Clarence B.
Carson
Phạm Nguyên Trường dịch
Hiện nay người ta dễ dàng đồng ý rằng
chủ nghĩa cá nhân ở Mĩ đã gặp chuyện gì đó chẳng lành. Mọi người đều nói rằng
thái độ phục tùng đã trở thành đức hạnh cao nhất và cá nhân bị hi sinh cho tập
thể. Từ sau Thế chiến II đã có một đống sách vở trình bày chi tiết luận đề nay.
William H. Whyte, trong tác phẩmThe Organization Man[1], khẳng
định rằng ngay cả người phát ngôn quyền lực nhất của chủ nghĩa cá nhân cũng sử
dụng ngôn từ của chủ nghĩa tập thể nhằm “ngăn chặn ý nghĩ cho rằng chính anh ta
cũng ở trong cái tập thể đang lan tràn khắp nơi mà những nhà cải cách, các nhà
trí thức từng mơ ước và những quan niệm không tưởng mà anh ta từng cảnh báo”. David
Riesman và các cộng sự, trong tác phẩm The Lonely Crowd, kể lại
chi tiết quá trình đánh mất tính tự chủ của người Mĩ và cho rằng đấy là do sự
thay đổi trong tính cách của người Mĩ, từ “hướng nội” sang “hướng về người
khác”. Erich Kahler, trong tác phẩm gần đây, tuyên bố: “Hiện nay chúng ta đang
chứng kiến và dấn sâu vào quá trình chuyển hóa con người vô cùng to lớn. Quá
trình chuyển hóa này dường như có xu hướng tạo ra con người vượt ra ngòai cá
nhân. Tuy nhiên, dễ nhận thấy những quá trình khác nhau của sự đổ vỡ hay mất
giá của con người cá nhân”[2].
Có rất nhiều sách báo chỉ ra sự tồn tại
và phân tích thái độ phục tùng rồi. Có tất cả các cung bậc, từ tiểu thuyết tới
chuyên luận dành cho đại chúng, từ nghiên cứu tâm lí học tới những tác phẩm
chuyên khảo về xã hội học, từ Người mặc áo vét xám (The Man
in the Gray Flannel Suit) tới Những người sống trong khu biệt
thự ngọai ô (The Exurbanites) tới Người thuyết
phục dấu mặt (The Hidden Persuaders) tới Dân tộc của
bầy cừu (A Nation of Sheep). Các bản báo cáo nói rằng sinh
viên là những người thụ động, rằng thanh niên tìm những vị trí an tòan trong
các công ty lớn, rằng người mua tìm nhà trong những khu ngọai ô với những dãy
nhà giống hệt nhau, rằng người ta thích được xã hội giúp đỡ hơn là di cư để tìm
công việc mới.
Bất kì người quan sát nhạy cảm nào
cũng thấy quần chúng ở Mĩ dễ bị lôi kéo, thao túng đến mức
nào. Hàng chục năm nay người Mĩ có xu hướng bị lôi cuốn vào những sự cuồng lọan
của đám đông, từ trò chơi MahJong tới lắc vòng (hula hoops), từ sung bái
những người hùng như Charles A. Lindbergh tới Elvis Presley, những bài hát và
ngôi sao ca nhạc rẻ tiền và đủ lọai mode sớm nở tối tàn khác. Trong hai mươi
năm gần đây, bộ máy tuyên truyền quốc gia rõ rang là có thể làm cho chúng ta
căm thù người Đức và người Ý, khinh người Nga, yêu người Phần Lan, kinh tởm người
Nhật, ôm chặt người Nga, coi thường người Phần Lan, hâm mộ người Đức, người Ý,
người Nhật và nghi ngờ người Nga…
Như tôi đã nói, nhiều người đồng ý là
ở Mĩ, chủ nghĩa cá nhân đã suy giảm một cách nhanh chóng. Nhưng sự đồng thuận
cũng chấm dứt ngay ở đây. Lí giải hiện tượng này cũng nhiều như số sách báo viết
về nó vậy. Một số người đưa ra giải thích được nhiều người công nhận, thí dụ
như công nghiệp hóa, đô thị hóa, không còn khu vực ngọai biên, và gia tăng dân
số. Một số khác thì nói rằng đấy là do sự phát triển của quảng cáo, của tuyên
truyền, của các phương tiện thông tin đại chúng, phương pháp giáo dục tiên tiến,
sự phát triển của các tập đòan, của chủ nghĩa công đòan, của quyền phổ thong đầu
phiếu, hay tình hình quốc tế căng thẳng. Chúng ta thường tỏ ra quá thận trọng
và chấp nhận ngay những chuyện khó tin. Những hiện tượng bên trên chắc chắn là
có ảnh hưởng tới thực tiễn của chủ nghĩa cá nhân ở Mĩ. Nhưng dù có xem xét
chúng một cách tách biệt hay phối hợp thì chúng cũng chỉ là triệu chứng chứ
không phải là nguyên nhân đủ sức gây ra hiện tượng đó. Chúng là phương
tiện làm lật nhào chủ nghĩa cá nhân chứ không phải mục đích mà
thay đổi gây ra.
