Bầu
cử và đảng phái chính trị là các thiết chế tồn tại trong nhiều chế độ độc tài,
được coi các công cụ mà thông qua chúng chế độ độc tài có thể tăng cường sự sống
còn của mình. Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết vai trò của bầu cử
và đảng chính trị trong chế độ độc tài.
A. BẦU
CỬ TRONG CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI
Dù
bầu cử thường gắn liền với dân chủ, song chúng khá phổ biến trong các chế độ độc
tài. Khoảng ba phần tư các chế độ độc tài hiện nay tổ chức các cuộc bầu cử, và
một nửa trong số đó tổ chức một cách đều đặn. Dù thỉnh thoảng, các cuộc bầu
cử trong chế độ độc tài là phương tiện qua đó người dân bầu lên người cai trị,
song nhìn chung chúng chủ yếu có chức năng củng cố (sự ổn định của) chế độ.
1. Hình
thức bầu cử
Không
có gì ngạc nhiên khi gần như tất cả các cuộc bầu cử được tổ chức trong các chế
độ độc tài được xem là không cạnh tranh và công bằng theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Một
số chế độ độc tài tổ chức các cuộc bầu cử mà kết quả đã hoàn toàn được quyết định
trước. Trong các cuộc bầu cử như vậy, các ứng viên của chế độ luôn nhận được gần
100% số phiếu bầu bất kể kết quả bỏ phiếu như thế nào. Chế độ sẽ quyết định ai sẽ
xuất hiện trên lá phiếu và ai sẽ thắng cử. Một
số ứng viên độc lập (được đảng cho phép) có thể tham gia tranh cử, nhưng chỉ nhằm
để cho thấy cuộc bầu cử có tính cạnh tranh và khách quan (hình thức). Và các cuộc bầu cử trong các chế độ Cộng sản minh họa cho dạng này.
Tuy nhiên, trong nhiều chế độ độc tài cho phép nhiều ứng viên tham gia cạnh tranh bầu cử, ngay cả ứng viên từ các đảng đối lập, chẳng hạn như các cuộc bầu cử ở Malasia dưới chế độ độc tài đảng thống lĩnh của UMNO
(vốn chi phối nền chính trị Malaysia từ năm 1957). Nhìn chung, các ứng viên đối lập có thể cạnh
tranh trong các cuộc bầu cử và giành chiến thắng ở một số khu vực bầu cử nhất định.
2. Mục
đích của bầu cử
Dù
chế độ độc tài có nhiều công cụ để đảm bảo các ứng viên của nó thắng cử, song
luôn có khả năng họ thất cử. Và đồng thời các cuộc bầu cử cũng khá đắt đỏ khi chế
độ phải chi trả việc tổ chức bầu cử, các chiến dịch vận động bầu cử.v.v...Vậy tại
sao các chế độ độc tài lại tổ chức các cuộc bầu cử?
Dưới đây là một số lý do chế độ độc tài duy trì bầu cử:
Làm
nản lòng cũng như kết nạp phe đối lập
Một
trong những ảnh hưởng của bầu cử trong chế độ độc tài là chúng làm lản lòng phe
đối lập thông qua cung cấp bằng chứng về sự ủng hộ của người dân với chế độ. Đồng
thời, chiến thắng lớn của chế độ trong các cuộc bầu cử là một lời nhắc nhở cho
những người trong giới tinh hoa muốn gia nhập phe đối lập rằng làm như vậy chỉ
vô ích.
Theo
Ellen Lust-Okar tổ chức các cuộc bầu cử cho phép chế độ độc tài thiết lập các
quy tắc quy định những ai có thể cạnh tranh cử và những ai không. Điều này có
thể tạo ra sự chia rẽ trong phe đối lập giữa những người chọn tham gia cạnh
tranh trong các cuộc bầu cử và những người lựa chọn tẩy chay bầu cử.
Bầu
cử cũng là công cụ mà chế độ độc tài có thể sử dụng để kết nạp phe đối lập. Việc
cho phép phe đối lập có thể tham gia vào các cuộc bầu cử và nắm giữ các vị trí
trong chế độ, chế độ hướng năng lượng của phe đối lập vào các vấn đề cụ thể,
hơn là để họ đứng ngoài phê phán và tìm cách thay thế nó. Và khi các thành
viên đối lập có quyền lợi trong việc duy trì hệ thống hiện tại (bởi vì họ giữ vị
trí bên trong nó), thì ít nhất họ sẽ không tìm cách lật đổ nó.
