Có
được một đời sống ấm no, không sợ hãi trong một xã hội phát triển ổn định là
nguyện vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Tất cả những diễn biến lịch sử, những
phát triển kinh tế, xã hội, và những khám phá khoa học đều đưa đến một kết luận
chính trị chung. Chỉ có thể chế dân chủ với một hệ thống chính phủ mà quyền lực
của người cầm quyền đương thời bị giới hạn, kiểm soát theo những nguyên tắc dân
chủ mới có thể đáp ứng được nguyện vọng của xã hội một cách dài lâu. Chỉ có một
chính quyền được dân bầu lên, bị dân kiểm soát, do dân thay đổi thì mới giữ được
bản chất là chính quyền của dân và vì dân.
Sự
ưu việt của thể chế dân chủ không còn là một đề tài trong những cuộc tranh luận
nghiêm túc ngày nay. Ngay chính độc tài cũng công nhận, cũng phô bày “dân chủ”
như một món đồ giả. Giả vụng về, trắng trợn: Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều
Tiên. Giả mập mờ, lấp liếm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản. Thế nhưng
những cải cách để đưa đến một thể chế dân chủ ở Việt Nam, nếu có, thì vẫn rất
chậm, rất miễn cưỡng.
Chính
quyền đương thời nào cũng có động lực củng cố và triến khai quyền lực của mình.
Khi nền tảng dân chủ chưa có thì chính quyền sẽ chống lại, tìm cách triệt hạ mọi
xu hướng đối lập, ngay cả chém giết khi họ thấy cần. Đài Loan và Nam Hàn đều trải
qua giai đoạn này dưới thời Tưởng Giới Thạch và Phát Chính Hy (cả hai đều chống
cộng). Vấn đề không phải là chủ thuyết hay nhận thức mà là bản chất tự nhiên.
Chính quyền Việt Nam đương thời, dân tộc Việt, xã hội Việt cũng không là ngoại
lệ.
Trong
nước đã xuất hiện một số người chống lại chính quyền hay chính sách của chính
quyền. Nhưng nhiều người vẫn ta thán rằng chưa có phong trào và nhân vật đối lập
nào có được sự ủng hộ sâu rộng của quần chúng. Một quan điểm đang thịnh hành
trong số những người chống chính quyền trên mạng là quá nhiều người Việt chưa đủ
trí tuệ để nhận ra tội ác của chế độ, chưa đủ dũng khí để chống lại chính quyền,
và vô cảm truớc những tệ nạn xã hội mà nhà nước phải chịu trách nhiệm. Một dân
tộc Việt ngu, hèn, và trơ là lý do họ thường nêu ra để giải thích sự tham gia
tương đối tẻ nhạt của người dân trong phong trào đấu tranh cho dân chủ.
Sự
mâu thuẩn lớn trong quan điểm này là tư duy độc tài – tự đặt mình lên trên để
nhìn xuống và miệt thị số đông trái ý mình – của một số người đang lớn tiếng hô
hào dân chủ. Có thể nghi ngờ họ không hiểu dân chủ thật sự là gì. Thái độ của họ
không tạo ra sự tin tưởng rằng nếu được quần chúng ủng hộ thì họ sẽ không đi
vào vết xe đổ của Mohamed Morsi. (Được dân Ai Cập bầu lên sau khi chế độ độc
tài của Hosni Mubarak sụp đổ, Morsi và đảng Huynh Đệ Hồi Giáo đã nhanh chóng tập
trung quyền lực chống lại mọi hoạt đông dân chủ.) Dù vô tình, chính họ đã là một
dẫn chứng hùng hồn cho sự ngụy biện của chính quyền rằng đa đảng, đa nguyên chỉ
đưa đến loạn lạc. Không có gì lạ khi họ không được đa số người Việt trong nước
hổ trợ.
Một
số Đảng viên, cựu Đảng viên lão thành cũng đã nhận ra sự cần thiết của cải cách
dân chủ. Nhưng những lời kêu gọi cải cách của họ vẫn chưa và có lẽ cũng sẽ
không có hiệu lực gì. Họ không có quyền, không còn nắm những chức vụ quan trọng.
