BBT
Dân giàu là một từ mà chúng ta nghe rất quen thuộc,
song cụ thể dân giàu là gì thì rất khó định nghĩa. Nếu dùng chỉ số thu nhập
bình quân của Việt nam mà so sánh với thế giới, thì có lẽ Việt nam dù cố gắng
thế nào vẫn là dân nghèo thôi. Hơn nưa, chỉ số thu nhập bình quân theo đầu
người cũng không hẳn phản ánh chính xác mức độ thịnh vượng vật chất của đa số
người dân.
Trong một đất nước với hàng triệu dân, dựa trên nền
tảng tư hữu và thị trường, thì sự giàu có của mỗi người dân là rất khác nhau,
có người rất giàu, có người trung lưu, và có những người lại rất nghèo. Vậy sự
phân bố của cải như thế nào là tốt, như thế nào để có thể coi là ‘dân giàu’. Về
cơ bản, một quốc gia thịnh vượng, ổn định, và hài hòa khi tầng lớp trung lưu
chiếm đa số.
Trong một quốc gia nếu đa số người nghèo này nắm
quyền, hoặc các lãnh đạo dân túy nắm quyền thì họ thường chú trọng đến các
chính sách tái phân phối tài sản, ít quan tâm đến việc bảo vệ các quyền tư hưu,
tự do kinh doanh, thị trường… Họ sẽ đánh thế cao vào các doanh nghiệp sản xuất,
thiểu số giàu có để phục vụ cho chính sách tái phân phối. Nhìn chung, những
chính sách như vậy sẽ phá hoại nền tảng sản xuất của quốc gia, khiến quốc gia
ngày càng nghèo đi.
Ngược lại, nếu thiểu số giàu có nắm quyền thì họ
chú trọng đến việc bảo vệ các quyền tư hữu, chống lại các chính sách tái phân phối.
Những chính sách như vậy sẽ làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, làm cho đa số
dân nghèo cảm thấy yếu đuối, bất công, và coi chính quyền như lực lượng bảo vệ
cho người giàu. Với tâm lý như vậy, bất ổn xã hội rất dễ xảy ra, khi người
nghèo nổi dậy chống lại thiểu số giàu có và chính quyền, nhằm xây dựng một
chính quyền mà họ tin là công bằng hơn. Tóm lại, một xã hội mà chỉ gồm đa số
người nghèo và thiểu số giàu có thì rất dễ rơi vào bất ổn và nghèo đói. Có rất
nhiều ví dụ về điều này, như Thái lan, các nước Nam Mỹ….
Một xã hội mà đa số là trung lưu thì họ ít trông
chờ vào các chính sách tái phân phối của nhà nước. Điều mà họ cần đó là một
khuân khổ pháp lý bảo vệ tư hưu, bảo vệ thị trường tự do, và cơ quan tài phán
công bằng....đây cũng là điều mà nhóm giàu có cần, nên khi giới trung lưu, hoặc
giàu có nắm quyền thì họ sẽ bảo vệ những điều kiện như vậy. Chính một khuân khổ
như vậy làm cho họ yên tâm để theo đuổi sự giàu có cho mình. Hơn nưa, khi giới
trung lưu chiếm đa số, cộng với thiểu số giàu có thì lượng thuế đánh lên đầu họ
giảm bớt, vì vậy một mặt vẫn duy trì được động lực sản xuất, mặt khác có được
ngân sách để hỗ trợ cho tầng lớp nghèo đói tốt hơn. Và ta thấy rằng, trong phần
lớn các nước công nghiệp phát triển, thì tầng lớp trung lưu luôn chiếm đa số,
và tầng lớp này cũng luôn là trung tâm trong chính sách của họ, vì họ hiểu rằng
một khi tầng lớp trung lưu càng gia tăng thì xã hội càng ổn định, và thịnh
vượng.
Ở nước ta, điều này được thể hiện ở sự tương phản
giữa Sài gòn và Hà nội.
Ở Sài gòn, nhìn chung có một nền kinh tế thị trường
phát triển hơn, cạnh tranh hơn, do đó, mọi người chỉ cần chăm chỉ, năng động là
có thể trở nên giàu có. Ở đây, tầng lớp trung lưu và giàu có khá đông đảo, đồng
thời cơ hội làm giàu luôn mở rộng cho mọi người, nên mức độ bất mãn chính trị
ít hơn, đời sống ổn định hơn.
Ở Hà nội, nền kinh tế thị trường yếu kém hơn, và
phụ thuộc chủ yếu vào kinh tế nhà nước, do đó cơ hội làm giàu không mở rộng,
chỉ một thiểu số có cơ hội trở nên giàu có; và vì vậy ở Hà nội có sự phân hóa
giàu nghèo hơn. Nhìn chung, ở Hà nội, sự bất mãn chính trị lớn hơn, đời sống
chứa nhiều bất ổn hơn so với Sài gòn.
Tóm lại, dân giàu ở đây nên hiểu là tầng lớp trung
lưu phải chiếm đa số. Chính sách kinh tế là phải chú trọng phát triển tầng lớp
trung lưu, hơn là 'dân' chung chung, qua đó quan tâm quá mức đến vấn đề phúc
lợi, tái phân phối...Và để làm như vậy, cần phải bảo vệ tư hữu, bảo vệ tự do
kinh doanh, thúc đẩy thị trường tự do…chỉ có như vậy thì một tầng lớp trung lưu
mới có thể xuất hiện.