“Dân
hai nhăm triệu ai người lớn / Nước bốn
nghìn năm vẫn trẻ con” (Trích bài “Bính thìn
Xuân Cảm” của Tản Đà (1916) trong tập thơ “Khối Tình Con”).
Với
trái tim nhạy cảm của một thi sỹ lớn nặng tình với đất nước, trong bài thơ thất
ngôn bát cú cố tình viết dang dở (thiếu hai câu kết), cụ Tản Đà đã đau lòng nhận
xét về dân trí quốc gia bằng mấy vần thơ cô đọng như lời sấm truyền. Và với bộ
óc nhạy cảm của một nhân sĩ lớn có tầm nhìn xa, cụ Phan Chu Trinh đã tâm huyết
đề xuất giải pháp chấn hưng quốc gia bằng “khai dân trí” (enlightened wisdom)
và “chấn dân khí” (heightened morale). Ngày nay các nhà khoa học gọi sự
nhạy cảm đó là “trí tuệ cảm xúc” (emotional intelligence).
Nhiệm
vụ bất khả thi
Không
phải ngẫu nhiên mà tổng thống Obama đánh giá cao tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh
như một “triết lý” (philosophy) khi ông đến thăm Việt Nam (23/5/2016).
Phải chăng ông Obama muốn nói rằng tư tưởng đó của cụ Phan Chu Trinh vẫn còn
nguyên giá trị, và người Việt lúc này vẫn cần “khai dân trí”? Cũng không phải
ngẫu nhiên mà tổng thống Trump ca ngợi Hai Bà Trưng khi ông đến thăm Việt Nam
(10/11/2017). Phải chăng ông Trump cũng muốn nói rằng người Việt đang cần “chấn
dân khí”? Không biết điều đó có phải là dấu hiệu của “Đông Tây hội ngộ” hay
không, nhưng chắc chắn nó càng khẳng định những gì các cụ Tản Đà và Phan Chu
Trinh nói cách đây gần một thế kỷ đáng để hậu thế suy ngẫm.
Một
điều nữa cũng đáng suy ngẫm là vào thời Minh Trị (Meiji era), các nhân sĩ Nhật
như ông Fukuzawa Yukichi đã giúp nước Nhật khởi nghiệp quốc gia, trở thành một
đế quốc hùng mạnh khi phương Đông còn chìm đắm trong đêm dài lạc hậu. Sau chiến
tranh, giới trí thức Nhật một lần nữa lại giúp nước Nhật bại trận chấn hưng, trở
thành một cường quốc dân chủ. Người Nhật đã làm được điều đó vì họ trọng dụng
trí thức và mở cửa để học hỏi phương Tây. Người Việt không làm được điều đó vì
coi thường trí thức và đóng cửa để “bế quan tỏa cảng” với phương Tây, mà họ chỉ
coi trọng khổng giáo (nay đã thành hủ nho). Gần đây, Việt Nam phát động “định
nghĩa trí thức” thì e rằng đã quá muộn (too little too late).
Việt
Nam hiện nay có hàng chục vạn giáo sư tiến sĩ, nhưng chắc chỉ có vài trăm người
là trí thức thực sự có tư duy độc lập và sáng tạo. Thói háo danh, thích xu nịnh
và trọng bằng cấp (dù bằng giả và đạo văn), làm nhiều người ngộ nhận mình là
trí thức. Hệ quả không định trước của chính sách cai trị độc đoán và ngu dân
làm cho quan trí ngày càng thấp. Có người gọi đó là “định luật trên dưới cùng
ngu”. Dân trí thấp kéo theo mọi cái đều thấp, dẫn đến vô cảm và vô minh, làm
cho ý tưởng khai dân trí trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.
Cách
đây một thế kỷ, cụ Phan Chu Trinh hô hào “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh” như một triết lý để chấn hưng quốc gia. Nhưng đến nay, người Việt vẫn dậm
chân tại chỗ ở ngã ba đường, chưa thoát khỏi bãi lầy ý thức hệ đã lỗi thời.
Trong khi người Nhật đã khởi nghiệp quốc gia (từ thời Minh Trị) và chấn hưng đất
nước (từ sau chiến tranh thế giới hai) thì người Việt vẫn loay hoay “định nghĩa
trí thức”. Trong khi người ta hô hào “công nghệ 4.0”, thì các quan cũng như dân
vẫn còn đồng bóng, tin vào bói toán và cúng bái, cầu xin người chết thuộc thế
giới âm làm thay việc của người sống ở thế giới dương (như “xin cho”).
