Ilya
Somin
Phạm Nguyên Trường dịch
Phạm Nguyên Trường dịch
Kỉ
niệm 100 năm Cách mạng Bolshevik cũng là lúc suy nghĩ về những bài học mà chúng
ta rút ra được từ thực tiễn của cuộc cách mạng này.
Ngày
7 tháng 11 là kỷ niệm 100 năm ngày những người Bolshevik cướp được chính quyền,
dẫn tới việc thành lập chế độ cộng sản ở Nga và cuối cùng là ở nhiều nước khác
trên thế giới. Đó là thời điểm thích hợp để cùng nhớ lại làn sóng đàn áp, những
hành động bạo ngước và giết người hàng loạt mà các chế độ cộng sản đã gây ra
trên khắp thế giới. Trong khi các nhà sử học và những người khác ghi lại được
nhiều hành động tàn bạo của cộng sản, phần lớn công chúng vẫn không nhận thức
được quy mô to lớn của chúng. Đây cũng là lúc suy nghĩ về những bài học mà
chúng ta có thể rút ra được từ giai đoạn lịch sử khủng khiếp này.
I. Kỉ lục về những vụ đàn áp và giết người hàng loạt
Tổng cộng, các nước cộng sản đã giết khoảng 100 triệu người, nhiều hơn số người mà tất cả các chế độ áp bức khác đã giết hại trong cùng thời gian đó. Cho đến nay, số người chết nhiều nhất là do những nỗ lực của cộng sản nhằm tập thể hóa nông nghiệp và giết hại những người nông dân có tài sản tư hữu. Riêng ở Trung Quốc, Đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông đã dẫn đến nạn đói do chính con người gây ra, làm 45 triệu người thiệt mạng - vụ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ở Liên Xô, quá trình tập thể hóa của Joseph Stalin – mô hình cho những nỗ lực tương tự ở Trung Quốc và các nước khác – làm thiệt mạng từ 6 đến 10 triệu người. Nạn đói xảy ra trong nhiều chế độ cộng sản khác, từ Bắc Triều Tiên đến Ethiopia. Trong mỗi trường hợp, các ông trùm cộng sản đều biết rõ rằng chính sách của họ đã làm nhiều người chết, nhưng họ vẫn tiếp tục làm vì họ coi việc giết địa chủ là đặc điểm của cách mạng chứ không phải là sai lầm.
I. Kỉ lục về những vụ đàn áp và giết người hàng loạt
Tổng cộng, các nước cộng sản đã giết khoảng 100 triệu người, nhiều hơn số người mà tất cả các chế độ áp bức khác đã giết hại trong cùng thời gian đó. Cho đến nay, số người chết nhiều nhất là do những nỗ lực của cộng sản nhằm tập thể hóa nông nghiệp và giết hại những người nông dân có tài sản tư hữu. Riêng ở Trung Quốc, Đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông đã dẫn đến nạn đói do chính con người gây ra, làm 45 triệu người thiệt mạng - vụ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ở Liên Xô, quá trình tập thể hóa của Joseph Stalin – mô hình cho những nỗ lực tương tự ở Trung Quốc và các nước khác – làm thiệt mạng từ 6 đến 10 triệu người. Nạn đói xảy ra trong nhiều chế độ cộng sản khác, từ Bắc Triều Tiên đến Ethiopia. Trong mỗi trường hợp, các ông trùm cộng sản đều biết rõ rằng chính sách của họ đã làm nhiều người chết, nhưng họ vẫn tiếp tục làm vì họ coi việc giết địa chủ là đặc điểm của cách mạng chứ không phải là sai lầm.
Trong
khi tập thể hóa là vụ giết người nhiều nhất, các chế độ cộng sản còn tiến hành
những hình thức giết người hàng loạt khác trên quy mô lớn. Hàng triệu người đã
chết trong các trại lao động khổ sai, ví dụ, hệ thống Gulag của Liên Xô và những
hệ thống tương tự ở những nước khác. Nhiều người đã bị giết trong các vụ tử
hình hàng loạt, ví dụ, vụ Đại Thanh Trừng của Stalin và những Cánh Đồng Chết ở
Campuchia.
