Tiếp (P1/2)
c. Luận điểm tự sở hữu
Nozick cố gắng để chứng minh về mặt
trực giác rằng chỉ có sự trao đổi trên thị trường tự do mới tôn trọng con người
như là những người bình đẳng. Để làm điều này Nozick phát triển "lý thuyết
công bằng dựa trên quyền". Để rõ ràng, chúng ta phải bắt đầu với điều được
gọi là luận điểm tự sở hữu của ông. Luận
điểm tự sở hữu của Nozick về cơ bản như thế này. 1) Mọi người sở hữu chính họ.
Điều này dựa trên trực giác mà Nozick cung cấp ở trên. 2) Thế giới và các đối
tượng của nó ban đầu không được sở hữu. 3) Ta có thể có được một quyền tuyệt đối
đối với một phần không cân xứng (chiếm hữu nhiều tài sản hơn) của thế giới nếu
điều này không làm khốn khó thêm điều kiện vật chất của người khác. Ngoài ra, vì
Nozick nghĩ mỗi rằng mỗi người sở hữu chính mình, nên mỗi người cũng sẽ sở hữu
tài năng của mình. Ông lập luận rằng điều này dẫn đến sự sở hữu các sản phẩm do
tài năng của mình tạo ra. Thực thể sở hữu và được sở hữu là cùng một, đó là con
người. Với điều này, Nozick hiểu cá nhân có các quyền sở hữu tuyệt đối đối với
chính mình, và hơn nữa, đó là quyền sở hữu tuyệt đối đối với các nguồn lực mà họ
có được. 4) Đó là tương đối dễ dàng để đạt được quyền sở hữu đối với một lượng
không cân xứng (sở hữu nhiều hơn người khác) đối với thế giới. 5) Vì vậy, một
khi sở hữu tư nhân là thích đáng, thì về mặt đạo đức một sự trao đổi tự do hàng
hóa và nguồn lực hoàn toàn được phép.
d. Tính riêng biệt của Con người
Một nhánh quan trọng có liên quan song
đi theo hướng khác trong suốt toàn bộ tác phẩm Vô chính phủ, Nhà nước và Không tưởng là "tính riêng biệt của
con người". Như đã nói trước đó, Nozick sử dụng Kant là một nguồn cảm hứng
và vay mượn ý tưởng của Kant là: cá nhân là các mục đích tự thân. Nhưng, để trở
thành "các mục đích tự thân" khác biệt, Kant cho rằng con người phải là
các thực thể riêng biệt. Ý tưởng là mỗi chúng ta là một cá nhân riêng biệt, có
một địa vị về mặt đạo đức. Một hàm ý của quan niệm cho rằng, cá nhân về mặt đạo
đức phục vụ cho lợi ích của các thực thể được co là rộng lớn hơn, chẳng hạn như
"xã hội", không thể được sử dụng để bảo chữa cho sự vi phạm đối với cá
nhân, với tư cách là con người. Hãy xem xét những gì thường được gọi là "lợi
ích chung". Nozick thách thức ý tưởng cho rằng các thực thể như vậy thực sự
tồn tại. Theo quan điểm của ông, chỉ có các
cá nhân đơn thuần, và lợi ích chung thực ra chỉ là lợi ích của những cá nhân
này cộng lại với nhau. Trong khi đúng là một số cá nhân có thể thực hiện việc
hy sinh một số một số lợi ích này đề đạt được một số lợi ích khác, thì xã hội
không bao giờ có thể được biện minh khi hy sinh lợi ích của một số cá nhân vì lợi
ích của người khác.
Tính riêng biệt của con người là rất
quan trọng đối với Nozick đến mức độ mà ông nghĩ rằng nó sẽ củng cố cho sự tồn
tại của các ràng buộc về mặt đạo đức mà cá nhân sở hữu. Những sự ràng buộc về mặt
đạo đức thiết lập ranh giới cho những gì được phép làm đối với con người (dù bởi
cá nhân hay nhà nước). Sự vi phạm các ràng buộc như vậy là sai trái bởi vì điều
này đối xử với các cá nhân, những người bị vi phạm, chỉ đơn thuần là phương tiện
hoặc công cụ cho các mục đích của người khác. Chú ý rằng những ràng buộc này được
cho là những sự ngăn cấm tuyệt đối đối với những gì có thể được phép làm đối với
các cá nhân. Nghĩa là, ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng sự vi phạm các ràng buộc
về mặt đạo đức của chỉ một người có thể có lợi cho nhiều người khác trong xã hội,
thì một sự vi phạm như vậy không thể được biện minh.
e. Ba nguyên tắc của lý thuyết công bằng
Nozick cho rằng có ba nguyên tắc phân
phối công bằng. Những nguyên tắc này tạo nên khuôn khổ cơ bản cho lý thuyết về
quyền của ông.
