Nguyễn Anh Tuấn
Friedrich
August Hayek (1899 - 1992) là nhà tư tưởng người Áo, một trong những người lãnh
đạo thế hệ thứ 4 trường phái kinh tế học Áo nổi tiếng với chủ nghĩa tự do và
đây cũng là đặc trưng của tư tưởng triết học Hayek. Với tư cách này, ông đã phê
phán chủ nghĩa tập thể, coi đó là một biến thái của chủ nghĩa duy thực ngây
thơ. Ông cho rằng, các khoa học xã hội cần tập trung nghiên cứu hành động có ý
thức, chứ không phải những tư tưởng tư biện, hay những dự án được áp đặt từ bên
ngoài. Chính vì thế, ông cũng phê phán cả chủ nghĩa xã hội hiện thực với đặc
trưng là sự kế hoạch hoá tập trung hết thảy mọi lĩnh vực đời sống xã hội và chủ
nghĩa quốc xã bóp nghẹt mọi tự do, cho dù tự do đó đã dựa trên sự kém hiểu biết.
Ông luận chứng và tuyên truyền cho thứ chủ nghĩa tự do đích thực mà theo ông, đảm
bảo tự do phải gắn với việc bảo vệ những người yếu thế, dễ bị tổn thương trong
xã hội.
Friedrich
August Hayek sinh tại Viên (Áo) vào năm 1899. Cuối chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, ông là sĩ quan pháo binh Áo chiến đấu tại vùng biên giới với Italia. Sau
chiến tranh, ông nghiên cứu luật học và khoa học chính trị tại Viên. Sau khi tốt
nghiệp khoa Luật vào năm 1923, ông tiếp tục học tập tại Đại học Tổng hợp
Côlômbia Niu-oc (Hoa Kỳ), nghe U.Mitchela giảng về lịch sử tư tưởng kinh tế và
tham gia vào các buổi thảo luận của J.Klark. Sau khi trở về Viên vào năm 1927,
Hayek đã cùng với Mizes thành lập Viện Nghiên cứu Kinh tế của Áo. Sau đó hai
năm (1929), khi mới xuất hiện khủng hoảng kinh tế toàn thế giới tư bản, ông đã
cho xuất bản cuốn sách đầu tiên Giá cả và sản xuất, sau đó là cuốn Lý thuyết tiền
tệ và lý thuyết thị trường.
Năm 1931,
theo lời mời của Laion Rôbinsơn, Hayek đến Anh thuyết giảng loạt bài về Giá cả
và sản xuất tại Trường Kinh tế Luân Đôn và bắt đầu cuộc sống tại đảo quốc này đến
năm 1949. Trong khi chống lại J.M.Keinis, Hayek đã tìm và tìm thấy sự tương đồng
với lập trường của mình trong tác phẩm của K.Popper - Lôgíc của phát minh khoa
học. Ở Trường Kinh tế Luân Đôn, Popper đã thuyết giảng về Sự khốn cùng của chủ
nghĩa lịch sử (mới được xuất bản bằng tiếng Việt với tên gọi Sự nghèo nàn của
thuyết lịch sử luận). Giữa hai nhà khoa học này đã nảy nở tình bằng hữu kéo dài
đến hết cuộc đời của mỗi người.(*)
Trong tác phẩm
Kinh tế và ý thức (1937), lần đầu tiên, Hayek đã đề ra tư tưởng phi tập trung
hóa tri thức, phân phối nó cho triệu triệu người. Ông còn phân tích sâu sắc cội
nguồn xã hội của chủ nghĩa quốc xã trong tác phẩm nổi tiếng Đường về nô lệ
(1944) – đã được xuất bản bằng tiếng Việt. Tập bút ký dưới tên gọi Sự lạm dụng
lý tính của ông được xuất bản năm 1952 đã bóc trần niềm tin duy khoa học rằng,
con người theo ước vọng riêng có thể tạo ra và làm thay đổi các thiết chế xã hội.