Sự bất công do chủ nghĩa cộng sản gây ra không chỉ dừng lại ở những vụ giết người hàng loạt. Ngay cả những người may mắn sống sót vẫn bị áp bức nghiêm trọng, trong đó có vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, không có quyền sở hữu tài sản và hình sự hóa các hoạt động kinh tế bình thường. Chưa có chế độ độc tài nào từng tìm kiếm những biện pháp kiểm soát toàn diện hầu như tất cả các mặt của đời sống của con người như cộng sản đã làm.
Mặc dù người cộng sản hứa hẹn xây dựng xã hội không tưởng, trong đó giai cấp công nhân sẽ được hưởng sự thịnh vượng chưa từng thấy, nhưng thực tế, họ đã tạo nạn đói nghèo trên diện rộng. Khi nào quốc gia cộng sản và không cộng sản ở gần nhau, thì chính cộng sản phải xây những bức tường và dọa giết để ngăn không cho người dân của mình chạy trốn sang những xã hội có nhiều cơ hội hơn.
II. Vì sao cộng sản thất bại
Làm sao mà hệ tư tưởng nói là giải phóng lại dẫn đến quá nhiều vụ đàn áp, bạo ngược và nhiều người chết như thế? Có phải đấy là những thất bại thuộc về bản chất của dự án cộng sản, hay chúng đã phát sinh từ những sai lầm có thể tránh được của những người cầm quyền hoặc dân tộc cụ thể? Giống như bất kỳ quá trình phát triển lịch sử vĩ đại nào khác, những thất bại của chủ nghĩa cộng sản không thể quy giản thành một nguyên nhân duy nhất. Nhưng, nói chung, những thất bại này là bản chất cố hữu của dự án.
Hai yếu tố chính trở thành nguyên nhân quan trọng nhất của những hành động tàn bạo mà các chế độ cộng sản đã gây ra: động cơ sai lầm và sự hiểu biết không đầy đủ. Việc thiết lập nền kinh tế và xã hội kế hoạch hóa tập trung theo yêu cầu của tư tưởng xã hội chủ nghĩa buộc phải tập trung quyền lực rất lớn vào tay một nhóm người. Trong khi cộng sản mong muốn xã hội không tưởng, trong đó nhà nước nhà nước sẽ “biến mất dần” thì họ lại tin rằng việc đầu tiên là phải thiết lập nền kinh tế do nhà nước quản lý để sản xuất vì lợi ích của nhân dân. Về mặt này, họ có nhiều điểm chung với những người xã hội chủ nghĩa khác.
Sự bất công do chủ nghĩa cộng sản gây ra không chỉ dừng lại ở những vụ giết người hàng loạt. Ngay cả những người may mắn sống sót vẫn bị áp bức nghiêm trọng, trong đó có vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, không có quyền sở hữu tài sản và hình sự hóa các hoạt động kinh tế bình thường. Chưa có chế độ độc tài nào từng tìm kiếm những biện pháp kiểm soát toàn diện hầu như tất cả các mặt của đời sống của con người như cộng sản đã làm.
Mặc dù người cộng sản hứa hẹn xây dựng xã hội không tưởng, trong đó giai cấp công nhân sẽ được hưởng sự thịnh vượng chưa từng thấy, nhưng thực tế, họ đã tạo nạn đói nghèo trên diện rộng. Khi nào quốc gia cộng sản và không cộng sản ở gần nhau, thì chính cộng sản phải xây những bức tường và dọa giết để ngăn không cho người dân của mình chạy trốn sang những xã hội có nhiều cơ hội hơn.