Thuật ngữ làm người ra rối trí
Nguyên nhân chính làm chúng ta không
nhận ra được nguồn gốc của sự quay lưng lại với chủ nghĩa cá nhân ở Mĩ là do
chúng được xác định không dưới dạng chủ nghĩa cá nhân. Nhiều người tìm cách phá
họai cơ ngơi của chủ nghĩa cá nhân và thiết lập những cách hành xử phi cá nhân
chủ nghĩa lại làm điều đó dưới danh nghĩa người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa.
Họ có thể làm được chuyện đó một phần là vì họ là những người quảng bá và có thể
họat động trong bối cảnh của chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa phi lí và chủ nghĩa
lãng mạn đã bị rút hết ruột. Họ có thể sử dụng ngôn ngữ tù mù và không thấy cần
phải xác định rõ ràng mục đích của mình. Kết quả là họ có thể đánh bật được hầu
hết khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân mà chỉ gặp sự chống trả không đáng kể của
những người bảo vệ nó.
Nhiệm vụ tôi đặt ra ở đây là xác định
cả chủ nghĩa cá nhân lẫn những điều làm suy yếu nó. Đấy chỉ là bước đầu trên
con đường tìm hiểu những diễn biến đã từng xảy ra với chủ nghĩa cá nhân trong lịch
sử, nhưng là bước đi cần thiết. Sự diễn giải được rút ra từ sự phát triển trong
suốt chiều dài của lịch sử những tư tưởng này ở nước Mĩ.
Cá nhân như là đơn vị cơ bản
Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng hoặc là
tập hợp những tín điều về vai trò quan trọng tối thượng và chung
cuộc của cá nhân con người. Nghĩa là đấy là niềm tin cho rằng cá nhân
là đơn vị quan trọng nhất, từ đó mới sinh ra tất cả những đơn vị khác, dù đấy
có là những nhóm, những tập thể, những xã hội, nhà nước hay nền văn minh thì
cũng thế. Những người theo trường phái cá nhân chủ nghĩa thường cho rằng vì những
nhóm này đều là tập hợp của những cá nhân cho nên chúng tồn tại vì cá nhân con
người. Cá nhân là đơn vị chung cuộc theo nghĩa là những tập hợp này tồn tại là
để đáp ứng những khát vọng của cá nhân. Theo thần học, cá nhân là đơn vị cơ bản,
chính nó sẽ sống đời đời chứ không phải bất kì nhóm nào khác. Nhưng đơn vị
chung cuộc có thể là cụm từ phù hợp hơn bởi vì có cả những người cá nhân chủ
nghĩa theo phái nhân đạo hướng đến đời sống thế tục lẫn những người tin vào cuộc
đời bên kia thế giới này.
Tư tưởng hiện đại (hậu-Trung cổ) về
chủ nghĩa cá nhân tập trung sự chú ý vào tính độc nhất của cá nhân. Nguyên lí quan
trọng nhất của chủ nghĩa cá nhân là sự khác biệt, tính độc nhất của cá nhân này
so với cá nhân kia, và đấy chính là giá trị thật sự của từng cá nhân. Tài năng,
nhu cầu, quyền lợi, mục tiêu, tài sản đặc biệt của từng người là cái làm cho
người đó khác biệt với những người khác và làm cho anh ta trở thành có giá trị
đến như thế. Tất cả những gì chung với những người khác chỉ có thể giúp làm cho
anh ta lẫn vào đám đông vô bản sắc mà thôi. Con người riêng biệt của anh ta, khả
năng sáng tạo của anh ta, cuộc sống đầy ý nghĩa của anh ta, tất cả những điều
đó đều có nguồn gốc và xuất phát từ sự độc đáo của anh ta.