Ông còn viết các công trình cũng rất thú vị và đáng quan tâm, như Sự sử dụng xã
hội đối với tri thức (1945); Chủ nghĩa cá nhân chân thực và giả dối (1946); Chủ
nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế (1946). Mont Pelerin Society đã được thành lập
nhờ những nỗ lực chung của Hayek, Mizes, Miltơn Phridman và Popper.
Từ năm 1949,
Hayek giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Chicagô. Ba năm sau, ông cho xuất bản tác
phẩm Trật tự thần kinh (1952), trong đó phân tích quan hệ giữa lý tính và bộ
não. Tác phẩm Xã hội tự do (1960) của ông đã được giới khoa học nhất trí thừa
nhận là một công trình kinh điển. Trở về châu Âu vào năm 1962, ông tiếp tục giảng
dạy ở Đại học Tổng hợp Phreiburg. Trong những năm này, ông viết các tác phẩm Các
bút ký về triết học, chính trị và kinh tế (1967); Những bút ký mới về triết học,
chính trị và kinh tế (1978). Tác phẩm đáng kể hơn cả là Luật pháp, lập pháp và
tự do gồm ba tập: Các quy tắc và trật tự (1973); Ảo ảnh công bằng xã hội
(1976); Chế độ chính trị của những người tự do (1979).
Năm 1974,
Friedrich Hayek được trao tặng giải thưởng Nôben. Tác phẩm cuối cùng Sự quá tự
tin tai hại. Những sai lầm của chủ nghĩa xã hội được ông viết vào năm 1988 –
khi Cải tổ ở Liên Xô đang lâm vào bế tắc và ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu bắt đầu có những dấu hiệu thay đổi chế độ. Ông củng cố quan điểm tiến hóa luận
của mình về sự phát triển xã hội bằng sự phân tích căn bản những sai lầm phương
pháp luận của cái gọi là chủ nghĩa duy lý kiến thiết. Sau khi đã chứng kiến những
thay đổi hết sức lớn lao trong suốt thế kỷ XX, ông đã qua đời vào ngày
23/3/1992 tại Phreiburg. Như vậy, mặc dù sinh ra ở Áo, nhưng chỉ có những năm
thơ ấu và vài năm học đại học, Hayek sống ở Áo.
Là học trò của
các nhà kinh tế học nổi tiếng người Áo, như Vizera và Mizes, Hayek xứng đáng là
người kế tục tư tưởng tự do của họ và thực sự đã là một trong những nhà lãnh đạo
thế hệ thứ tư trường phái kinh tế học Áo vốn nổi tiếng với chủ nghĩa tự do, như
một đặc trưng của tư tưởng triết học Hayek.
1. Về hành động có ý thức với tư cách dữ kiện của khoa học xã hội
Trong tác phẩm
Sự lạm dụng lý tính, Hayek đã khảo sát những tư tưởng xô đẩy người ta đến hành
động. Theo ông, cần phải phân biệt một cách thận trọng những suy đoán và ý kiến
có nguyên nhân, trước hết là với những suy đoán và ý kiến tư biện do bị áp đặt
từ bên ngoài. Các động cơ hay tư tưởng kiến thiết đã buộc người ta sản xuất,
bán và mua hàng hóa. Có thể gọi những khái niệm được khái quát nên để hiểu những
hiện tượng tập thể, như “xã hội”, “hệ thống kinh tế”, “chủ nghĩa tư bản”, “chủ
nghĩa đế quốc” là những tư tưởng tư biện do áp đặt từ ngoài. Nhà khoa học cần
phải đẩy xa không phải khỏi những khái niệm trừu tượng, mà khỏi những tư tưởng
thôi thúc người ta hành động. Chính các niềm tin-hành động là những dữ kiện thực
tế của các khoa học xã hội. Khác với nhà tâm lý học, nhà xã hội học không quan
tâm đến những hành động có ý thức, chẳng hạn như, vì sao mà ai đó sản xuất hàng
hóa xác định. Xã hội học cần phải hiểu những hành động không ý hướng, phức tạp
hơn. Trong khi đó, với chủ nghĩa tập thể thì phương pháp luận là khảo sát tất cả
thông qua lăng kính của các khái niệm, như giai cấp, xã hội, dân tộc, kinh tế,
chủ nghĩa tư bản. Sai lầm của nó là ở chỗ, nó gọi là dữ kiện cái mà trên thực tế
là lý thuyết, giả thuyết hay những định kiến được lan truyền. Chủ nghĩa tập thể
là một trong những biến thể của chủ nghĩa duy thực ngây thơ; bởi lẽ, nó đã coi
cái mà trên thực tế và về thực chất chỉ là những kết cấu xúc cảm là khách thể
hiện thực. Tính phi phê phán của nó là ở thói quen đi tìm sau các khái niệm
khác nhau những khách thể dường như ẩn nấp sau chúng.