Ảnh hưởng của họ, nếu có, chỉ trên bình diện tư duy, tinh thần. Nhưng chính quyền
đương thời chống những hoạt động dân chủ không phải vì thiếu suy nghĩ, cần được
thức tĩnh mà chỉ vì sự bám víu quyền lợi, một bản chất cố hữu của con người. Những
nhân vật như George Washington và Nelson Mandela đều là ngoại lệ, hiếm có.
Khách quan mà suy luận thì cái xác suất trong giới lãnh đạo của Việt Nam hiện
nay có người đủ quyền và đủ lòng để tiến hành cải cách như Mikhail Gorbachev ở
Liên Xô trước đây là rất thấp.
Không
có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những kiến nghị, tâm thư, đề xuất… của những
người mong có được một cải cách thể chế thật sự đều đã không đi đến đâu. Ủng hộ
dân chủ bằng phương pháp đưa thư, đệ đơn này không những đã không có hiệu quả
thực tế mà lại còn có vấn đề về khía cạnh tư tưởng. Có thể nói những người chọn
con đường này đã mặc nhiên chấp nhận chính quyền là một thực thể trên dân, có
tư cách ban phát cho dân. Dù họ là người có lòng yêu nước, thương dân thì đây vẫn
là tư duy lạc hậu của thời phong kiến, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng dân chủ.
Có
lẽ vì nhận thấy sự quan trọng của tư duy và phương pháp trong cuộc đấu tranh chống
độc tài, một số người đã cho rằng cần phải có một đội ngũ trí thức ưu tú để hướng
dẫn quần chúng đấu tranh đòi dân chủ. Thành phần trí thức đi tiên phong này có
thể sẽ được đào tạo, học hỏi ở nước ngoài rồi về nước lãnh đạo quần chúng. Họ sẽ
là những người vững vàng với lý tưởng, không ngại gian khổ, hy sinh. Sách lược
này không phải là mới, đã được áp dụng thành công bởi Hồ Chí Minh cùng các đồng
chí của ông để chống lại chế độ thực dân Pháp. Nhưng trong thực tế ngày hôm nay
thì sách lược này không thể thực hiện được.
Câu
hỏi quan trọng là những người trí thức này sẽ nói gì, sẽ làm gì để được quần
chúng tín nhiệm, tự nguyện đi theo cho họ hướng dẫn, lãnh đạo. Họ sẽ nói gì,
làm gì để người dân chịu gánh thêm gian khổ, có thể bị tù đày và hy sinh mà
không sợ cảnh “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”? Ngoài trường hợp không thực tiễn
là có siêu nhân xuất hiện, câu trả lời khách quan sẽ là gáo nước lạnh tạt vào
giấc mơ tranh đấu dân chủ theo sách lược này.
Hơn
nữa, khác với những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước, đây không phải là một
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tất cả những liên hệ đến thế giới bên ngoài sẽ
bị chính quyền đương thời tuyên truyền là tay sai của ngoại bang. “Thế lực thù
địch”, một khái niệm mơ hồ mà chính quyền vẫn dùng để biện minh cho sự đàn áp
những hoạt động dân chủ, đột nhiên sẽ hết mơ hồ. Những người trí thức này sẽ bị
chận bắt trước khi họ có cơ hội lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng. Đây là một sách
lược tranh đấu dân chủ vô kế khả thi nếu người lãnh đạo phải là “trí thức ưu
tú” thuộc một trường phái nhất định.
