Chế
độ độc tài trần trụi – dưới hình thức chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản hoặc
chế độ quân quản – đã biến mất gần như khắp thế giới. Những vụ đảo chính quân sự
hoặc cướp chính quyền bằng bạo lực ít khi xảy ra. Đa số các quốc gia đều tổ chức
tuyển cử định kỳ. Các nền dân chủ chết nhưng theo những cách thức khác.
Từ
cuối cuộc Chiến tranh Lạnh, phần lớn những vụ sụp đổ của các chế độ dân chủ đều
không do các tướng lãnh và binh lính gây ra mà do chính các chính phủ được bầu
lên. Giống như ông Hugo Chávez ở Venezuela, các nhà lãnh đạo được bầu lên đã
làm băng hoại các thiết chế dân chủ (democratic institutions)ở
Gruzia, Hungary, Nicaragua, Peru, Philippines, Ba Lan, Nga, Sri Lanka, Thổ Nhĩ
Kỳ và Ukraine.
Cuộc
thoái trào của chế độ dân chủ hôm nay bắt đầu từ thùng phiếu. Con đường bầu cử (electoral
route)dẫn tới sự sụp đổ của chế độ dân chủ có tính lừa dối một cách nguy hiểm.
Trong một cuộc đảo chính kiểu cổ điển, ví dụ như cuộc đảo chính của Pinochet ở
Chile, cái chết của nền dân chủ xảy ra tức thì và rõ ràng, ai cũng nhìn thấy.
Dinh tổng thống bị đốt cháy. Tổng thống bị hạ sát, bị cầm tù hoặc bị lưu đày biệt
xứ. Hiến pháp bị đình chỉ thi hành hoặc bị hủy bỏ.
Những
chuyện này không hề xảy ra trên con đường bầu cử. Không có xe tăng trên đường
phố. Hiến pháp và các thiết chế dân chủ về danh nghĩa vẫn còn nguyên vẹn. Người
dân vẫn đi bỏ phiếu. Các lãnh đạo chuyên chế được bầu lên vẫn duy trì một lớp
sơn dân chủ bề ngoài trong khi rút bỏ hết những gì thực chất bên trong của chế
độ dân chủ.
Nhiều
nỗ lực của chính phủ nhằm làm băng hoại nền dân chủ là “hợp pháp”, theo nghĩa
là chúng được cơ quan lập pháp phê chuẩn hoặc được tòa án chấp nhận. Thậm chí
chúng còn được tô vẽ như là những nỗ lực nhằm cải thiện chế độ dân chủ, làm cho
hệ thống tư pháp hoạt động hiệu quả hơn, đấu tranh chống nạn tham nhũng hoặc
làm trong sạch tiến trình bầu cử.
Báo
chí vẫn tiếp tục xuất bản, nhưng hoặc đã bị mua chuộc, hoặc bị đe dọa phải thực
hiện tự kiểm duyệt. Công dân tiếp tục phê bình chính phủ để rồi nhận ra mình phải
đối mặt với cáo buộc trốn thuế hoặc những rắc rối pháp lý khác. Tình trạng này
gieo rắc nỗi hoang mang trong công chúng. Người dân không nhận ra ngay được điều
gì đang diễn ra. Nhiều người tin rằng mình vẫn đang sống trong một chế độ dân
chủ.
Bởi
vì không có một khoảnh khắc duy nhất nào cho thấy rõ ràng chế độ đương quyền đã
“bước qua lằn ranh” để trở thành chế độ độc tài – không đảo chính, không ban bố
lệnh giới nghiêm, không đình chỉ hiến pháp – nên không có gì kích hoạt những
chiếc chuông báo động của xã hội. Những người tố cáo chính phủ lạm dụng quyền lực
có thể bị bỏ qua như là những kẻ gây hấn hoặc những người hay la lối om sòm. Đối
với nhiều người, sự xói mòn nền dân chủ hầu như không thể hình dung được!
**
Chế
độ dân chủ của Hoa Kỳ dễ tổn thương tới mức nào với hình thức thoái trào này?