Khai
dân trí thế nào
Khai
dân trí được hiểu là mở cửa trí tuệ để
đưa dân trí từ chỗ tối ra chỗ sáng, như một cuộc cách mạng về tư tưởng và văn
hóa, nhằm giải phóng trí tuệ con người khỏi vô minh và ngộ nhận
do theo đuổi một ý thức hệ đã lỗi thời. Ý nghĩa của Khai dân trí tương
tự như Enlightenment trong tiếng Anh. Còn Dân khí thường
dùng để chỉ sức mạnh tinh thần, không chỉ dựa trên lý trí mà còn bao gồm cả cảm
xúc (EQ). Chấn dân khí chính là nhằm khôi phục và tăng cường sức
mạnh tinh thần và nhuệ khí của dân tộc. Một khi dân trí thấp kém và dân khí yếu
hèn thì giới trí thức phải giúp nhau và giúp người dân khai mở trí tuệ để đổi mới
tư duy, góp phần chấn hưng quốc gia và hội nhập cùng với trào lưu chung của
nhân loại tiến bộ.
Có
nhiều khái niệm liên quan đến người dân như “của dân, do dân, vì dân” (of
the people, by the people, for the people) của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln
(1863), hoặc “tam dân chủ nghĩa” (three principles of people) của ông
Tôn Trung Sơn (1924) bao gồm “dân tộc” (nationalism), “dân quyền” (civil
rights), “dân sinh” (people’s livelihood)… Sinh thời, cụ Phan Chu Trinh và các
nhân sĩ khác đều quan tâm vận dụng những tư tưởng này. Nhưng các cụ không biết
rằng một thế kỷ sau, những tư tưởng cấp tiến đó vẫn còn là khẩu hiệu.
Không
phải chỉ có giới cầm quyền, mà cả người dân với tư duy truyền thống, cũng tin rằng
“nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Có lẽ vì vậy mà sau
khi quốc gia khởi nghiệp bằng bạo lực do “cướp chính quyền” (năm 1945), Việt
Nam đã “khai dân trí” bằng hệ thống “bình dân học vụ”, và sau chiến tranh (năm
1954) bằng hệ thống “bổ túc công nông”. Điều đó không sai về công bằng xã hội,
nhưng là thảm họa nếu phủ nhận vai trò của trí thức khi người Việt muốn khởi
nghiệp hay chấn hưng quốc gia. Nó lý giải tại sao Việt Nam vẫn tụt hậu và chính
phủ “kiến tạo” còn gặp khó khăn khi xây dựng một nền kinh tế tri thức. Đó là sự
khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với Nhật Bản (và các nước khác).
Nhưng
làm sao có dân trí cao khi người Việt Nam bắt chước người Trung Quốc đấu tranh
giai cấp cực đoan bằng bạo lực (với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc
tận rễ”). Thời “cách mạng văn hóa”, Mao Trach Đông đã nói thẳng “trí thức không
bằng cục phân” và đuổi họ về nông thôn để “cải tạo lao động” (trong đó có cả Tập
Cận Bình). Nhiều người vẫn chưa quên những bài học kinh hoàng về “cải cách ruộng
đất” và những màn đấu tố đầy bạo lực. Những gì diễn ra ở Trung Quốc thường lặp
lại tại Việt Nam, tuy quy mô, mức độ và thời gian có khác nhau, nhưng mô hình
và phương thức gần giống nhau (đến tận bây giờ). Việt Nam chống tham nhũng là rất
đúng và cần thiết, nhưng vẫn bắt chước Trung Quốc.
Không
phải ngẫu nhiên mà chính quyền hành xử cực đoan và thiếu dân chủ. Theo khảo sát
của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Mỹ), 79% người Việt trả lời là họ ủng hộ dân chủ
“vừa phải”, 29% coi chính quyền là thể chế “rất tốt”, 41% coi là “hơi tốt” và
chỉ có 3% coi là “rất xấu”. Nhiều người dân vẫn thích chuyên chính (đối với kẻ
khác). Cực đoan và thù hận, vô cảm và vô minh là những căn bệnh nan y mãn tính
của người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước). Ai đã khủng bố và giết hại năm
nhà báo người Việt tại Mỹ (giai đoạn 1981-1990)? Cái gì đã làm người Việt (cả
hai phía) khó hòa giải dân tộc để chấn hưng quốc gia?