Đầu tiên là
nguyên tắc đạt được công bằng. Theo nguyên tắc này, các cá nhân có thể đạt được
bất kỳ tài sản nào mà họ muốn miễn là trước đó nó không thuộc về ai và nó không
đạt được bằng trộm cắp, cưỡng ép hoặc lừa đảo. Thứ hai là nguyên tắc chuyển đổi công bằng theo đó tài sản có thể
được chuyển đổi chừng nào mà việc chuyển đổi không được thực hiện bởi hành vi
trộm cắp, cưỡng ép hoặc lừa đảo. Hai nguyên tắc này tạo thành các phương tiện hợp
pháp cho việc chiếm hữu và chuyển đổi hàng hoá. Tất cả các giao dịch có giá trị
đến từ những hành động lặp đi lặp lại theo hai nguyên tắc này. Trong khi Nozick
không định nghĩa một cách rõ ràng điều mà hiện nay được biết đến như là nguyên
tắc thứ ba của ông, ông chỉ mô tả chức năng của nó. Nguyên tắc thứ ba này – hiệu chỉnh công băng – có vai trò, như tên
cho thấy, để khắc phục các vi phạm ở hai nguyên tắc đầu tiên.
Những hành động mà ba nguyên tắc này
phản ánh là điều Nozick gọi là lý thuyết "lịch sử" về công bằng. Ông
cho rằng không có cách nào, chỉ đơn giản bằng cách nhìn vào các mô hình phân phối
mà chúng ta có thể nói những sự phân phối hàng hóa nào là công băng. Nozick nhấn
mạnh rằng chúng ta phải biết chính xác sự phân phối xảy ra như thế nào. Nếu ở
đâu đó trong quá trình giao dịch mà sự trộm cắp, ép buộc hoặc gian lận xảy ra, thì
chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng các tài sản liên quan được sở hữu một
cách bất công. Do đó, ba nguyên tắc phân phối công bằng quy định sự phân phối
và trao đổi tài sản một cách đúng đắn.
Như được nhắc đến trước đó, lý thuyết
công bằng dựa trên quyền không phụ thuộc vào khái niệm về sự xứng đáng (trao
thưởng) để làm cơ sở cho việc chiếm hữu hay chuyển nhượng tài sản. Ví dụ, hãy
xem xét nguyên tắc công bằng chuyển đổi. Một hàm ý của nguyên tắc này là sự thừa
kế là hoàn toàn hợp pháp. Từ quan điểm của lý thuyết về quyền, việc con cái của
các tỷ phú có thể không làm việc chăm chỉ hay đóng góp bất cứ thứ gì đến gia
tài của cha mẹ họ là không liên quan. Việc sinh ra trong một gia đình tỷ phú có
tùy tiện về mặt đạo đức hay không (trong việc quyết định những gì một người sở
hữu) không phải là vấn đề - thật vô nghĩa khi suy nghĩ rằng anh ta không xứng
đáng với sự thừa kế bởi vì anh ta không đóng góp gì cho gia đình. Nếu các tỷ
phú muốn để lại tài sản gia đình cho người con trai kém cỏi của mình, thì người
con trai đó có quyền đối với tài sản thừa kế đó. Đối với Nozick, ý tưởng cho rằng
việc sở hữu công bằng không phụ thuộc vào sự xứng đáng là một suy xét quan trọng
mặc dù nhiều người ủng hộ thị trường tự do đã cố gắng để biện minh cho sự tích
lũy một lượng của cải rất lớn của cải trên cơ sở sự xứng đáng của những ai đạt
được nó. Khái niệm chung về sự xứng đáng thường viện đến khái niệm về sự nỗ lực,
sáng tạo, những đóng góp khi cố gắng để biện minh cho lý do tại sao một số đạt
được nhiều hơn những người khác. Nhưng Nozick thấy những lập luận để biện minh cho
việc sử hữu tài sản trên cơ sở của xứng đáng này là gượng ép. Đối với Nozick, xứng
đáng nằm ngoài tiêu chuẩn đánh giá. Nhưng quan trọng hơn, theo quan điểm của
ông lý thuyết xứng đáng không thể được xem là cơ sở để biện minh cho sự sở hữu tài
sản bởi vì đó là một lý thuyết khuân mẫu. (xem phần bên dưới)
Nhà nước có thể được xem như là một thiết
chế phục vụ bảo vệ các quyền sở hữu tư nhân và các giao dịch trên cơ sở các quyền
này mà không quan tâm đến việc người nào đó có xứng đáng với những gì họ có hay
không. Chức năng này được thực hiện thông qua việc bảo vệ ba nguyên tắc phân phối.