Những nền tảng của chế độ dân chủ Hoa Kỳ chắc chắn là vững mạnh hơn so với
Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Hungary. Nhưng chúng có đủ vững chắc hay không?
Để
trả lời một câu hỏi như vậy, chúng ta phải lùi ra khỏi những bản tin thời sự
hàng ngày, những cảnh báo tin sốt dẻo để mở rộng tầm nhìn, để rút ra bài học từ
trải nghiệm của các nền dân chủ khác trên khắp thế giới trong suốt chiều dài lịch
sử.
Một
lối tiếp cận so sánh sẽ cho thấy bằng cách nào mà các chính trị gia chuyên chế
được bầu lên ở nhiều khu vực khác nhau của thế giới đã sử dụng những chiến lược
giống nhau một cách đáng chú ý để làm biến chất các thiết chế dân chủ. Khi những
khuôn mẫu này trở nên dễ thấy, những bước đi tới sự sụp đổ cũng trở nên rõ ràng
hơn – và dễ chống lại chúng hơn. Hiểu biết những cách thức mà công dân các nền
dân chủ khác đã phản kháng thành công các chính trị gia chuyên chế được bầu
lên, hoặc hiểu được vì sao họ đã thất bại bi thảm trong công cuộc phản kháng của
mình, là điều thiết yếu cho những người đang tìm cách bảo vệ chế độ dân chủ của
Hoa Kỳ hôm nay.
Chúng
ta biết rằng những chính trị gia mị dân (demagogue) cực đoan
thì thời nào cũng có ở mọi xã hội, ngay cả trong những nền dân chủ lành mạnh. Hoa
Kỳ cũng có những kẻ như vậy, chẳng hạn như Henry Ford, Huey Long, Joseph
McCarthy và George Wallace.
Phép
thử quyết định cho các nền dân chủ không nằm ở chỗ những kẻ mị dân cực đoan như
vậy có nổi lên hay không mà trước tiên là các nhà lãnh đạo chính trị, đặc biệt
là các đảng phái lớn, có ngăn chặn những kẻ đó thâu tóm quyền lực hay không – bằng
cách loại chúng ra khỏi các đảng chính trị dòng chính, từ chối phê chuẩn hoặc đứng
cùng phe với chúng và khi cần thiết thì sẵn sàng chia sẻ lý tưởng với các đối thủ
trong công cuộc hỗ trợ các ứng cử viên dân chủ.
Để
cô lập những kẻ cực đoan mị dân cần có lòng dũng cảm chính trị. Nhưng khi nỗi sợ
hãi, chủ nghĩa cơ hội hoặc tính toán sai lầm dẫn dắt các đảng chính trị tới chỗ
đưa những kẻ cực đoan vào dòng chính thì nền dân chủ sẽ lâm vào tình trạng nguy
hiểm.
Khi
một người có khả năng biến thành nhà chính trị chuyên chế giành được quyền lực,
các nền dân chủ đối mặt với phép thử quyết định thứ hai: liệu nhà lãnh đạo
chuyên chế kia sẽ làm biến chất các thiết chế dân chủ hay là ông ta sẽ bị các
thiết chế ấy kiềm chế?
Chỉ
riêng các thiết chế là không đủ để kiềm chế các lãnh đạo chuyên chế được bầu
lên. Hiến pháp phải được bảo vệ – bởi các đảng chính trị, các tổ chức công dân,
nhưng cũng bởi những quy tắc dân chủ. Không có những quy tắc vững mạnh, cơ chế
kiểm tra và cân bằng hiến định sẽ không thể trở thành thành trì bảo vệ chế độ
dân chủ như chúng ta hình dung. Các thiết chế sẽ bị biến thành vũ khí chính trị
mà những kẻ kiểm soát chúng sử dụng một cách quyết liệt để chống lại những ai
không kiểm soát được chúng.
