Jerry Z.
Muller
Trần Ngọc Cư
dịch
Gia đình và vốn con người
Trong môi
trường toàn cầu hóa, tài chính hóa, hậu công nghiệp ngày nay, vốn con người là
quan trọng hơn bao giờ hết trong việc quyết định những cơ may trong đời. Điều
này khiến vai trò của gia đình trở nên
quan trọng hơn cũng bởi vì, các nguồn lực do gia đình truyền lại cho con cái có
xu thế định đoạt rất nhiều cho sự thành công ở nhà trường và nơi làm việc, như
phát hiện luôn lặp lại của mọi thế hệ các nhà nghiên cứu xã hội và khiến họ tiu
nghỉu. Như chuyên gia kinh tế Friedrich Hayek đã vạch ra nửa thế kỷ trước trong
cuốn The Constitution of Liberty (Hiến pháp của Tự do), trở ngại chính cho sự
bình đẳng về cơ hội là ta không thể tìm được một cơ chế tốt hơn để thay thế những
vị phụ huynh thông minh hay những gia đình biết bồi dưỡng tình cảm và văn hóa
cho con cái. Theo một nghiên cứu gần đây của hai nhà kinh tế Pedro Carneiro và
James Heckman, “Những khác biệt về trình độ kỹ năng nhận thức (cognitive
skills) và các kỹ năng không thuộc phạm vi nhận thức (noncognitve skills) xuất
hiện sớm trong đời người và tồn tại mãi. Có chăng là, học vấn chỉ đào sâu thêm
những khác biệt đầu đời này mà thôi”.
Vốn di truyền
nằm dưới nhiều dạng thức khác nhau: cơ cấu gien (genetics), sự nuôi dưỡng trước
và sau khi đứa trẻ sinh ra, và các định hướng văn hóa được truyền đạt trong gia
đình. Hẳn nhiên, tiền bạc cũng quan trọng, nhưng thường không quan trọng bằng
những yếu tố gần như không liên quan đến tiền bạc này. (Sự hiện hữu nổi bật của
sách báo trong một hộ gia đình là dấu hiệu con cái đạt điểm cao ở học đường, chứ
không phải là lợi tức của gia đình đó.) Qua thời gian, nếu xã hội được tổ chức
dựa vào chế độ nhân tài, vốn di truyền gia đình và phần thưởng thị trường sẽ có
có xu thế gắn bó với nhau.
Những cha mẹ
có học vấn thường có khuynh hướng đầu tư thêm thì giờ và năng lực cho việc chăm
sóc con cái, thậm chí khi cả cha lẫn mẹ đều bận việc ở sở làm. Và những gia
đình có vốn con người phong phú có khả năng sử dụng hiệu quả hơn những phương
tiện giáo dục cải tiến mà chủ nghĩa tư bản đương đại cống hiến (chẳng hạn tiềm
năng bồi dưỡng tri thức qua Internet) đồng thời chống lại những cạm bẫy tiềm ẩn
(như xem TV và chơi các trò chơi vi tính).
Điều này ảnh
hưởng đến khả năng của trẻ em trong việc vận dụng nền giáo dục chính thức ở nhà
trường, một nền giáo dục ít ra cũng có tiềm năng ngày càng mở rộng để đón tiếp
mọi người, bất chấp địa vị kinh tế hay sắc tộc. Vào đầu thế kỷ 20, chỉ có 6,4 %
trẻ em Mỹ hoàn tất bậc trung học, và chỉ một trong 400 người tiếp tục lên đại học.
Như vậy, thời bấy giờ một bộ phận dân chúng rất đông đảo có khả năng trí óc,
nhưng không có cơ hội, để theo đuổi các bằng cấp cao. Ngày nay, tỉ lệ học sinh
Mỹ hoàn tất bậc trung học là khoảng 75% (xuống từ đỉnh cao 80% năm 1960), và
khoảng 40% thanh niên đăng ký theo học đại học.
Tờ The
Economist gần đây đã nhai lại một quan niệm lỗi thời: “Trong một xã hội có cơ hội
đồng đều rộng rãi, địa vị của cha mẹ trên thang lợi tức sẽ không mấy ảnh hưởng
đến nấc thang lợi tức của con cái họ về sau”. Nhưng sự thật là, càng có cơ hội
đồng đều do cơ chế tạo ra bao nhiêu, thì các di sản thuộc vốn con người của gia
đình lại càng quan trọng bấy nhiêu. Như nhà khoa học chính trị Edward Banfield
nhận xét một thế hệ trước đây trong cuốn The Unheavenly City Revisited [một tác
phẩm xét lại các vấn đề đô thị Mỹ, ND], “Toàn bộ nền giáo dục luôn ưu đãi trẻ
em thuộc giai cấp trung lưu hoặc thượng lưu, vì thuộc về giai cấp trung lưu hay
thượng lưu có nghĩa là hưởng được những phẩm chất tốt đẹp giúp cho việc học tập
đặc biệt dễ dàng”. Những cải tiến về phẩm chất trường học có thể cải thiện
thành quả giáo dục nói chung, nhưng chúng có xu thế làm gia tăng, chứ không giảm
bớt, khoảng cách thành đạt giữa con em xuất thân từ những gia đình có vốn con
người chênh lệch nhau. Những nghiên cứu gần đây với mục đích chứng minh rằng tại
Hoa Kỳ ngày nay sự thăng tiến xã hội giữa các thế hệ (intergenerational
mobility) ít diễn ra hơn so với trong quá khứ (hay so với tại một số quốc gia
châu Âu), đã không thấy được rằng sự kiện này thật ra có thể là sản phẩm trớ
trêu của nỗ lực gia tăng bình đẳng về cơ hội qua nhiều thế hệ. Và trong khía cạnh
này, có thể Hoa Kỳ chỉ là nước dẫn đầu trong các xu thế cũng hiện diện tại các
nước tư bản tiên tiến khác.