II. Vì sao cộng sản thất bại
Làm sao mà hệ tư tưởng nói là giải phóng lại dẫn đến quá nhiều vụ đàn áp, bạo ngược và nhiều người chết như thế? Có phải đấy là những thất bại thuộc về bản chất của dự án cộng sản, hay chúng đã phát sinh từ những sai lầm có thể tránh được của những người cầm quyền hoặc dân tộc cụ thể? Giống như bất kỳ quá trình phát triển lịch sử vĩ đại nào khác, những thất bại của chủ nghĩa cộng sản không thể quy giản thành một nguyên nhân duy nhất. Nhưng, nói chung, những thất bại này là bản chất cố hữu của dự án.
Hai yếu tố chính trở thành nguyên nhân quan trọng nhất của những hành động tàn bạo mà các chế độ cộng sản đã gây ra: động cơ sai lầm và sự hiểu biết không đầy đủ. Việc thiết lập nền kinh tế và xã hội kế hoạch hóa tập trung theo yêu cầu của tư tưởng xã hội chủ nghĩa buộc phải tập trung quyền lực rất lớn vào tay một nhóm người. Trong khi cộng sản mong muốn xã hội không tưởng, trong đó nhà nước nhà nước sẽ “biến mất dần” thì họ lại tin rằng việc đầu tiên là phải thiết lập nền kinh tế do nhà nước quản lý để sản xuất vì lợi ích của nhân dân. Về mặt này, họ có nhiều điểm chung với những người xã hội chủ nghĩa khác.
Muốn
cho xã hội chủ nghĩa hoạt động, những người lập chính sách của chính phủ phải
có quyền chỉ đạo sản xuất và phân phối hầu như tất cả các mặt hàng mà xã hội sản
xuất được. Bên cạnh đó, cần phải đàn áp trên diện rộng để buộc người ta từ bỏ
tài sản cá nhân và làm những việc mà nhà nước yêu cầu. Nạn đói và giết người
hàng loạt có thể là biện pháp duy nhất mà những người cầm quyền ở Liên Xô,
Trung Quốc và các quốc gia cộng sản khác có thể sử dụng nhằm ép buộc nông dân từ
bỏ đất đai và gia súc của mình và chấp nhận hình thức nô lệ mới trong các nông
trang tập thể - đa số đều bị cấm, không được rời bỏ nông trang nếu chưa được
phép, vì sợ rằng người nông dân có thể tìm kiếm cuộc sống dễ dàng hơn ở những
nơi khác.
Quyền lực rất lớn nhằm thiết lập và duy trì hệ thống cộng sản là chiếc nam châm tự nhiên, thu hút những kẻ vô đạo đức, trong đó có nhiều kẻ tự tư tự lợi, những kẻ đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích của sự nghiệp mà họ theo đuổi. Nhưng đáng kinh ngạc là, những hành động tàn bạo nhất của cộng sản lại không phải do những ông trùm thối nát gây ra, mà do các tín đồ thực sự như Lenin, Stalin và Mao. Chính vì họ là những tín đồ thật sự, họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để biến ước mơ không tưởng của mình thành hiện thực.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa tạo ra những cơ hội để người cầm quyền phạm những tội ác khủng khiếp, đồng thời nó còn tiêu diệt động cơ sản xuất của những người dân bình thường. Thiếu vắng thị trường (chí ít là hợp pháp), thì chẳng có mấy động lực khuyến khích người lao động tăng năng suất hay chú tâm vào việc sản xuất ra những hàng hoá thực sự có ích cho người tiêu dùng. Nhiều người tìm cách làm việc cơ quan càng ít càng tốt và nếu có điều kiện thì cố gắng làm cho chợ đen (ở VN gọi là chân ngoài dài hơn chân trong – ND). Ở Liên Xô cũ, người ta thường nói: “Chúng tôi giả vờ làm việc, còn họ thì giả vờ trả lương cho chúng tôi”.