2. Sai lầm của chủ nghĩa kiến thiết
Nên nhớ rằng,
Bernard Mandevil (1670 - 1733), trong Bài ngụ ngôn về những con ong, đã cho rằng
đôi khi từ những thói xấu của các cá nhân đầy nghịch lý lại sản sinh ra lợi ích
xã hội, tức là những hành động có ý thức (những hành vi mang tính ý hướng) của
họ lại mang đến những kết quả phi ý hướng đầy bất ngờ. Theo Hayek, phát hiện
quan trọng đó đã chỉ ra mức độ nguy hiểm của những tranh giành giả hợp lý nhằm
đưa ra những dự báo và những kế hoạch xã hội hoành tráng. Quan niệm coi con người vốn tự tạo ra các thiết
chế xã hội nên cũng có khả năng thay đổi chúng theo ý thích của mình luôn ẩn chứa
trong đó một sự quyến rũ gắn với sự đánh giá thấp sức mạnh của riêng mình.
Chúng tôi cho rằng, trong xã hội có những quy luật mà con người không thể thay
đổi được sự tác động của chúng, nhưng dựa vào chúng, con người có thể dần thay
đổi các thiết chế xã hội.
Đúng là, các
sự kiện xã hội luôn là sản phẩm hành động của con người. Tuy nhiên, cũng rất
đúng là, các hành động đó còn xa mới luôn được sinh ra từ những dự án được lập
ra một cách có ý thức. Chúng ta cần phải đồng ý rằng, những người theo chủ thuyết
Đêcáctơ, cũng như các nhà Khai sáng và thực chứng đều là những nhà kiến thiết
luận; và họ không chỉ sử dụng lý tính, mà còn nhiều khi lạm dụng nó. Hayek đã
phê phán cả thầy mình là Gans Kenzen đã coi pháp quyền là “một kết cấu bất định
nhằm phục vụ những mục đích hoàn toàn xác định”. Chủ nghĩa kiến thiết, giống
như một thứ bệnh truyền nhiễm, đã làm thương tổn nhiều môn khoa học và các trào
lưu tư tưởng, mà ví dụ rõ nhất trong số đó là chủ nghĩa xã hội.
Theo Hayek,
nhiệm vụ chủ yếu của các khoa học xã hội là phân tích những hậu quả không ý thức
được từ những hành vi tự giác của con người. Khi có những mục đích tự giác, và
dự án rốt cuộc được thực hiện, thì không còn vấn đề gì cho khoa học nữa. Con
người chỉ bị đặt trước những vấn đề khoa học nghiêm túc đòi hỏi phải giải quyết,
khi xuất hiện kiểu trật tự (hoặc mất trật tự) mà không ai đạt tới nó một cách
có ý thức.
3. Vì sao bất kỳ sự kế hoạch hóa tập trung nào cũng đều có khuyết
tật
Theo Hayek,
ngay từ đầu, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã bị nhiễm nặng phong cách kiến thiết
luận. Kế hoạch hóa là một trong những hệ quả rõ nhất của chủ nghĩa duy lý duy
khoa học (cực đoan). Nhưng, liệu có thể tính hết các tập hợp gần như vô hạn dữ
kiện lý luận và thực tiễn, các bối cảnh thời điểm và địa điểm, khi vạch kế hoạch
cho tương lai? Trong tác phẩm Sự sử dụng mang tính xã hội của xã hội, Hayek viết:
“Người thợ máy, người chủ phương tiện giao thông, người bán hàng, nhân viên bất
động sản, tất cả các chức năng của họ - đều dựa trên tri thức về những hoàn cảnh
gắn liền với thời điểm đang biến mất, mà những người khác không hay biết gì về
chúng”(1).