Điều này có nghĩa rằng chức năng của nhà nước là để bảo đảm sự an toàn của cá
nhân và tài sản của họ, vốn có thể bị đe dọa bởi các lực lượng từ bên trong hoặc
từ bên ngoài lãnh thổ của họ. Để đảm bảo sự an toàn bên trong một quốc gia, điều
này đòi hỏi phải có một lực lượng cảnh sát dân sự. Để đảm bảo sự an toàn khỏi
các mối đe dọa từ bên ngoài, cần thiết phải có một đội quân thường trực. Cung cấp
các chức năng này là mối quan tâm chính đáng của nhà nước của Nozick. Ngoài ra,
với nguyên tắc phân phối công bằng thứ ba trong mô hình của Nozick, sẽ cần phải
có một cơ quan tư pháp. Điều này là do trong các vấn đề thực tế nhiều khả năng
sẽ có những bất đồng. Phải có ai đó để phân xử những bất đồng này, và phương tiện
hiệu quả nhất (theo Nozick) là thông qua các thủ tục của luật bồi thường thiệt
hại. Ngoài ra, các tòa án còn thực thi nguyên tắc hiệu chỉnh - để đảm bảo rằng tài
sản được trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp của họ trong trường hợp mà sự công bằng
chiếm hữu và công bằng chuyển đổi bị vi phạm. Một hàm ý của tất cả những điều
này là nhà nước có quyền để đánh thuế nhằm thực thi các chức năng này.
f. Ví dụ Wilt Chamberlain và ví dụ "người yêu
hoàng hôn/du thuyền"
Nozick tạo ra một ví dụ tưởng tượng
trong đó sử dụng một cựu cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp thực tế (Wilt
Chamberlain) để chỉ trích điều mà ông gọi là các lý thuyết công bằng"khuân
mẫu". Các lý thuyết công bằng khuân mẫu là những lý thuyết mà sự phân phối tài sản được coi là công bằng khi có
một số mục đích hoặc mục tiêu cần đạt đến. Ví dụ, các nhà quân bình cấp tiến cho rằng sự phân phối công bằng nhất đối
với tài sản và nguồn lực là sự phân phối trong đó các yếu tố này được chia đều cho
toàn bộ xã hội. Thuyết công lợi là một
ví dụ khác của lý thuyết khuôn mẫu vì tất cả các hàng hóa được phân phối một
cách công bằng khi chúng tối đa hóa tổng lợi ích của một xã hội. Cuối cùng, lý thuyết về công bằng của John Rawls cũng
sẽ được coi là một lý thuyết theo khuôn mẫu vì cho rằng tài sản chỉ có thể được
phân phối trong trường hợp mang lại lợi ích cho các thành viên kém thuận lợi nhất
của xã hội. Điều mà tất cả các lý thuyết
này chia sẻ là sự phân phối tài sản sẽ chỉ được tuyên bố là công bằng khi chúng
phù hợp với một khuân mẫu.
Để lập luận chống lại các lý thuyết công
bằng khuôn mẫu này, Nozick muốn cho thấy rằng các khuân mẫu chỉ có thể được áp
đặt bằng cách hoặc không cho phép các hành động mà phá vỡ khuân mẫu (hoặc như
Nozick gọi nó, "cấm hành vi tư bản (buôn bán, trao đổi) giữa hai người trưởng
thành") hay liên tục tái phân phối tài sản để thiết lập lại mô hình.