Ngay cả khi kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa thực sự tìm cách tạo ra thịnh vượng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, họ cũng không đủ thông tin để làm việc đó. Như nhà kinh tế học F.A. Hayek, huân chương Nobel, từng mô tả trong một bài báo nổi tiếng, rằng kinh tế thị trường đưa những thông tin quan trọng – thông qua hệ thống giá cả - đến người sản xuất và người tiêu dùng. Giá thị trường tạo điều kiện cho người sản xuất biết được giá trị tương đối của các món hàng hoá và dịch vụ khác nhau và xác định người tiêu dùng đánh giá sản phẩm của họ cao đến mức nào. Ngược lại, kế hoạch hóa tập trung xã hội chủ nghĩa không có cái gì thay thế cho kiến thức cực kì quan trọng này. Kết quả là, những người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa thường không thể biết cần sản xuất món hàng gì, sản xuất bằng phương pháp nào, hoặc sản xuất bao nhiêu. Đây là một trong những lý do vì sao các nước cộng sản thường xuyên thiếu những hàng hoá cơ bản nhất, đồng thời lại làm ra nhiều sản phẩm kém chất lượng mà lượng cầu lại không cao.
III. Tại sao thất bại lại không thể biện hộ được
Cho đến nay, những người bảo vệ kế hoạch tập trung xã hội chủ nghĩa khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản thất bại vì những lý do ngẫu nhiên, có thể tránh được, chứ không phải là vì những lý do có tính bản chất, nội tại của hệ thống. Có lẽ tuyên bố phổ biến nhất thuộc loại này là kinh tế kế hoạch có thể hoạt động tốt nếu đấy là chế độ dân chủ. Liên Xô và các nước cộng sản khác đều là chế độ độc tài. Nhưng nếu đấy là chế độ dân chủ, có lẽ các nhà lãnh đạo sẽ có động cơ mạnh mẽ hơn nhằm làm cho hệ thống hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Nếu họ không làm như vậy, các cử tri có thể “vứt những kẻ vô tích sự đi” trong cuộc bầu cử tiếp theo.
Thật không may là, ít có khả năng là nhà nước cộng sản có thể giữ được tính dân chủ trong thời gian dài, ngay cả khi nó bắt đầu theo cách đó. Dân chủ đòi hỏi phải có các đảng đối lập hoạt động hiệu quả. Và để có thể hoạt động, các đảng phái cần có điều kiện đưa ra thông điệp của họ và huy động cử tri, tức là cần nhiều nguồn lực. Trong hệ thống kinh tế, trong đó, tất cả hay gần như tất cả các nguồn lực có giá trị đều nằm trong tay nhà nước, chính phủ đương nhiệm có thể dễ dàng bóp nghẹt phe đối lập bằng cách không cho họ tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong chủ nghĩa xã hội, phe đối lập không thể hoạt động nếu họ không được phép truyền bá thông điệp của mình trên các phương tiện truyền thông của nhà nước, hay sử dụng tài sản của nhà nước để tổ chức các cuộc mít tinh và các cuộc tập hợp. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các chế độ cộng sản đều đàn áp các đảng đối lập ngay sau khi gìanh được quyền lực.
Quyền lực rất lớn nhằm thiết lập và duy trì hệ thống cộng sản là chiếc nam châm tự nhiên, thu hút những kẻ vô đạo đức, trong đó có nhiều kẻ tự tư tự lợi, những kẻ đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích của sự nghiệp mà họ theo đuổi. Nhưng đáng kinh ngạc là, những hành động tàn bạo nhất của cộng sản lại không phải do những ông trùm thối nát gây ra, mà do các tín đồ thực sự như Lenin, Stalin và Mao. Chính vì họ là những tín đồ thật sự, họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để biến ước mơ không tưởng của mình thành hiện thực.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa tạo ra những cơ hội để người cầm quyền phạm những tội ác khủng khiếp, đồng thời nó còn tiêu diệt động cơ sản xuất của những người dân bình thường. Thiếu vắng thị trường (chí ít là hợp pháp), thì chẳng có mấy động lực khuyến khích người lao động tăng năng suất hay chú tâm vào việc sản xuất ra những hàng hoá thực sự có ích cho người tiêu dùng. Nhiều người tìm cách làm việc cơ quan càng ít càng tốt và nếu có điều kiện thì cố gắng làm cho chợ đen (ở VN gọi là chân ngoài dài hơn chân trong – ND). Ở Liên Xô cũ, người ta thường nói: “Chúng tôi giả vờ làm việc, còn họ thì giả vờ trả lương cho chúng tôi”.