Không gian cho sự phát triển
Không gian cho sự phát triển tính độc
đáo của cá nhân là yêu cầu xã hội quan trọng nhất của chủ nghĩa cá nhân. Nhiều
tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa cá nhân có xuất xứ từ nhu cầu này. Ví dụ, tự
do là điều kiện thiết yếu (sine qua non) của chủ nghĩa
cá nhân, cũng như cưỡng bức là kẻ thù không đội trời chung của nó. Cá nhân phải
được tự do quyết định mục đích của mình, tự do tìm cách thỏa mãn nhu cầu của
mình, tự do kết hợp hoặc không kết hợp với những người khác trong khi theo đuổi
mục tiêu của mình.
Điều đó không có nghĩa là người ta phải
lát đường cho anh ta đi hay anh ta sẽ được thỏa mãn nếu những người khác quan
tâm giúp đỡ anh ta. Đúng hơn, cá nhân cần xã hội; trong xã hội đó, anh ta phải
tự mình lo liệu cho nhu cầu của mình, tự do theo đuổi những mục tiêu của mình,
có cơ hội được tưởng thưởng khi thể hiện tiềm năng của mình, các mối quan hệ
trong đó đều tự nguyện và vũ lực được giữ ở mức tối thiểu. Đấy là quyền tự do
mà những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa thế kỉ XIX nghĩ là thích hợp cho sự
phát triển của họ.
Trách nhiệm tương ứng
Quyền tự do như thế sẽ làm cho xã hội
trở thành khó khăn nếu không có sự phát triển tương ứng trách nhiệm của
cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là lí thuyết xã hội và
nhiều người biện hộ cho nó cho rằng trách nhiệm cá nhân là yêu cầu chủ yếu cho
việc thực thi nó trong xã hội. Sẽ hợp lí, nếu cá nhân được tự do phát triển khả
năng của mình thì anh ta cũng phải có trách nhiệm trước những hậu quả của sự
phát triển đó và phải chịu trách nhiệm về họat động của mình.
Hệ quả tất yếu khác là quyền tự do của
cá nhân chấm dứt nơi quyền tự do của cá nhân khác bắt đầu. Khi nguyên tắc này
được áp dụng cho quyền sở hữu thì nó có nghĩa là luật bảo vệ tài sản của một
người khỏi sự xâm phạm của người khác cũng ngăn chặn, không cho anh ta xâm phạm
tài sản của người khác. Nói một cách lí tưởng, sẽ là tốt hơn nếu cá nhân có nhận
thức vững chắc về trách nhiệm trước những hành động của mình. Nhưng nếu cá nhân
không làm được như thế, đã có thời người ta cho rằng xã hội phải thực hiện chức
năng có ích, đấy là buộc cá nhân phải chịu trách nhiệm khi anh ta vi phạm quyền
của những cá nhân khác. Trừng phạt một người vì xâm phạm vào lĩnh vực của người
khác vẫn thuộc về chủ nghĩa cá nhân. Nhưng mặt khác, lọai bỏ cơ hội cho sự xâm
phạm như thế không còn thuộc về chủ nghĩa cá nhân nữa, đấy dường như là kết quả
của sự hạn chế tự do.
Tự do lựa chọn
Chủ nghĩa cá nhân, tự do, trách nhiệm
là những tiền đề nền tảng triết lí của niềm tin vào quyền tự do ý chí,
và niềm tin vào tự do lựa chọn là việc làm khả thi. Buộc cá nhân phải chịu
trách nhiệm cho hành vi mà anh ta không khởi sự là sai. Nói theo lối tích cực
thì đấy là tiền đề cho rằng người khởi xướng hành động phải chịu trách nhiệm
trước những hậu quả của nó. Sự kiên định mang tính logic đòi hỏi rằng nếu một
người phải chịu trách nhiệm vì một hành động nào đó thì anh ta phải khởi sự
hành động đó bằng cách hoặc là lựa chọn, không lựa chọn do lơ là hoặc ít nhất
là trong trường hợp đó lựa chọn là khả thi. Một khi đã công nhận quy luật
tất yếu hay thuyết định mệnh thì nền tảng của trách nhiệm cá nhân đã không còn
và đối trọng của tự do (tức là trách nhiệm – ND) đã bị phá hủy.