Rõ ràng là,
để ra quyết định đúng đắn, tất yếu phải biết tình huống. Điều đó có nghĩa là,
việc xác định những mục tiêu cuối cùng phải thuộc về người nắm được sự thay đổi
của tình huống. Và, chỉ trong các điều kiện của nền kinh tế phi tập trung hóa,
người ta mới có thể sử dụng tốt nhất những hiểu biết cụ thể của từng người
trong số triệu triệu người. Chỉ có trong điều kiện tri thức phân tán, chứ không
phải là tập trung, thì giá cả mới có thể phối hợp một cách hiện thực những nỗ lực
của hàng triệu con người bị phân tán. Vì thế, giá cả đã và mãi sẽ còn là cơ chế
thu nhận hiệu quả nhất nguồn thông tin đáng quan tâm: đòi hỏi loại sản phẩm
nào, những nguyên liệu nào đã cạn kiệt, phương tiện sản xuất nào kinh tế nhất,...
Hơn thế nữa,
nếu việc giải quyết vấn đề phụ thuộc vào sự sử dụng tốt nhất tri thức, thì điều
đó có nghĩa là, chúng ta có thể thử phương thức bất kỳ từ số vô hạn những
phương thức tạo ra sản phẩm để chọn ra phương thức tốt nhất. Hayek nhấn mạnh, từ
đó suy ra, chính cạnh tranh đã mở ra trong thế giới khoa học, sản xuất và kinh
doanh con đường dẫn đến cái mới.
Bây giờ,
chúng ta thấy rằng, tự do sinh ra từ sự vô học của chính chúng ta. Trong Xã hội
tự do, Hayek viết: Tri thức phải được phân phối cho hàng triệu con người. Mỗi
người chúng ta biết không nhiều, song việc giải quyết vấn đề lại đòi hỏi nhiều
ý tưởng và sự kiểm tra có phê phán từng ý tưởng một. Do vậy, từng người tự do sử
dụng những tri thức của mình, những năng lực sáng tạo và phê phán, và hãy chuẩn
bị sẵn sàng phê phán và hợp tác với những người khác. “Tự do là cái tối cần thiết
để dành chỗ cho cái không thấy và không dự báo được trước, chúng ta cần tự do,
bởi chính từ nó mới sinh ra các khả năng đạt tới nhiều mục đích của chúng
ta”(2).
4. Ai nắm phương tiện, kẻ đó quyết định mục đích
Tự do của
chúng ta dựa trên sự thiếu tri thức. “Cho dù con người có biết hết mọi thứ, thì
cũng chưa chắc đã nói được gì có lợi cho tự do”(3). Trên thực tế, đường về nô lệ
rải đầy quả cây kiêu ngạo của lý tính – các kế hoạch, các nghị quyết, các ủy
ban. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo - những người xã hội chủ nghĩa không thường
xuyên nhớ đến những câu ngạn ngữ dân gian, như những ý định tốt đẹp đều dẫn đến
địa ngục. Họ không muốn tính đến dữ kiện, con người không phải là chủ nhân số
phận của mình và không bao giờ có thể trở thành như vậy.
Các nhà xã hội
chủ nghĩa cấm sở hữu tư nhân, chuyển giao mọi tư liệu sản xuất vào tay một số,
thậm chí một người cầm quyền. Nhưng, như Hayek đã viết trong Đường về nô lệ, vì
sự kiểm soát kinh tế không đơn giản là sự kiểm soát khu vực đời sống xã hội
riêng rẽ. Đó là sự kiểm soát các phương tiện để đạt được tất cả các mục đích của
chúng ta. Từ đó, Hayek kết luận: Mọi hình thức kiểm soát kinh tế luôn được lan
tỏa như là quyền lực trên các mục đích. Viết cuốn sách này vào lúc chiến tranh
thế giới lần thứ hai đang diễn ra ác liệt ở châu Âu, Hayek đã cùng lúc nhắm (đạt)
tới ba mục đích: chống lại nền kinh tế tập trung quan liêu ở Liên Xô xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế quân sự hóa cao độ ở nước Đức Hitler và biện minh cho chủ
nghĩa tư bản tự do hóa Anh – Mỹ.