Ngay cả khi kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa thực sự tìm cách tạo ra thịnh vượng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, họ cũng không đủ thông tin để làm việc đó. Như nhà kinh tế học F.A. Hayek, huân chương Nobel, từng mô tả trong một bài báo nổi tiếng, rằng kinh tế thị trường đưa những thông tin quan trọng – thông qua hệ thống giá cả - đến người sản xuất và người tiêu dùng. Giá thị trường tạo điều kiện cho người sản xuất biết được giá trị tương đối của các món hàng hoá và dịch vụ khác nhau và xác định người tiêu dùng đánh giá sản phẩm của họ cao đến mức nào. Ngược lại, kế hoạch hóa tập trung xã hội chủ nghĩa không có cái gì thay thế cho kiến thức cực kì quan trọng này. Kết quả là, những người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa thường không thể biết cần sản xuất món hàng gì, sản xuất bằng phương pháp nào, hoặc sản xuất bao nhiêu. Đây là một trong những lý do vì sao các nước cộng sản thường xuyên thiếu những hàng hoá cơ bản nhất, đồng thời lại làm ra nhiều sản phẩm kém chất lượng mà lượng cầu lại không cao.
III. Tại sao thất bại lại không thể biện hộ được
Cho đến nay, những người bảo vệ kế hoạch tập trung xã hội chủ nghĩa khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản thất bại vì những lý do ngẫu nhiên, có thể tránh được, chứ không phải là vì những lý do có tính bản chất, nội tại của hệ thống. Có lẽ tuyên bố phổ biến nhất thuộc loại này là kinh tế kế hoạch có thể hoạt động tốt nếu đấy là chế độ dân chủ. Liên Xô và các nước cộng sản khác đều là chế độ độc tài. Nhưng nếu đấy là chế độ dân chủ, có lẽ các nhà lãnh đạo sẽ có động cơ mạnh mẽ hơn nhằm làm cho hệ thống hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Nếu họ không làm như vậy, các cử tri có thể “vứt những kẻ vô tích sự đi” trong cuộc bầu cử tiếp theo.
Thật không may là, ít có khả năng là nhà nước cộng sản có thể giữ được tính dân chủ trong thời gian dài, ngay cả khi nó bắt đầu theo cách đó. Dân chủ đòi hỏi phải có các đảng đối lập hoạt động hiệu quả. Và để có thể hoạt động, các đảng phái cần có điều kiện đưa ra thông điệp của họ và huy động cử tri, tức là cần nhiều nguồn lực. Trong hệ thống kinh tế, trong đó, tất cả hay gần như tất cả các nguồn lực có giá trị đều nằm trong tay nhà nước, chính phủ đương nhiệm có thể dễ dàng bóp nghẹt phe đối lập bằng cách không cho họ tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong chủ nghĩa xã hội, phe đối lập không thể hoạt động nếu họ không được phép truyền bá thông điệp của mình trên các phương tiện truyền thông của nhà nước, hay sử dụng tài sản của nhà nước để tổ chức các cuộc mít tinh và các cuộc tập hợp. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các chế độ cộng sản đều đàn áp các đảng đối lập ngay sau khi gìanh được quyền lực.