Niềm tin vào chủ nghĩa cá nhân, tức
là tư tưởng phát triển trong thế kỉ XIX, được xây dựng trên nền tảng cho rằng lựa
chọn đóng vai trò trong qúa trình phát triển của con người thì không được rõ
ràng như thế. Theo cách giải thích này, tính độc đáo của cá nhân là kết quả của
những lựa chọn anh ta làm mỗi ngày, chính những lựa chọn đó dẫn tới hoặc là sự
thể hiện của con người cá nhân hay sự thất bại của anh ta. Vì vậy mà điều kiện
chung cuộc hay điều kiện căn bản cho sự hình thành cá nhân phụ thuộc vào những lựa
chọn của anh ta.
Một khi lựa chọn tự do không còn là
tác nhân đầu tiên để người ta đánh giá vị trí hay hành động của một người thì sẽ
khó bảo vệ được quyền tự do trên thực tế. Nếu, thí dụ, lựa chọn không còn đóng
vai trò hàng đầu trong việc tạo ra sự bất bình đẳng giữa người với người thì
khó hóa giải những bất bình đẳng đó với ý thức về sự công bằng của chúng ta. Những
người được nhận ít không phải họ thất bại mà do sự sắp đặt từ trước. Ngòai ra,
nếu người ta phải hành động do quy luật tất yếu thì tự do không còn có ý nghĩa
tối thượng nữa; nó chỉ còn có vai trò chủ yếu là giữ một phần dân chúng bên
ngòai nhà tù mà thôi, vì người ta không thể hành động khác với những hành động
mà họ đang làm. Đấy là tự do do xã hội cho phép, có khả năng là nó dựa trên tính
tóan về ước muốn của con người và khả năng thực tế của việc ngăn cản một số người
trong số họ, không cho những người này cơ hội thực hiện ước mơ của mình. Nói ngắn,
tự do rút lại chỉ còn là cho phép làm điều có thể làm.
Tóm lại, những nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa cá nhân là: tin vào giá trị tối thượng và chung
cuộc của cá nhân con người, nhấn mạnh tính duy nhất trong mỗi con người,
khẳng định quyền tự do cho sự thể hiện của mỗi cá nhân, trách nhiệm cá nhân và
tự do ý chí. Những nguyên lí đó tạo thành nền tảng của những tư tưởng thiết yếu
của chủ nghĩa cá nhân. Trong thời hiện đại, chúng được những tư tưởng khác nhau
như chủ nghĩa duy danh, chủ nghĩa duy lí, ý chí luận và chủ nghĩa lí tưởng ủng
hộ. Trong xã hội Mĩ (và một số nước châu Âu), những tư tưởng đi kèm với chủ
nghĩa cá nhân đã được khớp nối với những định chế và thực tiễn như chính phủ hiến
định, còn Luật nhân quyền (Bill of Rights) thì thiết lập khu vực tư bằng cách hạn
chế những hành động của chính phủ, quyền sở hữu tư nhân, bãi bỏ những qui định
của xã hội về quyền thừa kế (bãi bỏ quyền trưởng nam và theo thứ tự), thương mại
tự do, tự do tham gia tôn giáo, tự do lựa chọn bạn đời, hiệp hội tư nhân hoặc
hiệp hội tự nguyện để làm công việc từ thiện..v.v…
Trong vòng 70 đến 80 năm qua, chủ
nghĩa cá nhân đã và đang đánh mất dần ảnh hưởng đối với người Mĩ – lúc nhanh
lúc chậm khác nhau. Sự mất mát này được thể hiện một cách đơn giản như là nhu cầu
thành lập ủy ban, thiết lập các qũy hay định chế, công ty, tổ chức câu lạc bộ
hay phong trào - khi khởi động bất kì công việc gì, không phụ thuộc vào tính chất
và sự phức tạp của nó. Nó biểu hiện rõ trong việc giao cho chính phủ quá nhiều
trách nhiệm và sự gia tăng đáng kể các luật lệ và qui định nhằm quản lí đời sống
của chúng ta. Nó còn thể hiện trong việc cắt xén quyền kiểm soát của cá nhân đối
với công việc của anh ta (người sử dụng lạo động buộc nhân viên phải đóng bảo
hiểm y tế, còn chính phủ thì buộc phải đóng bảo hiểm xã hội), trong việc cha mẹ
mất trách nhiệm và kiểm soát con cái, trong việc tuyên truyền và kiểm tra tín
ngưỡng của chính phủ.