Nozick cố gắng chứng minh tính đúng đắn của hai mệnh đề. Đầu tiên là nếu cá
nhân đạt được tài sản của họ một cách công bằng, thì sự trao đổi tự do của họ với
người khác (miễn là không có liên quan đến hành vi trộm cắp, lừa đảo hay cưỡng
chế) là công bằng. Mệnh đề thứ hai được cho là kết quả của mệnh đề thứ nhất. Nó
cho rằng sự tự do trao đổi sẽ luôn kết thúc trong việc phá vỡ các mô hình phân
phối công bằng được viện dẫn. Nhưng dường như nếu chúng ta có quyền sở hữu tài
sản hợp pháp, thì chúng ta có thể sử dụng nó theo bất kỳ cách nào mà chúng ta
muốn bất kể việc sử dụng đó có dẫn đến kết quả gì. Nozick chắc chắn nhận ra rằng
việc cho phép các cá nhân trao đổi tài sản của họ không theo bất kỳ nguyên tắc
khuôn mẫu nào sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng to lớn về tài sản. Tuy nhiên, ông
nghĩ rằng bất kỳ biện pháp để "sửa chữa" cho một sự bất bình đẳng như
vậy từ sự can thiệp của chính quyền là không công bằng.
Trong ví dụ Wilt Chamberlain, Nozick bảo chúng ta hãy tưởng tượng một xã
hội có sự phân phối các nguồn lực theo sở thích của độc giả. Vì mục tiêu của sự
lập luận, chúng ta sẽ nói rằng có một triệu người và một thành viên và tất cả đều
có những phần bằng nhau - chúng ta sẽ gọi sự phân phối này là D1. Chúng ta cũng
sẽ tưởng tượng rằng Wilt ký hợp đồng với một đội bóng với những qui định mà cho
mỗi buổi chơi bóng anh nhận được 25 cent từ giá của mỗi vé bán ra. Khi mùa giải
diễn ra, tưởng tượng rằng mỗi người trong xã hội đều vui vẻ góp 25 cent để xem Wilt
thi đấu. Sau khi một triệu người hâm mộ đến xem anh ta chơi, anh ta kiếm được
250,000 $. Vì vậy, sẽ có một phân phối mới, D2, trong đó Wilt có tài sản ban đầu
của mình cộng với $ 250,000. Bỏ qua tất cả các giao dịch khác, chúng ta có thể
giả định rằng tất cả những người khác trong xã hội có ít tài sản hơn nhiều so với
những gì Wilt có. Nozick hỏi liệu có bất cứ điều gì bất công về ví dụ này và nếu
có bất cứ điều gì bất công, thì lý do là như thế nào? Vì mỗi người đồng ý với D1,
mỗi người phải có quyền đối với phần của mình. Điều này cũng có nghĩa là mỗi cá
nhân có làm với các nguồn lực của mình những gì anh ta muốn và nhiều người đã
quyết định đưa một số cho Wilt. Rõ ràng là D1 và D2 là không giống nhau. Tuy
nhiên, D2 đến từ những gì chúng ta đã đồng ý, đó là một phân phối công bằng cộng
với một sự trao đổi tự do. Vì vậy, D2 là công bằng, nhưng D2 vi phạm mô hình
D1, trong đó mỗi người có cùng nguồn lực như nhau.
Quan điểm đầu tiên của Nozick là, việc
cho phép các cá nhân tự do trao đổi tài sản của họ như họ muốn, miễn là họ hoàn
toàn đồng ý với những người trao đổi, rõ ràng (và liên tục) phá vỡ mô hình sở hữu
ban đầu. Chú ý rằng nếu bạn đồng ý với Nozick rằng không có bất công nào được
thực hiện trong các bước hình thành D2, thì không có gì là bất công về D2.
Nhưng còn nếu ai đó muốn thiết lập lại D1? Chú ý những gì Nozick nghĩ sẽ phải xảy
ra trong trường hợp này. Để tổ chức lại mô hình sở hữu, một số thực thể (nhiều
khả năng nhất là nhà nước) sẽ cần phải can thiệp. Đó là, nếu D1 là tất cả sở hữu
bằng nhau và bây giờ ở D2, chúng ta thừa nhận rằng chúng ta muốn trở lại D1,
chúng ta sẽ phải lấy một phần tài sản từ những người có nhiều hơn để cung cấp
cho những người có ít hơn. Nhưng, vấn đề ở đây là: điều gì xảy ra nếu những người
có nhiều tài sản hơn trong D2 không muốn từ bỏ tài sản của họ, phản đối rằng họ
đã đạt được chúng một cách công bằng? Nếu nhà nước lấy đi một phần tài sản, thì
điều này khác như thế nào với nhưng gì Robin Hood đã làm? Đó không phải là một
hình thức trộm cắp?