Quản
lý giới chóp bu
Các
cuộc bầu cử cũng cung cấp cho chế độ cơ hội kiểm soát giới chóp bu.
Trong
chế độ độc tài, việc giới chóp bu liên tục cạnh tranh cho các chức vụ, cũng như
cơ hội tiếp cận với các lợi lộc mà các chức vụ mang lại, là một nguồn tiềm năng
của sự xung đột nội bộ. Các cuộc bầu giúp giảm bớt sự xung đột này qua việc
cung cấp sân chơi thể chế mà giới chóp bu (và các quan chức cấp thấp) có thể cạnh
tranh quyền lực.
Các
cuộc bầu cử cũng buộc giới chó bu huy động cử tri và cạnh tranh cho sự trung
thành của họ. Với cách hiểu như vậy, bầu cử tăng cường quan hệ giữa giới chóp bu và đại
chúng. Giới chóp bu phải làm cho các chiến dịch của họ phù hợp với mong muốn của
những người ủng hộ họ, qua đó duy trì mối liên kết giữa chế độ và đại chúng.
Cuối
cùng, các cuộc bầu cử cho phép chế độ giám sát lòng trung thành của giới chóp
bu và các quan chức cấp thấp. Chúng cung cấp cho chế độ thông tin cá nhân nào
là trung thành nhất, qua đó trao cho cá nhân này những quyền lợi gắn liền với sự
sống còn của chế độ. Vì vậy, chúng đảm bảo rằng những thành viên có khả năng,
được ưu thích, và trung thành nhất của chế độ được ưu ái.
Củng
cố tính chính danh của chế độ
Một
mục đích khác của bầu cử là tăng cường tính chính danh của chế độ. Các cuộc bầu
cử thường được sử dụng trong chế độ độc tài để cho thấy chế độ không phải là độc
tài, mà là dân chủ. Ở Mexico, dưới thời đảng PRI, đảng sử dụng bầu cử để cho thấy
rằng chế độ được bầu lên chính danh, và không mang tiếng là chế độ độc đảng.
Dĩ
nhiên, trong một số trường hợp, các cuộc bầu cử bị chế độ kiểm soát chặt trẽ và
gian lận đến mức chúng không mang đến tính chính danh cho chế độ. Chẳng hạn,
như ở Syria, các cuộc bầu cử được tổ chức, nhưng không ai tin vào chúng.
Giành
được sự viện trợ/hỗ trợ của nước ngoài
Các
cuộc bầu cử cũng được chế độ sử dụng để làm hài lòng các nhà tài trợ nước
ngoài. Chúng là phương tiện mà qua đó chế độ độc tài có thể tuyên bố rằng tiến
trình dân chủ hóa đang diễn ra, từ đó cải thiện sự tín nhiệm của các nhà tài trợ.
Với các cuộc bầu cử đều đặn, các nhà tài trợ sẽ đồng ý cung cấp viện trợ cho chế
độ, thứ mà trong nhiều trường hợp cần thiết cho chế độ duy trì mạng lưới bảo trợ
rộng lớn của nó. Do đó, các cuộc bầu cử cung cấp cho chế độ độc tài phương tiện
dễ dàng trong việc làm hài lòng các đối tác quốc tế mà không phải trải qua một
cuộc chuyển đổi dân chủ thực sự.
Đạt
được thông tin về sức mạnh của phe đối lập
Các
cuộc bầu cử cũng giúp cung cấp cho chế độ thông tin về sự ủng hộ của người dân
và sự mạnh của phe đối lập. Chúng khiến cho chế độ dễ dàng xác định ai là người
ủng hộ chế độ và ai không. Ví dụ, trong trường hợp của PRI ở Mexico, các cuộc bầu
cử được sử dụng để biết sự phân bố của cử tri ủng hộ phe đối lập, và đâu là
thành trì của nó. Qua đó chế độ có thể cắt nguồn lực cho các khu vực này và
chuyển đến các khu vực tranh giành ảnh hưởng giữa chế độ và đối lập, để giành lấy
những lá phiếu quyết định đảm bảo chiến thắng. Các cuộc bầu cử cung cấp cho chế
độ cơ hội đo sự ủng hộ cho mình và xác định bộ phận nào trong công chúng ủng hộ
mạnh nhất.