Con người và tư tưởng
Đương nhiên là hòan cảnh có tạo điều
kiện cho người ta xa lánh chủ nghĩa cá nhân, nhưng hòan cảnh không thể quyết định
phương hướng hay dẫn chúng ta đi theo hướng mà chúng tự đặt ra cho mình. Đấy là
vai trò của con người và tư tưởng, hay của những người chịu ảnh hưởng của tư tưởng.
Đấy là xu hướng xác định và được hình thành trên cơ sở của những tư tưởng hòan
tòan xác định. Chúng ta khó nhận ra chúng vì những người ủng hộ cho những thay
đổi này dùng những cái tên khác nhau, và những phương tiện mà họ đề xuất nhằm
tiến đến mục đích chung cũng khác nhau. Những người này đã và đang triệt tiêu
chủ nghĩa cá nhân và cấy một đặc tính khác vào nước Mĩ. Sau đây là những từ thường
được sử dụng theo nghĩa trái ngược với chủ nghĩa cá nhân: chủ nghĩa tập thể, chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và tôi ngờ rằng cả từ chế độ dân chủ nữa, mặc
dù việc đưa từ này vào sẽ bị nhiều người phản đối một cách dữ dội. Lester Frank
Ward đề xuất từ chính quyền xã hội (sociocracy) nhưng không được nhiều người chấp
nhận. Những từ thường được sử dụng hoặc là quá mù mờ, quá chuyên môn hay mang nặng
cảm tính. Tôi muốn sử dụng một từ đã được nhiều người chấp nhận nhằm mô tả đặc
tính được dùng thay cho chủ nghĩa cá nhân. Đấy là từ cộng đồng chủ nghĩa
(communism).
Cộng đồng chủ nghĩa (communism) chỉ
khác từ cộng sản chủ nghĩa (communism) có một chữ, tuy nhiên nó khá thích hợp đối
với mục đích mô tả của chúng ta. Nó hàm ý mục đích hay mục tiêu của đặc tính
này, trái ngược hẳn với chủ nghĩa cá nhân và thể hiện được những phương tiện nhắm
tới mục đích này. Chủ nghĩa cộng đồng tập trung chú ý vào nhu cầu chung, quyền
lợi chung và mục tiêu chung của nhân lọai, chứ không chú ý vào những khác biệt
giữa người nọ và người kia. Thí dụ, tất cả mọi người đều có chung một số ham muốn
như thức ăn, sự ấm áp và được người ta chú ý. Những người theo phái cộng đồng
muốn tổ chức xã hội để có thể cung cấp tất cả những thứ đó cho mọi người một
cách hiệu quả.
Chủ nghĩa cộng đồng là niềm tin rằng
cá nhân tìm thấy tính cách của mình từ sự tương đồng, tìm thấy lẽ sống của mình
từ trong xã hội. Chủ nghĩa cộng đồng ngấm ngầm, nhưng đôi khi công khai, là
quan niệm cho rằng cá nhân sống vì xã hội. Người theo chủ nghĩa cộng đồng cảm
thấy thỏai mái với những thuật ngữ và mạnh đề như lòai người, phúc
lợi chung, nhân lọai, nhân dân, lợi ích
chungvà tình huynh đệ giữa người với người, anh ta có xu hướng
giải thích tất cả những thuật ngữ này theo kiểu các nhu cầu và ước muốn được mọi
người chia sẻ. Đối với người theo phái cộng đồng thì nhóm, tập thể, nhà nước,
xã hội và nhân lọai sẽ tồn tại mãi, trong khi cá nhân chấm dứt cùng với cái chết.
Cá nhân chỉ có ý nghĩa khi là thành viên của tập thể mà thôi. Những quyền và đặc
quyền mà anh ta có là từ tập thể và chỉ tồn tại khi anh ta còn thành viên của tập
thể. Người theo chủ nghĩa cộng đồng đương đại thường không công nhận bất cứ thứ
gì bên ngòai tập thể - nhân lọai, lòai người, thịnh vượng chung – mà anh ta hướng
tới. Khi nhân dân nói thì đấy chính là tiếng nói cuối cùng.