Một
số người phê phán cách dùng chữ “người Việt” là không đúng (mà theo họ phải gọi
là chính quyền cộng sản). Phải chăng họ chỉ muốn áp đặt ý của mình cho người
khác, và quen đổ lỗi cho người khác, còn mình thì vô can. Chẳng có ai thực sự
vô can hay “ngoại phạm” vì người ta hay nói “dân nào thì chính phủ ấy” và “quan
tham vì dân gian”. Chính quyền tham nhũng vì người dân hay hối lộ. Có vấn nạn
thực phẩm độc hại vì dân gian và tham. Có vấn nạn chạy bằng cấp vì người dân
hám danh và thích bằng cấp (do dân trí thấp).
Đánh
tráo khái niệm và tụt hậu
Trong
bối cảnh Việt Nam, hai chữ “nhân dân” được sử dụng quá nhiều như lạm phát. Từ “ủy
ban nhân dân, hội đồng nhân dân, chính quyền nhân dân, đến công an nhân dân,
tòa án nhân dân, quân đội nhân dân, và chiến tranh nhân dân…Hầu như cái gì cũng
gắn với “nhân dân” như khẩu hiệu dân vận. Người Việt thích vay mượn khái niệm
“của dân, do dân, vì dân” của người Mỹ và mặc nhiên coi đó là của mình. Thực ra
của ai không quan trọng, nhưng họ có thực sự tin vào điều đó không và lời nói
có đi đôi với việc làm không. Gần đây, bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng chính phủ
Mai Tiến Dũng có nói một câu làm bộc lộ bản chất, “Nếu ta sai, ta sẽ xin lỗi
dân. Nếu dân sai, dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Trong khi đó,
chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ một kinh nghiệm thu thuế thật ấn tượng,
“Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá vội để vịt nó
kêu toáng lên”.
Tại
Việt Nam có rất nhiều khẩu hiệu dân túy như “thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân” với “dân chủ cơ sở”, theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” trên tinh thần “dân chủ tập trung” trong nền “kinh tế thị trường định hướng
XHCN”, nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Nhưng các ý tưởng dân chủ đã bị đánh tráo không còn như ban
đầu, giống một đoàn tàu bị bắt cóc (hijacked) và người cầm lái bẻ ghi đoàn tàu
chạy theo hướng khác. Người ta chỉ giữ lại cái vỏ và những khẩu hiệu mỵ dân để
che đậy bản chất mới. Đó chính là “diễn biến” và “suy thoái”.
Trong
Hiến pháp 1946, lời nói đầu đã khẳng định ba nguyên tắc cơ bản là: (1)
Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; (2)
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; (3) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân. Đó là một hiến pháp tiến bộ, được lòng dân. Trong thời kỳ
hậu chiến (1975-1988), tại Việt Nam vẫn tồn tại ba đảng là Đảng Cộng sản, Đảng
Xã hội, và Đảng Dân chủ. Nhưng từ năm 1988, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội
Việt Nam đã buộc phải “tự giải thể”, chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Theo Hiến pháp mới, đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy
nhất lãnh đạo toàn diện đất nước. Đó là một bước tụt hậu về dân chủ.
Cụ
Hồ đã từng định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu: “Dân chủ là để làm sao cho dân
được mở miệng ra. Đừng để dân sợ không dám mở miệng,
nhưng còn nguy hại hơn là khi người dân không thiết mở
miệng nữa…” Nhưng thời thế thay đổi, khi dân chủ và tự do báo
chí ngày càng bị thu hẹp. Theo xếp hạng của tạp chí Economist (2012) về chỉ số
dân chủ, Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được xếp hạng và nằm
trong nhóm các nước độc tài thiếu dân chủ, được bộ ngoại giao Mỹ xếp vào nhóm
nước “chưa có dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tôn giáo”. Nhưng để lý giải
sự suy thoái và tụt hậu hiện nay, không nên chỉ đổ lỗi cho những người cầm lái
đoàn tàu, mà còn phải xem lại dân trí của hành khách đi trên tàu.
Năm
ngoái, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã mượn câu đó của cụ Hồ để
nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân trong luật báo chí sửa đổi
(GDVN, 18/2/2016). Trong bối cảnh đó, ông Hùng nhấn mạnh: “Ta mà hiểu rằng quản
lý là siết lò so lại không cho làm là không được đâu, là vi phạm Hiến pháp”.