3. Chiến
thắng bầu cử
Các
chế độ tài có nhiều công cụ để đảm bảo các ứng viên của chế độ có thể chiến thắng.
Dưới đây là một số công cụ mà họ sử dụng:
Gian
lận bầu cử
Cách
phổ biến nhất mà chế độ độc tài sử dụng để đảm bảo cho ứng viên của mình thắng
cử là gian lận bầu cử. Gian lận bầu cử bao gồm làm giả phiếu, mua bán phiếu, đe
dọa cử tri ở điểm bỏ phiếu...Mức độ gian lận bầu cử thay đổi theo chế độ cũng
như theo cuộc bầu cử.
Một
số chế độ (hay ứng viên chế độ) được nhiều người dân ủng hộ, nên nhu cầu gian lận
ít đi. Chẳng hạn, dù phe đối lập được tham gia cạnh tranh với đảng cầm quyền
PAP ở Singapore, song người dân thực sự muốn “đảng này tiếp tục cầm quyền”. Người
lãnh đạo PAP, Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore trong 31 năm, luôn giành
được sự ủng hộ cao của công chúng.
Đe
dọa
Các
chế độ độc tài sử dụng biện pháp đe dọa để đảm bảo chiến thắng trong các cuộc bầu
cử. Mục điêu đe dọa là các ứng viên đối lập và các cử tri ủng hộ họ. Đe dọa bao
gồm theo dõi, đưa vào danh sách đen, không cho tìm được việc làm, hay sử dụng
các biện pháp khác như cho cơ quan nhà nước điều tra, truy tố đối thủ.
Chiếm
ưu thế trong các chiến dịch vận động tranh cử
Các
chế độ độc tài có vô số thuận lợi trong các chiến dịch tranh cử. Họ có thể đổ
nguồn lực lớn của nhà nước (do họ kiểm soát) vào các chiến dịch, độc quyền các
cơ quan truyền thông với các chiến dịch quảng cáo cho các ứng viên chế độ, và
ngăn ngăn các ứng viên đối lập làm như vậy. Các chiến dịch với ngân quỹ đầy đủ,
cùng với việc phổ biến tràn ngập các thông điệp ủng hộ chế độ trên truyền
thông, mang lại lợi thế cho chế độ trong cuộc bầu cử.
Thao
túng luật bầu cử
Các
chế độ độc tài có thể thay đổi hệ thống bầu cử sao cho có lợi cho nó. Chẳng hạn
nó có thể quy định một số lượng ghế nào đó sẽ được dành cho chế độ chỉ định. Ví
dụ, ở Hàn Quốc thời Park Chung Hee, một phần ba số ghế do Park chỉ định. Ở
Mexico PRI, gian lận bằng cách chia khu vực bầu cử sao cho ngay cả khi đảng này
chỉ giành được một phần ba số phiếu phổ thông song vẫn duy trì được đa số ghế
trong quốc hội.
Thao
túng kinh tế
Một
biện pháp khác đảm bảo chế độ thắng cử là thao túng kinh tế. Chiến lược này được
sử dụng hữu hiệu ở Ai Cập, khiến cho cử tri tin rằng chế độ mang lại cho họ thịnh
vượng kinh tế. Các biện pháp thao túng kinh tế như thay đổi tỉ giá trước bầu cử
khiến cho các sản phẩm trong nước rẻ hơn, hay trợ cấp các sản sản phẩm tiêu
dùng thiết yếu nào đó (như bánh mì, nhiên liệu) cho cử tri.
Mua
phiếu
Một
biện pháp nữa mà các chế độ độc tài sử dụng là mua phiếu. Điều này được thực hiện
ở Đài Loan, dưới thời Quốc Dân Đảng (KMT), Mexico dưới thời PRI, hay ở
Philippines dưới thời Marcos. Trong trường hợp Đài Loan, phong bì đỏ chứa tiền
được mang đến trước cử nhà cử tri để khuyến khích họ đi bỏ phiếu cho ứng viên
KMT. Biện pháp này đặc biệt hữu hiệu với các cử tri nghèo.