5. Chống lại việc pha trộn luật pháp với lập pháp
Vậy, liệu có
thể bảo vệ tự do của con người được không? Hayek trả lời là có thể, nếu chúng
ta chia tay thói kiêu ngạo kiến thiết luận và học lấy cách phân tách các chuẩn
mực (luật pháp) trừu tượng với những mệnh lệnh - chỉ huy đặc thù. Các luật pháp
với tư cách những chuẩn mực trừu tượng ghi dấu những ranh giới mà trong đó, mỗi
người chúng ta đều có một lĩnh vực tính tích cực tự do chắc chắn. Luật pháp với
tư cách bộ quy tắc hành xử cũng giống như ngôn từ hay tiền tệ, xuất hiện một
cách gián đoạn. Các quy tắc đó không được ai thiết kế, vì thế mà luật pháp như
là sự chỉ huy không hướng đến các cá nhân, không biểu thị những mục đích cụ thể.
Luật pháp được biết từ trước và được xác định cho tất cả, không trừ một ai. Các
luật đều có tính chất phổ biến trừu tượng. Có thể dẫn ra làm ví dụ 3 quy luật của
Hium: tính ổn định của sở hữu, sự chuyển giao các quyền theo thỏa ước cùng nhau
và thực hiện không chậm chễ thỏa thuận. Những mệnh lệnh đặc thù cấu thành tình
trạng luật pháp đều có tính chất hành chính, được thông qua bởi đa số trong nghị
viện và hướng đến thỏa mãn những lợi ích riêng.
Việc lẫn lộn
(hòa trộn) các luật với những thiết định lập pháp không đơn giản chỉ là sai lầm.
Nơi nào mà quyền lực của các nghị viên không bị giới hạn bằng bất kỳ cái gì và
mỗi người hiểu công bằng xã hội theo cách của mình, thì tự do sẽ bị đe dọa.
Hayek viết: “Phần lớn mọi người thay đổi luật pháp mà không có bất kỳ ý tưởng
nào hơn. Từ luật pháp phổ quát, họ biến thành chuẩn mực tạm thời nhân danh công
bằng xã hội nhằm phục vụ cho những lợi ích cá nhân! Công bằng xã hội biến thành
chiếc gậy cổ tích thần kỳ: Không ai biết công bằng là gì, ở đâu! Mọi nhóm đều
cho mình cái quyền đòi ở chính phủ những đặc lợi riêng. Trong hiện thực, đằng
sau ngôn từ “công bằng xã hội” cũng chỉ có những hạt giống hy vọng sự hào phóng
của các nhà lập pháp làm lợi cho những nhóm nhất định được gieo vào ý thức các
cử tri. Các nhà chính trị làm điều đó càng hữu ý khi sự phân phối đặc quyền
càng tương ứng hơn với số phiếu bầu cho họ”(4).
Không ngạc
nhiên là, niềm tin vào những lý tưởng dân chủ đang chết dần, chết mòn. Nền dân
chủ thoái hóa thành chuyên chính của số đông và thành sự toàn quyền của những kẻ
ban hành những mệnh lệnh ngày càng mới. Thế nhưng, “chủ quyền của luật pháp và
chủ quyền của nghị viện vô biên vẫn còn mãi là những thứ không đội trời chung”.
Để tuân thủ khoảng cách giữa trật tự gián đoạn của luật pháp với trật tự được
xác lập bởi tình hình lập pháp, Hayek đề xuất tư tưởng về hai thể chế hiến pháp
– hội lập pháp (bảo vệ tự do của các cá nhân, nó được phép thay đổi chỉ khi thật
cần thiết phải có những chuẩn mực trừu tượng) và quyền lực hành pháp – nghị viện
được dân chúng bầu lại theo chu kỳ.