Theo “quy trình”, Luật Báo chí điều chỉnh các loại hình báo chí và không cho tư
nhân hóa báo chí, còn quản lý thông tin trên mạng được điều chỉnh theo Nghị định
72. Ông Hùng lý giải, “Hiến pháp nói về quyền tự do và chỉ hạn chế bằng luật,
thế thì bây giờ các đồng chí định hạn chế cái gì, cấm cái gì thì phải đưa vào
luật chứ để trong nghị định là không được đâu… Quản lý bằng nghị định cũng được,
nhưng nghị định mà đụng đến quyền tự do dân chủ thì không được”. Nhưng sang năm
2017, việc kiểm soát báo chí và mạng xã hội còn bị “siết lò so” mạnh hơn, như một
bước thụt lùi.
Thực
trạng về dân trí
Dân
trí về quản trị đất nước chưa trưởng thành (immature). Tuy kinh tế Việt
Nam tiếp tục tụt hậu (một số lĩnh vực thua cả Campuchia), nhưng đất nước vẫn đi
theo một mô hình “không giống ai” (mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan gọi là
“không chịu phát triển”). Tuy chiến tranh lạnh đã chấm dứt gần ba thập kỷ,
nhưng Việt Nam vẫn hồn nhiên cử đặc vụ sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, vi
phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia Đức, gây khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt,
làm chính phủ Đức nổi giận, đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam
(và có thể phủ quyết EVFTA). Trong khi nhà nước hô hào về “chủ quyền quốc gia”
và “an ninh quốc phòng”, thì người Trung Quốc được thuê dài hạn rừng đầu nguồn
và chiếm các vị trí hiểm yếu làm dự án. Gần đây, chính phủ do túng tiền đã quyết
định bán các doanh nghiệp hàng đầu (Vinamilk và Sabeco) cho nước ngoài kiểm
soát. Phải chăng đó là biểu hiện của dân trí thấp như “khôn nhà dại chợ” và
“tham bát bỏ mâm” (nên lợi bất cập hại?).
Dân
trí về hợp tác và hội nhập còn kém. Người ta nói rằng người Việt làm việc gấp 3
lần người Nhật, nhưng khi hợp lực lại thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật.
Theo tiến sĩ Lê Thẩm Dương, người Nhật biết cách quản lý thời
gian và làm việc nhóm hiệu quả, còn người Việt thì không. Giám
đốc VJCC tại Hà nội nhận xét, “Người Việt Nam làm việc rất thông minh, cần cù,
khi được các chuyên gia hướng dẫn thì họ biết phải làm gì và học hỏi rất nhanh.
Thực tế là các bạn làm việc tốt hơn 3 lần so với người Nhật nhưng chỉ khi các bạn
làm một mình. Tuy nhiên, khi các bạn làm việc tập thể thì các bạn làm không tốt
bằng người Nhật chúng tôi vì khả năng làm việc nhóm (teamwork) của các bạn không
tốt bằng người Nhật, và tôi có thể khẳng định rằng khi làm việc tập thể thì 3
người Việt mới bằng một người Nhật”.
Dân
trí về văn hóa ứng xử xuống cấp nghiêm trọng, dẫn đến bạo hành gia đình, bạo lực
học đường và bạo lực xã hội (ngay trong các lễ hội văn hóa truyền thống). Trong
khi nhiều cô “bảo mẫu” bạo hành với trẻ em mẫu giáo (hết vụ này tới vụ khác),
thì Bộ giáo dục và các địa phương vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để chấm dứt
tình trạng đó, mà chỉ rút kinh nghiệm và đổ trách nhiệm cho nhau. Dân trí về lịch
sử và ngôn ngữ cũng có vấn đề, khi một số “trí thức” lúc thì đề xuất “bỏ môn lịch
sử”, lúc khác lại đề xuất “cải cách chữ viết tiếng Việt”, như một trò đùa vô
minh về “cải cách giáo dục”, làm cho dư luận cả nước bức xúc.
Dân
trí về bảo vệ sức khỏe của người dân còn lạc hậu, đa số thiếu ý thức “phòng bệnh
hơn chữa bệnh”. Họ thường không kiểm tra định kỳ để phát hiện bệnh sớm, vừa do
hoàn cảnh vừa do dân trí thấp. Nhiều người mắc bệnh vì thực phẩm độc hại hay ô
nhiễm môi trường (do nhân họa) trong khi đó một số “không nhỏ” các quan chức y
tế và bác sỹ (thoái hóa) lại tiếp tay cho các công ty dược như VN Pharma nhập
thuốc ung thư dổm về bán cho bệnh nhân. Việt Nam đang trở thành tâm điểm của
ung thư, mỗi năm có hơn 126.000 ca mắc bệnh ung thư mới, và khoảng 94.000 người
tử vong vì ung thư. Xu hướng này ngày càng gia tăng, không những gây tổn thất lớn
cho nền kinh tế mà còn làm cho biết bao gia đình điêu đứng.