Ví dụ Wilt Chamberlain cung cấp cho Nozick
cơ hội để củng cố lập luận của mình chống lại các lý thuyết khuôn mẫu. Ông nhấn
mạnh quan điểm rằng, việc duy trì khuân mẫu thường sẽ đòi hỏi tái phân phối tái
sản thông qua thuế từ những người có tài sản sản tới những người không có, và rằng
đây không phải là một hệ quả vô thưởng vô phạt. Trong thực tế, kết quả của sự tái
phân bố này là lao động cưỡng bức. Nozick cho rằng "chiếm đoạt thành quả
lao động của một ai đó là tương đương với việc tóm lấy thời gian từ anh ta và bắt
anh ta phải thực hiện các hoạt động khác
nhau." Về bản chất, Nozick nghĩ rằng điều này là tương tự như buộc một ai
đó để làm việc cho các mục đích mà anh ta không được chọn. Các nguyên tắc khuôn
mẫu cho phép cho một số người đòi hỏi thành quả lao động của người khác. Nozick
tin điều này sẽ dẫn đến một sự vi phạm quyền tự sở hữu tự, vì việc đòi hỏi một
số thành quả lao động của người khác thực chất là đòi hỏi sở hữu một phần đối với
người đó.
Còn một vấn đề khác ở đây. Nozick cũng
lo lắng rằng mức độ can thiệp vào cuộc sống của người dân sẽ thay đổi phụ thuộc
vào lối sống khác nhau mà họ lựa chọn, và theo cách mà phân biệt đối xử chống lại
một số người nào đó. Ông tự hỏi tại sao mọi người không nên có quyền chọn lối sống
riêng của mình khi mà họ không làm cho người khác khốn khổ hơn so với hoàn cảnh
của họ từng là trong một trạng thái tự nhiên? Nozick bác bỏ đòi hỏi rằng, những
cá nhân quan tâm đến lợi ích vật chất nhiều hơn phải làm việc nhiều giờ hơn so
với những người có lối sống thẩm mỹ hơn. Ông đặt câu hỏi tại sao những người muốn
"xem một bộ phim" bị yêu cầu (vì anh ta phải kiếm tiền cho các vé xem
phim) cung cấp "tiền cho những người nghèo", trong khi những người
thích nhìn cảnh hoàng hôn (người không cần kiếm tiền để thưởng thức chúng) lại không
phải làm như vậy? Điều mà Nozick đã cố gắng nêu lên là: nếu việc sở hữu một chiếc
du thuyền sang trọng là những gì làm cho tôi hạnh phúc, thì tôi sẽ phải làm việc
lâu hơn nhiều so với những người chỉ đơn giản là thích cảnh hoàng hôn. Những
người thích hoàng hôn không cần tiền để thưởng thức chúng – anh ta có thể theo
đuổi hạnh phúc của mình và đáp ứng các nghĩa vụ thuế của mình cho nhà nước trong
một thời gian lao động rất ít. Tuy nhiên, tôi có thể cần phải làm việc thêm sáu
tháng để có đủ tiền để mua chiếc du thuyền và đáp ứng các nghĩa vụ thuế của nhà
nước. Tôi không chỉ cần số lượng tiền chính cho việc mua, tôi cũng bị đánh thuế
để cung cấp cho các chương trình xã hội. Trong viễn cảnh này, Nozick tự hỏi tại
sao những người yêu du thuyền, chỉ đơn giản là vì lối sống của mình, phải làm
việc sáu tháng để có được những gì mình muốn và nộp thuế của mình, trái ngược
với những người yêu hoàng hôn, chỉ phải làm việc ít hơn nhiều để đạt được
những mục tiêu này .
g. Máy kinh nghiệm
Trong khi các ví dụ Wilt Chamberlain
và người yêu hoàng hôn/du thuyền có thể nhắm vào bất kỳ loại lý thuyết khuân mẫu
nào (mặc dù hầu như nó nhắm vào lý thuyết về công lý của Rawls), Nozick sử dụng
một ví dụ sáng tạo để lập luận chống lại thuyết công lợi cổ điển. Ông bảo chúng
ta tưởng tượng một cái máy được phát triển bởi “super duper neuropsychologist”
trong đó ta có thể đăng nhập vào và có bất kỳ loại kinh nghiệm nào mà mình mong
muốn. Não của một người có thể được kích thích để anh ta suy nghĩ và cảm thấy rằng
anh ta đang đọc sách, viết một cuốn tiểu thuyết vĩ đại, hoặc leo lên đỉnh Everest.