Đây
là cách mà các nhà lãnh đạo chuyên chế làm băng hoại chế độ dân chủ – cử người
vào và “vũ khí hóa” hệ thống tòa án và những cơ quan trung lập khác, mua chuộc
báo chí truyền thông và khu vực kinh tế tư nhân (hoặc đe dọa buộc họ phải im lặng)
và viết lại những luật lệ chính trị để làm cho sân chơi nghiêng về phía chống lại
những người đối lập. Nghịch lý bi thảm của con đường bầu cử tới chủ nghĩa độc
tài chuyên chế là ở chỗ, những kẻ ám sát nền dân chủ sử dụng chính những thiết
chế dân chủ để giết chết nó – dần dần, khéo léo và thậm chí hợp pháp nữa.
**
Nước
Mỹ đã thất bại trong phép thử thứ nhất vào tháng 11 năm 2016 khi bầu làm tổng
thống một người mà lòng trung thành với các quy tắc dân chủ là rất đáng ngờ.
Chiến
thắng bất ngờ của ông Donald Trump sở dĩ xảy ra được không chỉ vì nỗi bất mãn của
công chúng mà còn bởi thất bại của đảng Cộng hòa trong việc ngăn chặn một kẻ mị
dân cực đoan trong hàng ngũ của mình giành được sự đề cử [làm ứng cử viên tổng
thống của đảng].
Giờ
đây mối đe dọa này đã nghiêm trọng tới mức nào? Nhiều quan sát viên thấy niềm
an ủi ở hiến pháp Hoa Kỳ, vốn được thiết kế để ngăn chặn và kiềm chế những kẻ mị
dân như Trump. Hệ thống kiểm tra và cân bằng kiểu Madison[i] đã bền bỉ trải qua hơn hai thế kỷ.
Nó đã sống sót qua thời nội chiến, thời đại suy thoái, Chiến tranh Lạnh và vụ
bê bối Watergate.[ii] Thế thì chắc chắn nó sẽ có khả năng
sống sót lâu hơn Trump.
Không
nên chắc chắn như vậy. Về mặt lịch sử, hệ thống kiểm tra và cân bằng đã hoạt động
tương đối tốt – nhưng không, hoặc không hoàn toàn nhờ vào hệ thống hiến định được
những nhà lập quốc thiết kế ra. Các nền dân chủ hoạt động tốt nhất – và sống
lâu hơn – khi hiến pháp được tăng cường bởi những quy tắc dân chủ bất thành
văn.
Hai
quy tắc căn bản đã duy trì hệ thống kiểm tra và cân bằng của Hoa Kỳ theo những
cách thức mà chúng ta thường coi là hiển nhiên: sự dung nạp lẫn nhau, hoặc hiểu
biết rằng các đảng chính trị cạnh tranh phải chấp nhận lẫn nhau như là những đối
thủ hợp pháp và chính đáng; và sự độ lượng, hoặc ý tưởng rằng các chính trị gia
nên thực hành sự kiềm chế khi sử dụng những đặc quyền mà thể chế ban cho họ.
Hai
quy tắc này đã nâng đỡ nền dân chủ Hoa Kỳ trong phần lớn thế kỷ 20. Các nhà
lãnh đạo của hai đảng chính trị lớn chấp nhận lẫn nhau như là những đối thủ
chính danh và chống lại nỗi cám dỗ muốn sử dụng quyền kiểm soát tạm thời những
thiết chế hành pháp, lập pháp và tư pháp để khuếch đại lợi thế của đảng mình.
Những quy tắc về dung nạp và kiềm chế đã hoạt động như những rào chắn mềm của nền
dân chủ Hoa Kỳ, giúp nó tránh được tình trạng các đảng phái đánh nhau chí chết
từng hủy diệt các nền dân chủ khắp nơi trên thế giới, kể cả ở châu Âu trong thập
niên 1930 và ở Nam Mỹ trong các thập niên 1960 và 1970.
Tuy
vậy ngày nay những rào chắn của nền dân chủ Hoa Kỳ đang bị yếu đi. Sự xói mòn
các quy tắc dân chủ đã bắt đầu từ các thập niên 1980, 1990 và tăng tốc trong thập
niên 2000. Vào thời ông Barack Obama làm tổng thống, nhiều người Cộng hòa đặc
biệt đặt nghi vấn về tính chính danh của các đối thủ đảng Dân chủ và đã từ bỏ sự
độ lượng để theo đuổi chiến lược giành chiến thắng bằng mọi phương tiện cần thiết.