Dân
trí và tham nhũng
Chống
tham nhũng “giai đoạn 2.0” quyết liệt hơn với hình tượng “lò đã nóng lên rồi
thì củi tươi vào cũng phải cháy” mà TBT Nguyễn Phú Trọng đã cao hứng mô tả. Sau
khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt tại Berlin (23/7/2017), Đinh La Thăng cũng bị bắt tại
Hà Nội (8/12/2017). Nhưng chống tham nhũng chắc không dừng lại ở “đại án PVN”
mà còn tiếp diễn nhằm chiếu tướng (tuy chưa rõ là chiếu tướng ai). Trong khi
nhiều người tin rằng đánh ông Đinh La Thăng là để chiếu tướng ông X (cầm đầu
“bên thua cuộc”), những một số khác cho rằng đánh “Vũ Nhôm” là để chiếu tướng
ông Y (đối thủ số một đang cầm quyền). Đây là trò chơi vương quyền (game of
thrones) có nhiều ẩn số. Nhưng việc khám nhà và truy nã “Vũ Nhôm” sau khi thả
rông để đương sự thoái vốn và bỏ trốn, là một vở kịch vụng về. Dân trí cao hay
thấp khi công tác an ninh, tình báo của quốc gia cũng bị “thương mại hóa” và biến
thành bi hài kịch.
Gần
đây, nhiều người bức xúc hỏi tại sao người ta lại để những người “vi phạm đặc
biệt nghiêm trọng” tiếp tục vào Trung ương và Bộ Chính trị… Ông Trần Quốc Hương
(nguyên phó chủ nhiệm Ban Tổ chức TW) hỏi lúc đó “các cơ quan kiểm tra, tổ chức
của Đảng có ý kiến gì không trước những vi phạm của Đinh La Thăng?” Luật sư Trần
Quốc Thuận nói: “Đó là một ẩn số cần làm rõ”. (Tiền Phong, 18/12/2017). Phải
chăng vì vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng phải dự họp chính phủ (28/12/2017) để triển
khai chủ trương “nhất thể hóa”. Không biết ông Nguyễn Phú Trọng có ý gì khi nói
“Từ bé đến giờ mới được dự họp chính phủ”.
Chiến
dịch chống tham nhũng nhắm vào hai nhóm đối tượng chính là một số “thái tử đảng”
và quan chức địa phương (để đánh “từ vòng ngoài vào vòng trong”). Sau khi xử lý
Vũ Huy Hoàng và Trầm Bê, ngày 8/1/2017 sẽ xét xử Đinh La Thăng và Trịnh Xuân
Thanh. Dường như vòng vây đang gấp rút khép lại để chiếu tướng ông X, nhưng vụ
khám xét và truy nã “Vũ Nhôm” ở Đà nẵng (21/12/2017) lại mở ra một hướng khác
như để chiếu tướng ông Y. Nhưng dù chiếu tướng ông nào thì đất nước cũng là
“bên thua cuộc” và nhân dân vẫn là nạn nhân của “trò chơi vương quyền” đang làm
đất nước phân hóa và kiệt quệ, đứng trước những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế và những
hiểm họa khôn lường về an ninh và chủ quyền quốc gia.
Thay
lời kết
Đã
gần một thế kỷ trôi qua kể từ khi cụ Phan Chu Trinh kêu gọi “khai dân trí và chấn
dân khí”, nhưng Việt Nam vẫn còn loanh quanh tại ngã ba đường, chưa thoát khỏi
hệ tư tưởng đã làm đất nước tụt hậu so với Nhật Bản hàng trăm năm. Muốn “khai
dân trí”, Việt Nam phải thay đổi hệ quy chiếu đã lỗi thời, và phải đổi mới thể
chế toàn diện. Nếu không thực sự đổi mới thể chế thì việc chống tham nhũng cũng
giống như trò “hàn soong hàn nồi”. Để thay cho câu kết, xin mượn lời Albert
Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng ta không thể giải quyết được
vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã dùng để tạo ra chúng” (We
can’t solve problems by using the same kind of thinking we used when we created
them).
NQD.
01/01/2018