6. Chủ nghĩa tự do và việc bảo vệ những người yếu thế
Những lập luận
nêu trên về lôgíc của thị trường và công bằng xã hội thật thú vị để biết Hayek
đã suy tư gì về lập trường của nhà nước trong vấn đề an sinh xã hội đối với
nhóm người yếu thế. Ông chống lại độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực tài
chính, trường học và giáo dục, phát thanh, truyền hình và bưu chính. Ông viết
trong Luật pháp, lập pháp và tự do rằng, trong một xã hội phát triển, nhà nước
cần phải sử dụng quyền lực để hỗ trợ cho những lĩnh vực và khu vực dịch vụ mà
do những nguyên nhân khác nhau, không thể được đảm bảo bởi cơ chế thị trường:
các đơn vị tiêu chuẩn, bản đồ, thống kê, kiểm soát chất lượng các hàng hóa và dịch
vụ được cung cấp, đường xá...(5).
Các cơ quan
nhà nước cần chú ý đến các phương tiện đảm bảo sự tôn trọng và thực thi pháp luật,
quan hệ quốc tế, bảo vệ trước kẻ thù ngoại bang, đấu tranh với thiên tai và còn
nhiều việc khác nữa. Đồng thời, không thể không ghi nhận tầm quan trọng đặc biệt
trong nhận xét đó của Hayek - trong vùng mạo hiểm còn có vô số người mà sự cần
thiết phải giúp đỡ họ mới chỉ được thừa nhận cách đây không lâu. Những bất hạnh
của họ là kết quả của sự tan rã những mối liên hệ xã hội địa phương trong quá
trình hình thành xã hội mở và năng động. Trẻ em, người già, người tàn tật, bệnh
nhân, cô nhi, quả phụ do đặc tính dễ bị tổn thương của mình mà không thể vượt
qua những điều kiện khắc nghiệt của thị trường. Vì thế, nhà nước khi đã đạt tới
một trình độ phồn vinh nhất định phải có trách nhiệm giúp đỡ họ.(4)
Xã hội có khả
năng trợ giúp, một khi nó đủ giàu có, chứ không phải vì cơ chế thị trường đòi hỏi
sự chỉnh trang lại. Đảm bảo đời sống tối thiểu xứng đáng cho tất cả và cho từng
người ở mức mà thấp hơn nữa là không được phép – đó không chỉ là sự bảo vệ hợp
pháp tuyệt đối nhằm chống lại sự mạo hiểm mà tất cả đều có thể rơi vào, mà còn
là nhiệm vụ của toàn thể cộng đồng, nơi không ai được phép giải quyết những vấn
đề của mình trên sự đau khổ, bất hạnh của nhóm người yếu thế và không được bảo
vệ. Hayek khép lại tư tưởng của mình rằng, trên thực tế, hệ thống nào mà từ chối
giải quyết nhiệm vụ bảo hiểm và an sinh xã hội thì sớm muộn gì, cũng sinh ra sự
bất bình và phản ứng của dân cư, và những ai mà ngay từ đầu, đã tận hưởng những
phúc lợi chung thì khi bệnh tật hay già yếu, tất sẽ rơi vào cảnh bần hàn, trắng
tay.
Cùng với đó,
Hayek viết rằng, “chủ nghĩa xã hội đã tập nhiễm cho nhiều người một thói quen
là có thể đưa ra các quyền không phụ thuộc vào vai trò của mình, cũng như sự
tham gia của mình vào việc duy trì hệ thống. Về bản chất, những người xã hội chủ
nghĩa, nếu liếc nhìn từ giác độ các chuẩn mực đạo đức, đã tạo ra trật tự văn
minh mở rộng, đã kích thích người ta vi phạm pháp luật.
Những người
luôn yêu sách theo cái cớ về “sự tha hóa” của mình với cái mà hẳn là họ cũng
không có hình dung đúng đắn là gì, những người thích sống như những kẻ đói
khát, lười biếng và sống nhờ thành quả của quá trình mà họ không cách nào góp sức
- đó là những kẻ đích thực về phe với lời kêu gọi của Russo quay trở về với
thiên nhiên. Họ tuyên bố nguồn gốc chủ yếu của cái ác là những thiết chế đã làm
cho sự hình thành trật tự tương tác con người thành có thể.