Người theo phái cộng đồng có thể không
phải là người tin hòan tòan vào thuyết định mệnh, mặc dù anh ta thường là người
như thế, nhưng anh ta thường coi di truyền và môi trường có vai trò ưu trội
trong việc giải thích hành vi và sự khác biệt giữa người với người. Thuật ngữ
mà anh ta dùng để định danh quan điểm của mình có thể khác nhau – thuyết định mệnh
về kinh tế, môi trường luận, định mệnh về tâm lí – nhưng tin rằng không cần
tính đến lựa chọn trong việc giải thích hành vi của con người là điều không hề
xa lạ với anh ta. Anh ta công nhận trách nhiệm chung cho tất cả những việc xảy
ra và tuyên bố rằng mỗi người chúng ta phải có trách nhiệm cho tất cả mọi người
chúng ta.
Hai điểm nhìn tham chiếu
Chủ nghĩa cá nhân đối đầu với chủ
nghĩa cộng đồng – có thể xem xét những thay đổi và xung đột trong lịch sử gần
đây của nước Mĩ giữa thái hai cực mà hai thuật ngữ này đại diện. Hai thuật ngữ
này có thể không bao trùm tất cả những sự kiện đã xảy ra, nhưng chúng bao trùm
lên nhiều sự kiện đủ để thấy rõ sự phát triển trong những năm gần đây. Nó thể
hiện những xung đột trong quốc hội, trong những quyết định đầy khó khăn của tổng
thống, trong việc đưa xu hướng hành động của tòa án vào bối cảnh. Sẽ không quá
khi nói rằng những cuộc tranh cãi chủ yếu của các cơ quan lập pháp và luật pháp
trong suốt 70 năm qua – tranh cãi về luật chống độc quyền, thành lập cơ quan
thi hành luật pháp, luật chống gián điệp và bạo lọan, động viên cho chiến
tranh, phương tiện chống suy thóai, quy định về lao động có tổ chức – là những
biểu hiện của cuộc xung đột giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cộng đồng.
Cuộc chiến giữa những người cải cách
và những người bảo thủ cũng có thể được xem xét dưới anh sáng của cuộc xung đột
này. Những người cải cách muốn định chế hóa chủ nghĩa cộng đồng, còn những người
bảo thủ thì thường bảo vệ những định chế mang tính cá nhân chủ nghĩa trước đây
– dù nhà cải cách có là Theodore Roosevelt hay nhân vật bảo thủ là Robert A.
Taft thì cũng thế. Dĩ nhiên là vấn đề không phải lúc nào cũng thật sự rõ ràng,
phương án thay thế không phải lúc nào cũng được nói tọac ra, nhưng thường thì đấy
chỉ là lựa chọn giữa những phương tiện nhằm đạt đến cùng một mục tiêu mà thôi.
Sự lan tỏa của chủ nghĩa công đòan, sự
phát triển của các tập đòan và công ty, sự tập quyền hóa quyền lực ở
Washington, bộ máy hành chính có mặt khắp nơi, việc gia tăng những chương trình
phúc lợi, quan niệm cho rằng xã hội phải chịu trách nhiệm về mọi thứ, từ giáo dục
cho tới nhà ở, chiến thắng của “học thuyết nguy hiểm rõ ràng và hiện tại” của
các tòa án, giao cho cảnh sát quyền hạn chế một số quyền tự do và dễ dàng luật
hóa những họat động được cho là nhắm đến phúc lợi chung của chính phủ là chỉ dấu
của thắng lợi của chủ nghĩa cộng đồng. Những người theo thuyết cá nhân chủ
nghĩa thực hiện những hành động khi tinh thần tự nguyện được bảo tòan, khi tự
do cá nhân được giữ lại, khi quyền sở hữu tư nhân được bảo tồn (mặc dù cuộc tấn
công chống lại quyền sở hữu tư nhân không trực tiếp bằng cuộc tấn công vào quyền
tự do cá nhân), khi hành động của chính phủ bị ngăn chặn, khi họ duy trì được
trách nhiệm và chức năng cho cá nhân.
Bước ngoặt
Trong nửa sau thế kỉ XIX, chủ nghĩa cộng
đồng bắt đầu có hình thù trong tư duy và trước tác của một số học giả Mĩ. Có thể
tìm thấy tư tưởng chủ đạo của nó trong tác phẩm xuất bản năm 1893 của nhà xã hội
học tên Lester Frank Ward:
“Cá nhân đã trị vì quá lâu rồi. Đã đến
lúc xã hội phải nắm lấy công việc của mình và định hình số phận của mình. Con
người cá nhân đã hành động tốt nhất theo khả năng của anh ta. Anh ta chỉ có thể
hành động theo cách của mình. Với ý thức, ý chí và trí tuệ của mình, anh ra
không thể làm gì khác hơn là theo đuổi những mục đích tự nhiên của mình. Không
thể tố cáo anh ta hay gọi bằng cái tên nào khác. Không thể phê phán anh ta.