Ngay
cả nếu nhà nước cộng sản thể vẫn là chế độ dân chủ trong một thời gian dài, thì
cũng khó mà hiểu cách thức họ giải quyết hai vấn đề cùng song tồn tại là kiến
thức và động lực. Dù dân chủ hay không, kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn đòi hỏi sự
tập trung quyền lực to lớn và cưỡng ép trên diện rộng. Và những người lập kế hoạch
xã hội chủ nghĩa dân chủ sẽ gặp nhiều vấn đề về thông tin, tương tự như các đối
tác độc tài của họ. Ngoài ra, trong xã hội mà chính phủ kiểm soát tất cả hay kiểm
soát hầu hết nền kinh tế, cử tri sẽ gần như không tìm được đủ kiến thức để theo
dõi các hoạt động của nhà nước. Nó sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề vốn đã nghiêm
trọng về sự dốt nát của cử tri, gây ra nhiều rắc rối cho các chế độ dân chủ hiện
đại.
Cách giải thích khác là lãnh đạo kém. Chỉ cần các chế độ cộng sản không có các nhà lãnh đạo tàn bạo như Stalin hay Mao, thì họ có thể đã có kết quả tốt hơn. Không nghi ngờ gì rằng các chính phủ cộng sản có nhiều nhà lãnh đạo độc ác và thậm chí rối loạn nhân cách hơn là các chính phủ khác. Nhưng ít có khả năng đây là yếu tố quyết định làm cho họ thất bại. Các chế độ cộng sản với các nhà lãnh đạo với những tính cách khác nhau cũng đều đưa tới kết quả giống hệt nhau. Ở Liên Xô, điều quan trọng cần nhớ là các thiết chế đàn áp chính (trong đó có Gulags và cảnh sát mật) không phải do Stalin mà do Vladimir Lenin - một người “bình thường” hơn – lập ra. Sau khi Lenin chết, đối thủ chính của Stalin - Leon Trotsky – còn ủng hộ các chính sách mà trong một số mặt thậm chí còn khắc nghiệt hơn cả Stalin. Khó mà không kết luận rằng nhân cách nhà lãnh đạo không phải là nhân tố chính, hoặc - theo nói theo cách khác – các chế độ cộng sản có khuynh hướng đưa những người độc ác vào vị trí quyền lực.
Cũng khó công nhận những tuyên bố nói rằng chủ nghĩa cộng sản thất bại là do những khiếm khuyết trong văn hoá của các quốc gia áp dụng nó. Đúng là Nga, nhà nước cộng sản đầu tiên, đã có lịch sử tham nhũng, chế độ độc tài và áp bức kéo dài. Nhưng cũng đúng là cộng sản tiến hành những vụ đàn áp và giết người hàng loạt ở quy mô lớn hơn hẳn so với các chính phủ Nga trước đây. Và chủ nghĩa cộng sản cũng thất bại ở nhiều quốc gia khác, với những nền văn hoá rất khác nhau. Các nước như Triều Tiên, Trung Quốc và Đức, với cùng nền tảng văn hoá ban đầu, những người dân trong chế độ cộng sản đã phải chịu đựng tình trạng thiếu thốn khủng khiếp, trong khi người dân sống trong các nền kinh tế thị trường đã thu được nhiểu thành công hơn hẳn.
Nói chung, những hành động tàn bạo và thất bại của chủ nghĩa cộng sản là kết quả tự nhiên của nỗ lực nhằm thiết lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó toàn bộ hoặc gần như toàn bộ quá trình sản xuất đều nằm trong tay nhà nước.