Có
lẽ ông Trump đã đẩy nhanh tiến trình này, nhưng ông không phải là người tạo ra
nó. Những thách thức mà nền dân chủ Hoa Kỳ phải đương đầu thì sâu xa hơn nhiều.
Sự yếu đi của các quy tắc dân chủ bắt rễ trong sự phân cực đảng phái (partisan
polarisation) hết sức cực đoan – một sự chia rẽ vượt rất xa những khác
biệt về chính sách để trở thành mâu thuẫn sống còn về các vấn đề văn hóa và chủng
tộc.
Những
nỗ lực của Hoa Kỳ để đạt tới sự bình đẳng về sắc tộc khi xã hội trưởng thành và
ngày càng đa dạng đã thôi thúc một phản ứng quỷ quyệt và làm gia tăng sự phân cực.
Và từ việc nghiên cứu những cuộc sụp đổ trong lịch sử, có một điều hết sức rõ
ràng là chính sự phân cực cùng cực có thể giết chết các nền dân chủ.
Vì
vậy, có nhiều lý do để báo động. Không chỉ người Mỹ vào năm 2016 đã bầu lên một
kẻ mị dân mà còn làm việc đó khi những quy tắc đã có thời bảo vệ nền dân chủ đã
không còn được bảo đảm nữa.
Nhưng
nếu những trải nghiệm của các quốc gia khác có thể dạy chúng ta rằng sự phân cực
có thể giết chết các nền dân chủ thì chúng cũng dạy chúng ta rằng sụp đổ không
phải là tất yếu, không phải là không đảo ngược được.
Nhiều
người Mỹ đã lo sợ một cách chính đáng với những gì đang xảy ra trên đất nước
mình. Nhưng bảo vệ nền dân chủ đòi hỏi nhiều hơn là nỗi sợ hãi hoặc cơn giận dữ.
Chúng ta phải khiêm tốn và dũng cảm. Chúng ta phải học từ những quốc gia khác để
thấy những dấu hiệu cảnh báo – và phải nhận ra những hồi chuông báo động sai.
Chúng ta phải biết tới những bước đi sai lầm mang tính định mệnh đã làm triệt
tiêu nhiều nền dân chủ. Và chúng ta phải thấy bằng cách nào các công dân đã đứng
lên đối mặt với những cuộc khủng hoảng lớn của chế độ dân chủ trong quá khứ, vượt
qua những sự chia rẽ thâm căn cố đế của chính họ để tránh sụp đổ.
Lịch
sử không tự lặp lại chính nó. Nhưng lịch sử có nhịp điệu. Lời hứa hẹn của lịch
sử là ở chỗ chúng ta phải tìm thấy nhịp điệu của nó trước khi quá trễ.
Đây
là trích đoạn từ sách “How Democracies Die” của Steven Levitsky và
Daniel Ziblatt, giáo sư về chính quyền, trường Đại học Harvard, NXB Penguin
Book.
—————-
[i] James
Madison (1751-1836): Quốc phụ và tổng thống thứ tư của Hoa Kỳ, cầm quyền hai
nhiệm kỳ, từ 1809 đến 1817, kế nhiệm tổng thống Thomas Jefferson. Ông Madison
là người viết bản dự thảo đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền,
từ đó ông có biệt danh “Cha đẻ của hiến pháp”. Hiến pháp Hoa Kỳ xác lập các
nguyên tắc nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập – tạo nên cơ chế kiểm tra và
cân bằng để giám sát quyền lực nhà nước. Ông cùng với tổng thống T. Jefferson lập
ra đảng Dân chủ – đảng chính trị đối lập đầu tiên của Hoa Kỳ – năm 1792.
[ii] Vụ
bê bối Watergate xảy ra ngày 17/06/1972 đã buộc tổng thống Richard Nixon phải từ
chức năm 1974 và làm thay đổi vĩnh viễn nền chính trị Hoa Kỳ, từ đó người dân Mỹ
luôn đặt nghi vấn về các nhà lãnh đạo chính trị của họ.