Cũng không thể ca ngợi hay bắt chước anh ta. Xã hội nên học học bài học lớn của
mình từ anh ta, nên đi theo con đường mà anh ta đã làm để dẫn tới thành công.
Xã hội nên coi mình như một cá nhân, với tất cả những quyền lợi của một cá
nhân; và khi nhận thức rõ những quyền lợi đó, nó phải theo đuổi
quyền lợi với ý chí không gì lay chuyển được như thể cá nhân theo đuổi quyền lợi
của mình. Không chỉ có thế, xã hội phải được hướng dẫn, như cá nhân được hướng
dẫn, bởi trí thức xã hội, được trang bị bằng tất cả kiến thức
do tất cả các cá nhân tập hợp lại, với sức lao động, lòng nhiệt tình và tài
năng, tức là tất trí thông minh mà xã hội có”[3].
Henry George, Richard Ely, Henry
Demarest Lloyd, Edward Bellamy, Daniel De Leon, Eugene Debs, Thorstein Veblen,
Jack London và nhiều người khác phải được đưa vào danh sách những người khởi xướng
và truyền bá chủ nghĩa cộng đồng. Nó lại được những người xã hội, cộng sản, các
nhà báo của những tạp chí bình dân, những người thuyết giảng Phúc âm xã hội, những
người dân tộc chủ nghĩa, những nhà giáo dục và những người cấp tiến đủ mọi lọai
quảng bá nữa. Nó được phong trào “lương tâm xã hội” khuyến khích và những người
tự coi là người tự do tạo thành những định chế.
Dĩ nhiên là trong đa số trường hợp những
người theo phái cá nhân chủ nghĩa là nguyên nhân của xung đột rồi. Đầu thế kỉ
XX họ là những người nắm được quyền lực và có ảnh hưởng. Họ đã có thể tố cáo,
phỉnh phờ, chế nhạo và còn có thể ngược đãi những người đề xướng chủ nghĩa cộng
đồng nữa. Thậm chí như thế, ngọn triều vẫn quay sang hướng khác; nhiều người sử
dụng ngôn ngữ của chủ nghĩa tự do nhưng lại tham gia vào việc bảo vệ các tập
đòan, khuyến khích những dự án mang tính đế quốc chủ nghĩa, để vệ binh quốc gia
giải tán các công đòan và yêu cầu chính phủ giải quyết các vấn đề phát sinh. Những
đòn trí mạng của các cuộc chiến tranh và suy thóai trong thế kỉ XX đã làm nhiều
người không nhận ra được bản chất của những vụ xung đột về tư tưởng và những
người theo phái cộng đồng đã có sẵn những chương trình của họ rồi.
Chúng ta còn đang trong giai đọan
chuyển tiếp ồ ạt từ chủ nghĩa cá nhân sang chủ nghĩa cộng đồng – đấy là nói về
những định chế và thực tiễn. Nhưng sự thay đổi to lớn cho nó trong lĩnh vực tư
tưởng và niềm tin thì đã diễn ra rồi – nói về quần chúng thì điều này đã xảy ra
trong ba bốn thập kỉ đầu của thế kỉ này. Những tư tưởng của chủ nghĩa cộng đồng
đã trở thành sở hữu chung của người Mĩ vì chúng đã thấm vào văn học, ngôn ngữ,
bài thuyết giáo, bài giảng và tư tưởng của người tạo ra dư luận rồi.
Dr. Carson là giáo sư lịch sữ Mĩ tại Grove
City College, Pennsylvania.
Nguồn: http://phamnguyentruong.blogspot.com/2012/09/ban-ve-chu-nghia-ca-nhan-bai-5.html
[1] William H. Whyte, Jr., The
Organization Man (Garden City, N. Y.: George Braziller, 1957), p. 6.
[2] Erich Kahler, The Tower
and the Abyss (New York: George Braziller, 1957), p. xiii.
[3] Lester F. Ward,
"Sociocracy," American Thought: Civil War to World War
I, intro. by Perry Miller (New York: Holt, Rinehart & Winston, Inc., 1957),
pp. 11314