B. ĐẢNG
CHÍNH TRỊ
Dù
một số chế độ độc tài cấm các đảng chính trị, song nhìn chung chúng khá phổ biến
trong chế độ độc tài, nhất là trong các chế độ độc tài bầu cử. Sự khác biệt giữa
các chế độ độc tài nằm ở vai trò của các đảng này. Trong chế độ độc đảng, đảng
kiểm soát chính sách, trong khi trong một số chế độ khác đảng có ít quyền lực
hơn.
Giống
như bầu cử, đảng giúp tăng cường tính bền vững của chế độ. Như Geddes chỉ ra,
các chế độ nào dựa vào đảng thì có tuổi thọ nhiều hơn ít nhất hai lần các chế độ
không dựa vào đảng. Dưới đây là một số lợi ích của đảng chính trị
Thu
nạp giới tinh hoa
Một
trong các mục đích của đảng chính trị là cung cấp phương tiên qua đó các chế độ
độc tài có thể thu nạp giới tinh hoa trong xã hội. Các đảng chính trị trong chế
độ độc tài trao cho các cá nhân (có năng lực) cơ hội tham gia vào trong hệ thống
chính trị hơn là để họ trở thành đối kháng (khi đảng phái bị cấm hay
đàn áp).
Giản
bớt rủi ro đảo chính
Các
đảng chính trị của có thể làm hạ thấp nguy cơ đảo chính trong chế độ độc tài.
Như Gebbes chỉ ra: các đảng đại chúng có khả năng huy động quần chúng xuống đường
nhân danh cách mạng, quốc gia ... qua đó bảo vệ các nhà lãnh đạo độc tài khỏi
các cuộc đảo chính do phe cánh quân sự bất mãn tiến hành. Bởi các phe cánh
trong quân đội ít có khả năng đảo chính khi họ tin rằng nó không được công
chúng ủng hộ.
Quản
lý xung đột trong giới chóp bu
Giống
như các cuộc bầu cử, các đảng chính trị cũng là công cụ quản lý xung đột trong
giới chóp bu. Khi bất đồng trong giới chóp bủ nổi lên, các đảng chính trị là
thiết chế điều tiết sự xung đột này. Chế độ có thể sử dụng đảng như phương tiện
cho sự phân phối quyền lợi để đảm bảo sự hài lòng của giới chóp bu. Các lợi ích
như vậy khiến giới chóp bu muốn duy trì hiện trạng, ngay cả khi xảy ra xung đột
phe cánh.
Ngoài
ra, kế nhiệm (chuyển giao quyền lực) là một vấn đề cực kì quan trọng trong chế
độ độc tài, và có thể gây mất ổn định nghiêm trọng với chế độ, khi xung đột kế
nhiệm giữa các phe cánh có thể nổ ra thành bạo lực, thậm chí nội chiến. Song nếu
đảng được tổ chức tốt có thể cung cấp hướng dẫn được thể chế hóa về việc ai sẽ
trở thành lãnh đạo kế tiếp, qua đó khiến cho vấn đề chuyển giao quyền lực êm
thuận.
Chiến
thắng bầu cử
Các
đảng chính trị cũng giúp chế độ độc tài chiến thắng các cuộc bầu cử. Dù một chế
chế độ độc tài có thể tổ chức bầu cử mà không có các đảng chính trị (do bị cấm),
song liên minh với một đảng chính trị là cách hữu hiệu để chế độ có thể huy động
cử tri ủng hộ chế độ.
Điều
này có thể đạt được thông qua mạng lưới người hỗ trợ, thực hiện các chiến dịch
vận động, các cuộc mít tinh công cộng...Ngoài ra, theo Jason Brownlee đảng cũng
giúp chế độ thực hiện gian lận bầu cử. Các hoạt động gian lận như làm giả phiếu,
gian lận phiếu đòi hỏi sự ‘phối hợp và kỉ luật’, điều mà các tổ chức
đại chúng như đảng chính trị có thể cung cấp.
Nguồn
tài liệu
- Natasha
M. Ezrow, Erica Frantz. Dictators and Dictatorships: Understanding
Authoritarian Regimes and Their Leaders