pháp SNTV thì cử tri sẽ bầu ra nhiều người đại diện.
Mỗi đảng cạnh
tranh trong một đơn vị bầu cử sẽ đưa ra một danh sách các ứng viên, và mỗi cử
tri sẽ chỉ được quyền bầu cho một người trong số đó. Các ứng viên nào giành được
nhiều phiếu nhất thì chiến thắng.
Điều thú vị là
các ứng viên trong phương pháp SNTV biết chính xác bao nhiêu phiếu họ cần để
chiến thắng. Ví dụ, nếu đơn vị bầu cử có n ghế, thì bất cứ ứng viên A nào giành
được hơn 1/(n+1)% số phiếu thì chắc chắn giành chiến thắng. Điều này là vì
không thể có khả năng là tất cả n ứng viên còn lại sẽ giành được nhiều hơn số
phiếu so với ứng viên A. Ví dụ, trong một đơn vị bầu cử với bốn người đại diện,
ứng viên nào giành được hơn 1/(4+1) = 20% số phiếu thì chắc chắn chiến thắng.
Phương pháp này từng
được áp dụng cho bầu cử hạ viện Nhật Bản cho đến năm 1994, và Đài Loan cho đến
năm 2005. Nó hiện cũng được sử dụng cho các cuộc bầu cử quốc hội ở Afghanistan,
Jordan và Vanuatu.
Ưu
điểm
Phương pháp này
có ưu điểm sau:
-
So với phương pháp SMDP thì nó tạo ra kết
quả mang tính tỉ lệ hơn và qua đó giúp gia tăng sự hiện diện của các đảng nhỏ
và các nhóm thiểu số trong quốc hội. Điều này là vì ứng viên từ các đảng nhỏ và
các nhóm thiểu số có thể được bầu ngay cả khi họ không phải là lực lượng giành
được nhiều phiếu nhất trong đơn vị bầu cử.
Trong thực tế, một
số nước áp dụng phương pháp này nhằm cải thiện tỉ lệ đại diện trong quốc hội của
các nhóm thiểu số, và nhìn chung nó tạo ra kết quả có tính tỉ lệ hơn so với các
phương pháp đa số khác, một điều mà khiến các học giả đi đến phân loại phương
pháp này vào nhóm ‘bán tỉ lệ’ hơn là nhóm ‘đa số’.
Nhược
điểm
Phương pháp này
có một số nhược điểm sau:
-
Thứ nhất, làm suy yếu đảng chính trị
thông qua việc khuyến khích cho cạnh tranh và phe phái trong đảng. Đó là vì các
ứng viên trong một đảng cạnh tranh không chỉ với các ứng viên từ các đảng khác
trong đơn vị bầu cử mà còn cạnh tranh với chính ứng viên từ đảng của mình. Kết
quả là các chiến dịch bầu cử thường tập trung vào chính ứng viên (đặc điểm cá
nhân) hơn là vào sự khác biệt về chính sách, và các ứng viên dành nhiều thời
gian hơn để phát triển danh tiếng cá nhân của mình (hơn là của đảng mà mình đại
diện).
-
Thứ hai, các ứng viên muốn đảm bảo đủ phần
trăm số phiếu để tiếp tục thắng cử trong kì bầu cử kế tiếp sẽ có xu hướng phát
triển các hệ thống bảo trợ, trong đó ứng viên sẽ mua chuộc cử tri bằng một số lợi
ích nào đó. Hệ thống bảo trợ trở nên đặc biệt phổ biến khi ứng viên không cần
giành nhiều phiếu để đảm bảo có ghế. Điều này đúng khi SNTV được dùng cho đơn vị
bầu cử lớn với nhiều đại biểu.
-
Thứ ba, có xu hướng làm lợi cho các đảng
đương quyền và các đảng được tổ chức tốt. Như đã nói, SNTV khuyến khích sự phát
triển hệ thống chính trị dựa trên các quan hệ bảo trợ và cá nhân. Các đảng
đương quyền có ưu thế bởi vì họ có cơ hội lớn hơn trong việc tiếp cận với các
nguồn lực nhà nước cũng như phân bổ các nguồn lực đó cho những người ủng hộ của
mình.
Còn các đảng được
tổ chức tốt không chỉ sẽ chuẩn bị tốt hơn trong việc đảm bảo rằng các lợi ích
được phân phối cho cử tri của mình, mà còn có thể đối phó tốt hơn với những
tình thế nan giải mà các đảng và cử tri phải đối mặt trong hệ thống bầu cử SNTV.
Dù mọi đảng trong hệ thống SNTV muốn giành nhiều ghế nhất có thể trong các đơn
vị bầu cử nhiều đại biểu, song họ không muốn đưa quá nhiều ứng viên khiến cho cử
tri của họ phân tán lá phiếu cho các ứng viên đến mức mà không ứng viên nào, hoặc
chỉ một vài ứng viên của đảng có thể thắng cử. Điều này khiến cho các đảng
chính trị phải thận trọng trong việc lựa chọn số lượng ứng viên chạy đua cho mỗi
đơn vị bầu cử.
Tương tự, cử tri
của mỗi đảng rất khó để biết ứng viên nào của đảng cần lá phiếu của họ nhất để
mà bỏ cho anh ta; nếu họ bỏ lá phiếu của mình cho ứng viên mà đã đủ số phiếu để
thắng cử, thì lá phiếu của họ bị lãng phí. Các đảng được tổ chức tốt thường có
thể giải quyết những vấn đề này tốt hơn bởi vì họ có thể phối hợp giữ việc chỉ
định và phân phối số phiếu của cử tri ủng hộ sao cho tối đa số ứng viên của đảng
sẽ được bầu trong mỗi đơn vị bầu cử.
-
Thứ tư, các ứng viên ít có khuyến khích
để xây dựng liên minh rộng rãi bởi vì ứng viên trong phương pháp này có thể chiến
thắng với chỉ một phần nhỏ số phiếu; và điều này cũng dẫn đến một hệ quả khác
là các ứng viên không cần phải chừng mực trong thông điệp chính trị của mình,
mà có thể đưa ra các tu từ cực đoan để thu hút một nhóm cử tri nào đó. Và điều
này khiến cho nhiều người đi đến tin rằng hệ thống SNTV làm gia tăng khả năng bầu
chọn lên những ứng viên cực đoan, điều có thể dẫn đến bất ổn cho hệ thống chính
trị.
Tài
liệu tham khảo:
- Principles
of Comparative Politics, Matt Golder và các tác giả.