Nếu những hành động tàn bạo của quốc xã là những bài học về sự nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa bài Do Thái, thì lịch sử tội ác của cộng sản đã dạy cho chúng ta những mối nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử của chủ nghĩa cộng sản không chứng minh rằng phải tránh mọi hình thức can thiệp của chính phủ vào kinh tế. Nhưng nó nhấn mạnh những mối nguy hiểm của việc cho phép nhà nước nắm quyền kiểm soát tất cả hay phần lớn nền kinh tế và tiêu diệt sở hữu tư nhân. Hơn nữa, những vấn đề về kiến thức và khuyến khích xuất hiện trong chủ nghĩa xã hội cũng gây khó khăn cho những nỗ lực trong việc lập kế hoạch kinh tế trên quy mô lớn làm cho chính phủ không thể kiểm soát được toàn bộ nền kinh tế.
Cách giải thích khác là lãnh đạo kém. Chỉ cần các chế độ cộng sản không có các nhà lãnh đạo tàn bạo như Stalin hay Mao, thì họ có thể đã có kết quả tốt hơn. Không nghi ngờ gì rằng các chính phủ cộng sản có nhiều nhà lãnh đạo độc ác và thậm chí rối loạn nhân cách hơn là các chính phủ khác. Nhưng ít có khả năng đây là yếu tố quyết định làm cho họ thất bại. Các chế độ cộng sản với các nhà lãnh đạo với những tính cách khác nhau cũng đều đưa tới kết quả giống hệt nhau. Ở Liên Xô, điều quan trọng cần nhớ là các thiết chế đàn áp chính (trong đó có Gulags và cảnh sát mật) không phải do Stalin mà do Vladimir Lenin - một người “bình thường” hơn – lập ra. Sau khi Lenin chết, đối thủ chính của Stalin - Leon Trotsky – còn ủng hộ các chính sách mà trong một số mặt thậm chí còn khắc nghiệt hơn cả Stalin. Khó mà không kết luận rằng nhân cách nhà lãnh đạo không phải là nhân tố chính, hoặc - theo nói theo cách khác – các chế độ cộng sản có khuynh hướng đưa những người độc ác vào vị trí quyền lực.
Cũng khó công nhận những tuyên bố nói rằng chủ nghĩa cộng sản thất bại là do những khiếm khuyết trong văn hoá của các quốc gia áp dụng nó. Đúng là Nga, nhà nước cộng sản đầu tiên, đã có lịch sử tham nhũng, chế độ độc tài và áp bức kéo dài. Nhưng cũng đúng là cộng sản tiến hành những vụ đàn áp và giết người hàng loạt ở quy mô lớn hơn hẳn so với các chính phủ Nga trước đây. Và chủ nghĩa cộng sản cũng thất bại ở nhiều quốc gia khác, với những nền văn hoá rất khác nhau. Các nước như Triều Tiên, Trung Quốc và Đức, với cùng nền tảng văn hoá ban đầu, những người dân trong chế độ cộng sản đã phải chịu đựng tình trạng thiếu thốn khủng khiếp, trong khi người dân sống trong các nền kinh tế thị trường đã thu được nhiểu thành công hơn hẳn.
Nói chung, những hành động tàn bạo và thất bại của chủ nghĩa cộng sản là kết quả tự nhiên của nỗ lực nhằm thiết lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó toàn bộ hoặc gần như toàn bộ quá trình sản xuất đều nằm trong tay nhà nước.
Nếu những hành động tàn bạo của quốc xã là những bài học về sự nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa bài Do Thái, thì lịch sử tội ác của cộng sản đã dạy cho chúng ta những mối nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử của chủ nghĩa cộng sản không chứng minh rằng phải tránh mọi hình thức can thiệp của chính phủ vào kinh tế. Nhưng nó nhấn mạnh những mối nguy hiểm của việc cho phép nhà nước nắm quyền kiểm soát tất cả hay phần lớn nền kinh tế và tiêu diệt sở hữu tư nhân. Hơn nữa, những vấn đề về kiến thức và khuyến khích xuất hiện trong chủ nghĩa xã hội cũng gây khó khăn cho những nỗ lực trong việc lập kế hoạch kinh tế trên quy mô lớn làm cho chính phủ không thể kiểm soát được toàn bộ nền kinh tế.