Những
diễn biến chung quanh vụ Trung Quốc kéo giàn khoan xâm phạm lãnh hải Việt Nam
vào tháng Năm vừa qua ( tháng 5/2014) đã làm rõ nét hịện trạng giới hạn cũng
như một con đường đấu tranh dân chủ có hiệu quả trong tương lai. Phản ứng và
thái độ của quần chúng từ những người cành sát biển, phóng viên, đến ngư dân,
sinh viên, người già, giới trẻ… chứng tỏ rất nhiều người Việt, có thể là đa số,
không hèn và vô cảm, không thờ ơ với vận nước khi có một mục tiêu rõ rệt như chống
ngoại xâm. Rất nhiều người đã nhận định chính xác rằng phải có cải cách thể chế
mới có thể bảo vệ được chủ quyền lâu dài. Thái độ bí ẩn và phản ứng khó hiểu của
chính quyền trong vụ này chứng tỏ rằng đặt tin tưởng vào một chế độ độc tài
trong việc bảo vệ chủ quyền chung của đất nước cũng nguy hiểm như tin rằng họ sẽ
tạo ra một xã hội chung ngày càng giàu mạnh hơn. Thế nhưng khi câu hỏi ai, tổ
chức nào sẽ thay thế nhóm lãnh đạo và Đảng Cộng Sản Việt Nam đuợc đặt ra trên mạng
thì những người kêu gọi chống chính quyền đã không có câu trả lời thoả đáng. Phản
ứng của họ gây ra ấn tượng là chính họ đang bị bế tắc trong tư duy và trong sự
vận động đa đảng, đa nguyên.
Không
thể gạt qua câu hỏi này bằng cách nghi ngờ động lực và trình độ của người hỏi
như nhiều người vẫn làm. Bất kể người hỏi là ai, đây là một câu hỏi chính đáng
cả trên nguyên tắc và trong thực tế đấu tranh dân chủ. Một câu hỏi quan trọng
đòi hỏi câu trả lời rõ ràng, nghiêm túc.
Trước
hết, đây là một câu hỏi thực tế về thực lực đối kháng. Đưa ra một viễn ảnh cụ
thể để chứng tỏ sẽ có đủ đối trọng là một việc làm cần thiết nếu muốn được quần
chúng tin theo. Cũng là một việc làm vô vọng. Dù muốn hay không, đại dìện duy
nhất cho nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc hôm nay là nhà cầm quyền đương thời,
một chính quyền đã có quan hệ ngoại giao chính thức với các quốc gia lớn. Không
một nước dân chủ nào sẽ nhảy vào hổ trợ vũ lực chống chính quyền đó. Ngoại lệ
duy nhất, trên nguyên tắc, là khi có nội loạn, nội chiến gây ra quá nhiều chết
chóc cho dân lành. (Thực tế thì vẫn rất khó như phản ứng của Anh và Mỹ với tay
độc tài Assad ở Syria đã chứng tỏ.) Thế là cách duy nhất để khả dĩ có đủ đối trọng
lật đổ chính quyền vẫn phải là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng. Nhưng những
người kêu gọi cách mạng, đấu tranh lật đổ chính quyền lại không có sự ủng hộ
này. Họ vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn tạo ra bởi những tư tưởng lỗi
thời, không thích hợp với thực tế ngày nay.
“Nhân
dân vùng lên” là một câu khẩu hiệu, không phải là đường lối chính trị. “Dân
hèn, ngu, và trơ đông như quân Nguyên” là một biện minh cho sự thất bại chính
trị, không phải là một nhận định hữu ích thực tiễn.
Tạo
nên một cuộc cách mạng quần chúng để lật đổ chế độ hiện hành chỉ là một ảo tưởng
vì hai lý do cơ bản. Thứ nhất là khi không thấy có đối trọng, không thấy có hy
vọng thành công, ta thường chọn con đường để có được những nhu cầu thực tế trước
mắt theo bản năng sinh tồn. Người mà nhu cầu thiết yếu của họ bị đe doa sẽ có
khuynh hướng vùng lên, liều chết kháng cự, nhưng trong thực tế hiện nay thì tỉ
lệ của những người như thế không đủ để làm cách mạng.
Lý
do thứ hai là sự tàn độc không phải là mục đích, là nguyện vọng của
nhà cầm quyền độc tài hiện nay ở Việt Nam. Nó chỉ là phương tiện để giữ vững độc
quyền, đặc lợi. Chính quyền sẽ thắt nới tùy hoàn cảnh để vừa giữ vững
quyền lợi vừa tránh nạn “cùng tắc biến”. Họ đã thành công và không có dấu hiệu
gì là họ sẽ thất bại trong tương lai gần như nhiều người vẫn hy vọng.
Hô
hào quần chúng xuống đường đối kháng chính quyền và miệt thị họ ngu, hèn khi họ
không đáp ứng là việc làm vô ích, phi dân chủ và gây phản cảm, nhất là từ những
người đang được sống ngoài vòng cương toả của chế độ độc tài.