Tôi không
nghi ngờ gì về quyền của con người bất kỳ tự nguyện rời bỏ nền văn minh. Nhưng,
những người đó “có quyền” gì chứ? Chúng ta có cần phải tài trợ cho sự ẩn dật của
họ hay không? Không ai có đủ cơ sở để đòi được không tuân thủ những quy tắc vốn
đã là chỗ dựa cho nền văn minh. Chúng ta có thể giúp đỡ những người yếu thế và
không mạnh mẽ, trẻ em và người già, nhưng với một điều kiện: những người trưởng
thành có lý trí cần phải tuân thủ kỷ luật phi cá tính – cái vốn mang lại cho
chúng ta khả năng như thế.
Hoàn toàn là
không đúng, khi cho những sai lầm như thế là cố hữu ở giới trẻ. Trẻ em được
sinh ra bởi những người cha – những trí tuệ điển hình tuyên truyền từ các bộ
môn tâm lý học và xã hội học giáo dục (vốn đào tạo ra chúng), - mà những tuyên
truyền đó là những bản sao nhạt nhòa từ các học thuyết của Russo và Mác, Freud
và Kenis – những học thuyết đã thẩm thấu qua trí tuệ những người có lòng mong
muốn dài rộng hơn nhiều so với sự hiểu biết”(6).
Nhìn lại diễn
biến chính trị thế giới vài thập kỷ gần đây có thể thấy, những môn đồ hiện tại
của chủ nghĩa tự do cổ điển thường đưa ra luận điểm bảo vệ nhà nước tối thiểu
(minimal government) dựa trên một nền tảng đạo đức tối thiểu. Ví dụ, tính hợp
lý của chính phủ tối thiểu được chứng minh thông qua sự thịnh vượng mà các nền
kinh tế đạt được khi không bị chính phủ can thiệp. Lập luận này xuất phát từ ý
tưởng của Adam Smith và phần nào cũng được thể hiện trong quan điểm của Hayek.
Tuy nhiên, khác với họ, về cơ bản, Hayek lại có khuynh hướng cho rằng, chủ
nghĩa tự do chính trị dựa trên chủ nghĩa bảo thủ về văn hóa. Do vậy, chủ nghĩa
tự do của Hayek thường thiên về bảo vệ nhà nước tối thiểu bằng cách chỉ ra tính
chất xấu xa của bộ máy nhà nước trong việc cưỡng bức và sự tương phản rõ rệt của
những tác động tiêu cực, nếu chỉ sử dụng đàn áp và sức mạnh bạo lực. Từ đó, ông
đã luận chứng và tuyên truyền mạnh mẽ cho những tác động tích cực từ sự hợp tác
tự nguyện.
(*) Phó giáo
sư, tiến sĩ, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
([1]) Dẫn
theo: G.Reale./D.Antiseri. Triết học phương Tây từ cội nguồn đến ngày nay (gồm
4 tập), t.4. Nxb Petropolic, Xanh Peterburg, 1997, tr.609 (tiếng Nga).
(2) Dẫn
theo: G.Reale./D.Antiseri. Sđd., tr.610.
(3) Dẫn
theo: G.Reale./D.Antiseri. Sđd., tr.610.
(4) Dẫn
theo: G.Reale./D.Antiseri. Sđd., tr.611.
(5) Dẫn
theo: G.Reale./D.Antiseri. Sđd., tr.612.
(6)
F.A.Hayek. Sự quá tự tin tai hại. Nxb Tin tức, Mátxcơva, 1992, tr.259 – 260 (tiếng
Nga).
Nguồn:http://vientriethoc.vass.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspxUrlListProcess=/noidung/Tapchi/Lists/tapchisomoi&ListId=01f18e69-9b8d-41eb-a9d0-183bd4a6f1ad&SiteId=0deeff8f-095a-47bd-9a59-bfcd40a24a5b&ItemID=92&SiteRootID=d94512ba-2c5f-44a6-b326-332267239747