Nhưng tất cả thời gian người đó sẽ chỉ đơn giản là được thả nổi trong một bể với
các điện cực gắn vào đầu. Nozick hỏi người đọc rằng anh ta có muốn đăng nhập
vào chiếc máy hay không.
Nozick nghĩ rằng chúng ta sẽ không
tham gia, và kết luận rằng mọi người sẽ theo sau trực giác của mình rằng các kinh
nghiệm lập trình như vậy là không có thật. Ông cho rằng mọi người không chỉ đơn
thuần là muốn kinh nghiệm các hành động nhất định, mà họ thực sự muốn thực hiện
chúng. Ví dụ, tôi không chỉ đơn thuần muốn trải nghiệm rằng tôi là một tiểu
thuyết gia vĩ đại, mà tôi mốn trở thành một tiểu thuyết gia vĩ đại thực sự.
Theo cách này chúng ta tin rằng đã đạt
được từ ví dụ chiếc máy kinh nghiệm một sự chỉ trích đối với thuyết công lợi cổ
điển? Ý tưởng vốn là giá trị căn bản làm nền tảng cho thuyết công lợi cổ điển được
mô tả bởi Jeremy Bentham và John Stuart Mill là: hạnh phúc là sự tốt lành tối
cao nhât và nội tại duy nhất. Nghĩa là, hạnh phúc là cái tốt, và là mục tiêu mà
mọi cái tốt khác theo đuổi. Có lẽ sức hấp dẫn ban đầu của việc nhập vào chiếc máy
của Nozick sẽ là sự hứa hẹn của việc đạt được sự khoái lạc. Tuy nhiên, kì cùng
thì sự không sẵn lòng để đăng nhập dường như cho thất rằng chúng ta muốn điều
gì đó khác ngoài hạnh phúc (hiểu ở đáy là sự khoái lạc) trong cuộc sống của
chúng ta, dù đó có thể là tính thực tế hay tính xác thực. Do đó, rõ ràng rằng hạnh
phúc không phải là sự thiện tối cao. Mặc dù điều này dường như là một đòn tấn
công đáng kể vào thuyết công lợi cổ điển, song dường như không ảnh hưởng đến
các hình thức khác thuyết công lợi như thuyết công lợi sở thích. Các nhà công lợi
sở thích có thể tuyên bố rằng mọi người có thể không đi vào chiếc máy không phải
vì họ quan tâm đến giá trị khác hơn hạnh phúc, nhưng vì họ thích trải nghiệm hạnh
phúc chỉ thông qua một số phương tiện liên quan đến việc theo đuổi tích cực hạnh
phúc và không chỉ đơn thuần là trải nghiệm nó. Ngoài ra, họ có thể nhìn hạnh
phúc theo một cách phức tạp nhờ đó mà họ không chỉ đơn thuần là mong muốn sự
hài lòng"thô thiển", mà muốn một dạng hạnh phúc sâu sắc.
h. Điều kiện của Locke
Có những giới hạn nào đối với số lượng
các nguồn lực mà một số có thể sở hữu nhiều hơn so với những người khác, mà đảm
bảo rằng sự phân bố về tài sản là cách công bằng, ngay cả theo sự phân phối của
Nozick? Có một sự ràng buộc – đó là điều kiện của Locke. Trong khi Nozick không
chấp nhận toàn bộ lý thuyết về sở hữu của Locke, ông sử dụng các bộ phận của nó
điều chỉnh chúng cho phù hợp với lý thuyết của ông về quyền. Một trong những hạn
chế nổi tiếng về sự tích lũy tài sản do Locke đặt ra đó là ta có thể sở hữu tài
sản bao lâu mà còn để lại "đủ và tốt" cho người khác. Điều này ngăn cản
sự độc quyền các hàng hóa cần thiết cho cuộc sống. Ví dụ, việc sở hữu các giếng
nước duy nhất còn lại sẽ không được cho phép theo các điều khoản này.
Tuy nhiên, Nozick tái diễn giải các
điều kiện để chỉ ra rằng nếu việc chiếm hữu đầu tiên không làm cho bất cứ ai tồi
tệ hơn so với sự sử dụng các nguồn lực trước đó, thì đó là một sự chiếm hữu
công bằng. Nghĩa là, theo giải thích của Nozick về điều kiện, thì hoàn cảnh của
người khác sau việc chiếm hữu sẽ không tồi tệ hơn hoàn cảnh của họ khi tài sản
không được chiếm hữu.