Thỉnh
nguyện không được, vùng lên lại chẳng có mấy ai. Tiến trình dân chủ sẽ như thế
nào?
Câu
hỏi “Ai sẽ thay Đảng…?” chính là một cơ hội để những người trí thức chống độc
tài khẳng định lại bản chất và mục đích của cuộc tranh đấu cho dân chủ nhằm thu
hút sự ủng hộ của quần chúng. Trên nguyên tắc, người đấu tranh dân chủ đúng
nghĩa không tranh đấu cho quyền lãnh đạo của một người hay một đảng. Người
đấu tranh dân chủ đúng nghĩa tranh đấu cho cái quyền được chọn lựa: Mỗi người
dân một lá phiếu. Đấu tranh để có quyền chọn lựa như thế là mới chính là đấu
tranh dân chủ. Không phải mọi phong trào chống độc tài đều là đấu tranh dân chủ.
Đặt sự chọn lựa đảng phái, chủ thuyết, người lãnh đạo… trước khi có quyền chọn
lựa sẽ biến cuộc đấu tranh này thành một sự xung đột giữa những thế lực khác
nhau, dễ khiến người dân nghi ngờ hơn là tin cậy.
Cuộc
đấu tranh dân chủ chân chính là cuộc đấu tranh để mọi người dân thật sự có quyền
chọn lựa. Chọn lựa cụ thể như thế nào thì tùy dân, là quyền của dân. Theo tinh
thần bất hủ của Voltaire (khi ông nói về quyền tự do ngôn luận), người đấu
tranh dân chủ chân chính hẳn phải có tâm niệm: Dù tôi không đồng ý với sự chọn
lựa của họ, tôi vẫn tranh đấu đến cùng cho quyền được chọn lựa của họ. Người đấu
tranh dân chủ chân chính sẽ chống lại mọi khuynh hướng giới hạn quyền chọn lựa
của người dân. Ngoại trừ độc tài đương quyền, không ai chống lại mục tiêu và
con người đấu tranh như thế: Đấu tranh bất bạo động cho quyền được chọn lựa của
mỗi người, của mọi người, bất chấp đảng phái và chính kiến.
Chỉ
bằng cách khẳng định thật rõ ràng rằng mục tiêu đấu tranh là cái quyền được chọn
lựa của mỗi người, của mọi người mới có thể thu hút được sự hổ trợ của đông đảo
quần chúng. Từ những người vẫn nghĩ rằng Đảng CSVN đã có công trong sự giành độc
lập, thống nhất đất nước cho đến những người vẫn tin rằng CS là một đại họa của
dân tộc, tất cả (trừ độc tài đương quyền) đều muốn có được cái quyền ấy. Đây là
mục tiêu quan trọng tối hậu. Bên cạnh nó, những tranh chấp về các diễn biến lịch
sử, đúng sai của những chủ thuyết chính trị, công tội của những nhân vật lịch sử
v.v… chỉ là những vấn đề để nghiên cứu và tranh luận khi trà dư tửu hậu, khi đã
có được một thể chế dân chủ.
Dĩ
nhiên là độc tài đương quyền sẽ tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để trấn áp tất
cả những hoạt động đấu tranh dân chủ. Họ sẽ đưa ra mọi lý lẽ để phân hoá, để chứng
tỏ cuộc đấu tranh dân chủ chỉ là một sự tranh giành quyền lợi hay có ý đồ làm
loạn. Đấu tranh thành công cần phải có đủ một số yếu tố. Quan trọng nhất là làm
thế nào để có thể tạo được sự ủng hộ đông đảo, dù âm thầm, của quần chúng. Lý
tưởng dân chủ – cái quyền được chọn lựa của mỗi người – tự nó chỉ là một
khái niệm trừu tượng đối với những người phải quần quật, đầu tắt mặt tối để mưu
sinh. Tư tưởng và phương pháp đấu tranh cụ thể để có được một tiến trình dân chủ
thành công là nội dung của Phần II.
Nguồn:
http://hatechange.org/con-duong-dan-chu-thuc-tien-cho-viet-nam-1/