Đáng
buồn là, hiện nay những bài học này vẫn còn có ý nghĩa, đấy là khi chủ nghĩa xã
hội lại bắt đầu thu hút được các môn đồ ở nhiều nước trên thế giới. Ở
Venezuela, chính phủ đang tìm cách thiết lập chế độc tài xã hội chủ nghĩa mới,
tức là chế độ độc tài theo đuổi nhiều chính sách tương tự như những chế độ xã hội
chủ nghĩa trước đây, trong đó có việc không cung cấp đủ lương thực để làm tan
rã phe đối lập. Ngay cả ở một số chế độ dân chủ đã được thiết lập từ lâu, những
khó khăn về kinh tế và xã hội gần đây đã làm tăng sự ủng hộ của dân chúng đối với
những người xã hội chủ nghĩa kiểu cũ như Bernie Sanders ở Mỹ và Jeremy Corbyn ở
Anh. Cả Sanders và Corbyn đều là những người từng ngưỡng mộ chế độ cộng sản tàn
bạo trong một thời gian dài. Ngay cả nếu họ muốn làm như vậy, không có khả năng
là Sanders hay Corbyn sẽ có thể thiết lập chủ nghĩa xã hội đầy đủ ở những nước
của mình. Nhưng họ có khả năng gây ra những thiệt hại đáng kể.
Ở phía bên kia của phổ chính trị, có những điểm tương đồng đáng lo ngại giữa chủ nghĩa cộng sản và các phong trào quốc gia cực hữu được lòng dân vừa mới xuất hiện. Cả hai xu hướng độc tài kết hợp với thái độ khinh bỉ đối với những giá trị của tự do và mong muốn khuếch trương quyền kiểm soát của chính phủ đối với những khu vực rộng lớn của nền kinh tế.
Những khuynh hướng nguy hiểm hiện nay ở cả phái hữu và phái tả không còn có sức mạnh đe dọa như những phong trào cách đây một thế kỷ, và không cần phải lo lắng về những thiệt hại to lớn gần như ngày xưa. Nhưng chúng ta càng học kĩ những bài học đau đớn của lịch sử của chủ nghĩa cộng sản thì càng có nhiều khả năng là chúng ta có thể tránh được sự lặp lại của những nỗi kinh hoàng mà nó đã gây ra.
Ilya Somin là Giáo sư Luật tại George Mason University. Đề tài nghiên cứu của ông nằm torng các lĩnh vực luật hiến pháp, luật về quyền sở hữu, và sự tham gia của dân chúng vào chính trị và ảnh hưởng của nó đối với chế độ dân chủ hiến định.
Ở phía bên kia của phổ chính trị, có những điểm tương đồng đáng lo ngại giữa chủ nghĩa cộng sản và các phong trào quốc gia cực hữu được lòng dân vừa mới xuất hiện. Cả hai xu hướng độc tài kết hợp với thái độ khinh bỉ đối với những giá trị của tự do và mong muốn khuếch trương quyền kiểm soát của chính phủ đối với những khu vực rộng lớn của nền kinh tế.
Những khuynh hướng nguy hiểm hiện nay ở cả phái hữu và phái tả không còn có sức mạnh đe dọa như những phong trào cách đây một thế kỷ, và không cần phải lo lắng về những thiệt hại to lớn gần như ngày xưa. Nhưng chúng ta càng học kĩ những bài học đau đớn của lịch sử của chủ nghĩa cộng sản thì càng có nhiều khả năng là chúng ta có thể tránh được sự lặp lại của những nỗi kinh hoàng mà nó đã gây ra.
Ilya Somin là Giáo sư Luật tại George Mason University. Đề tài nghiên cứu của ông nằm torng các lĩnh vực luật hiến pháp, luật về quyền sở hữu, và sự tham gia của dân chúng vào chính trị và ảnh hưởng của nó đối với chế độ dân chủ hiến định.