Sự giải thích thay thế này cho điều
kiện của Locke chỉ để lại một sự giới hạn rất hạn chế đối với việc tích lũy tài
sản. Do đó, dường như ngay cả với điều kiện sửa đổi của Locke đã bổ sung một số
điều kiện đối với việc chiếm hữu các nguồn lực, thì lý thuyết quyền Nozick vẫn
sẽ cho phép sự bất bình đẳng rất lớn trong một xã hội tự do.
i. Không tưởng
Phần thứ ba và là phần cuối cùng của Vô chính phủ, Nhà nước và Không tưởng bàn
về chủ đề xã hội không tưởng và thường ít nhận được sự chú ý. Nhiều học giả đã
lưu ý rằng phần này dường như là một nỗ lực của Nozick để làm cho bức tranh rất
ảm đạm của quyền tư hữu (trong đó, nhà nước không tái phân phối, mà người nghèo
chỉ được hỗ trợ bởi các quyết định của
các nhà hảo tâm tư nhân) trở thành một mô hình chính trị có khả năng truyền cảm
hứng. Nhưng mục đích thứ hai của phần này hầu như là để cung cấp một luận điểm
độc lập cho nhà nước tối thiểu.
Nozick bắt đầu phần này bằng cách lưu
ý rằng chúng ta có thể sử dụng hai phương pháp khác nhau để chỉ ra đâu là loại
xã hội tốt nhất có thể sinh sống. Một phương pháp mà ông gọi là phương pháp "thiết
kế" và phương pháp khác, ông gọi tên là phương pháp “bộ lọc”. Với phương
pháp thiết kế Nozick hiểu là phương pháp vận dụng trí tuệ tập thể để chỉ ra đâu
là loại xã hội tốt nhất có thể (ví dụ phương pháp của Rawls trong A Theory of Justice). Sau đó, nhóm có thể
mô hình một xã hội dựa trên các ước nguyện phát sinh từ các các cân nhắc này.
Tuy nhiên, Nozick hoài nghi về khả năng mô hình này có thể mang lại kết quả
thành công. Ông không nghĩ rằng có một hình thức xã hội tốt nhất, công bằng cho
tất cả mọi người. Con người rất phức tạp, với nhiều ý tưởng khác nhau về đặc điểm
nào sẽ gắn liền với thế giới tốt nhất có thể. Để thực hiện điểm này, Nozick bảo
chúng ta hãy tưởng tượng về một nhóm với các nhân vật lịch sử khác nhau (bao gồm
Beethoven, Wittgenstein, Henry Ford, Thoreau, Elizabeth Taylor, và Moses).
Nozick thách thức chúng ta xem xét liệu có thực sự có thể có một thế giới lý tưởng
cho tất cả các cá nhân rất khác nhau này. Ít nhất, Nozick nói rằng hầu như điều
này là không thể.
Thay vào đó, ông quay sang khả năng sử
dụng một thiết bị lọc và thúc đẩy ý tưởng về một loại meta-utopia (siêu không
tưởng). Trong phương pháp lọc này, mọi người xem xét nhiều xã hội khác nhau và
phê bình chúng, loại bỏ một số và thay đổi một số khác. Trong quá trình này,
chúng ta có thể tưởng tượng mọi người đăng thử nghiệm các xã hội, rời bỏ chúng
nếu họ thấy vô vọng hoặc thay đổi chúng nếu họ thấy chấp nhận được với một số sửa
chữa. Như chúng ta có thể mong đợi, một số cộng đồng sẽ bị bỏ rơi, một số khác
sẽ thịnh vượng, và một số sẽ tiếp tục nhưng không phải không có những cuộc đấu
tranh. Vì vậy, meta-utopia này sẽ phục vụ như là một khuôn khổ hay nền tảng cho
nhiều cộng đồng thử nghiệm. Tất cả sẽ được hình thành như các cộng đồng tự nguyện,
do đó sẽ không có ai có quyền áp đặt một tầm nhìn không tưởng lên những người
khác. Điều này bác bỏ hữu hiệu các cộng đồng "đế quốc" vốn xem nhiệm
vụ của họ là giành quyền kiểm soát của các cộng đồng khác cho sự bành trướng
riêng của nó. Một số nhà bình luận đã so sánh luận điểm phản đế quốc này trong
khuôn khổ của xã hội không tưởng của Nozick với một phiên bản của thuyết tương
đối văn hóa.
Điểm mấu chốt trong khuôn khổ của Nozick
cho một xã hội không tưởng là các công dân đồng thuận có thể liên kết với nhau
hình thành các tiểu đơn vị chính trị và tự nguyện gia nhập vào bất cứ xã hội
nào. Ví dụ, những người có cảm tình với công đoàn viên có thể chọn để phát triển
một cộng đồng mà nhóm chỉ bao gồm người lao động. Trong thực tế, Nozick ngạc
nhiên là kiểu tổ chức này đã không phát triển từ các thành viên của chính trị cánh
tả những người lập luận rằng khái niệm về quyền sở hữu tài sản duy nhất công bằng
là khái niệm cho rằng tài sản được sở hữu bởi tất cả mọi người trong một xã hội
không giai cấp. Một nhóm khác, vốn quyết định một cách tập thể rằng một mạng lưới
phúc lợi mạnh mẽ là điều cần thiết, có thể bỏ phiếu để đánh thuế cao đối với
chính họ nhằm phân phối lại tài sản để giúp đỡ những người kém may mắn thông
qua quyền đối với sự chăm sóc sức khỏe, chăm sóc trẻ em, hỗ trợ thất nghiệp, vv
.
Nozick cho rằng việc theo sau nguyên
tắc chính trị của ông có thể dẫn đến một sự đa dạng rộng lớn của các khả năng chính
trị khác nhau. Tất cả những gì cần thiết là một (hoặc nhiều) người tuyển chọn
các thành viên tham gia vào một hiệp hội gồm các công dân tử tế những người tự nguyện đồng ý
tuân theo các quy định của cộng đồng mới của họ. Chú ý rằng không có sự vi phạm
quyền ở đây. Miễn là tất cả đồng ý với các quy tắc của nhóm, họ có thể đồng ý để
hình thành một xã hội mà trông giống như các nền dân chủ xã hội của các nước Bắc
âu. Tương tự như vậy, dường như có thể là cá nhân có thể tham gia để hình thành
cộng đồng phi tự do. Các yêu cầu tối thiểu liên quan đến ý tưởng là không ai có
thể bị ép buộc hoặc bị lừa gạt để tham tham gia vào. Ngoài ra, nếu ai đó có thất
vọng với tổ chức chính trị hiện nay của anh ta, thì anh ta phải có quyền ra khỏi.
Một số nhà bình luận đã cho rằng, tốt
nhất nên nghĩ về tầm nhìn không tưởng của Nozick ở đây theo kiểu tổ chức liên
bang. Các nhà nước tối thiểu sẽ thay thế cho chính phủ liên bang. Các thực thể
chính trị nhỏ hơn, chẳng hạn như các tiểu bang hoặc tỉnh có thể được phát triển
trong đó sẽ bao gồm các nhóm công dân, những người tự nguyện đồng ý với một tập
hợp riêng biệt các lý tưởng chính trị của riêng họ. Ngoài ra, việc suy tư về những
phương pháp tốt nhất cho phép các cá nhân đạt được khát vọng không tưởng riêng
của họ dẫn chúng ta đến một lập luận riêng ủng hộ cho nhà nước tối thiểu. Vì nếu
chúng ta đồng ý với Nozick rằng phương pháp lọc là cách tốt nhất cho các cá
nhân để thực hiện ước mơ không tưởng của họ, thì họ nên ủng hộ quan niệm của
ông về một nhà nước tối thiểu. Kì cùng, thì đâu là khuôn khổ cho xã hội không
tưởng mà không phải là một nhà nước tối thiểu? Chú ý rằng trong phần cuối cùng
của Vô chính phủ, Nhà nước và Không tưởng,
nhà nước tối thiểu không được bảo bệ trên cơ sở các quyền cá nhân. Thay vào đó,
nhà nước tối thiểu ở đây cung cấp một khuôn khổ chính trị, mà tôn trọng sự đa dạng
và cho phép các cá nhân khác nhau theo đuổi những quan niệm riêng của họ về những
điều tốt đẹp. Nozick nghĩ rằng điều này cần được coi là một lợi thế lớn để ủng
hộ các nguyên tắc tự do cá nhân cũng như là một nền tảng hay một khuôn khổ cho sự
tổ chức chính trị.
(hết)
Nguồn: Nguồn:
http://www.iep.utm.edu/noz-poli/