Thành đạt khác nhau giữa các nhóm xã hội
Gia đình
không phải là cơ chế xã hội duy nhất có một ảnh hưởng quan trọng đối với sự
phát triển vốn con người (human capital) và đối với sự thành công nhiên hậu
trong thị trường; các nhóm cộng đồng, như các cộng đồng tôn giáo, chủng tộc và
dân tộc cũng có một ảnh hưởng tương tự. Trong cuốn sách xuất bản năm 1905, The
Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism (Luân lý Tin lành và Tinh thần Tư
bản chủ nghĩa), nhà xã hội học Max Weber nhận xét rằng trong các khu vực tôn
giáo khác nhau, người Tin lành làm kinh tế giỏi hơn người Công giáo, và người
theo Giáo phái Calvin (Calvinists) thành công hơn người theo Giáo phái Luther
(Lutherans). Weber đưa ra một một lý giải mang tính văn hóa cho sự khác biệt
này, một sự khác biệt có gốc rễ trong những khuynh hướng tâm lý do các đức tin
khác nhau này tạo ra. Vài năm sau, trong cuốn The Jews and Modern Capitalism
(Người Do Thái và Chủ nghĩa Tư bản Hiện đại), Werner Sombart, người đồng thời với
Weber, đưa ra một lý giải khác hơn cho sự thành công của các nhóm khác nhau, bằng
cách một phần dựa vào các khuynh hướng văn hóa và một phần dựa vào các khuynh
hướng chủng tộc. Và đến năm 1927, Schumpeter, một đồng nghiệp trẻ hơn của họ đã
đặt tựa đề cho một bài tiểu luận quan trọng là “Giai cấp xã hội trong một môi
trường thuần chủng (ethnically homogeneous)”, vì ông đinh ninh rằng trong một bối
cảnh hợp chủng, các mức độ thành đạt thay đổi theo từng sắc dân, chứ không chỉ
theo giai cấp xã hội mà thôi.
Những lý giải
được đưa ra cho những mô hình nói trên là không quan trọng bằng thực tế là, mức
thành đạt khác nhau giữa các nhóm vẫn là một đặc điểm bất diệt trong lịch sử của
chế độ tư bản, và những chênh lệch này vẫn tiếp tục tồn tại ngày nay. Tại Hoa Kỳ
đương đại, chẳng hạn, người châu Á (đặc biệt khi không kể đến các sắc dân hải đảo
Thái Bình Dương) có xu thế thành đạt hơn người da trắng bản xứ (non-Hispanic
whites), người da trắng bản xứ lại thành đạt hơn người da trắng gốc châu Mỹ La
tinh (Hispanic whites), người châu Mỹ La tinh lại thành đạt hơn người Mỹ gốc
châu Phi [người da đen]. Đây là sự thật dù ta nhìn vào sự thành đạt về học vấn,
vào lợi tức, hay nhìn vào các loại hình gia đình, như các trường hợp sinh con
ngoại hôn chẳng hạn.
Những quốc
gia Tây Âu (và nhất là những quốc gia Bắc Âu), với những trình độ bình đẳng
kinh tế còn cao hơn Mỹ nhiều, thông thường là những nước có những khối dân thuần
chủng hơn Mỹ. Khi những đợt dân nhập cư gần đây làm cho nhiều nước tiên tiến hậu
công nghiệp giảm bớt tính thuần chủng so với trước, chúng cũng có vẻ phân hoá
giai cấp theo các đường ranh cộng đồng, với một số nhóm dân nhập cư biểu hiện
những mô hình thành công hơn khối dân cư hiện hữu từ trước và một số nhóm khác
lại ít thành công hơn. Tại Vương quốc Anh chẳng hạn, con cái những người Trung
Hoa và người Ấn Độ nhập cư thường thành công hơn dân bản xứ, trong khi con cái
của người da đen từ vùng Ca-ri-bê (Caribbean blacks) và người Pakistan thường
thua kém hơn. Tại Pháp, con cái của người Việt Nam nhập cư thường thành công
hơn con cái người bản xứ, và con cái của các sắc dân Bắc Phi lại thua kém hơn.
Tại Israel, con cái của người Nga nhập cư thường thành công hơn người bản xứ,
trong khi con cái của những người nhập cư từ Ethiopia lại thua kém hơn. Tại
Canada, con cái người Trung Hoa và người Ấn Độ thường thành công hơn con cái
dân bản xứ, trong khi con cái của dân nhập cư từ vùng Ca-ri-bê và châu Mỹ La
tinh lại thua kém hơn. Phần lớn sự chênh lệnh trong mức độ thành công này có thể
được giải thích bằng thành phần giai cấp và quá trình đào tạo khác nhau của các
nhóm nhập cư ngay tại cố quốc của họ. Nhưng vì bản thân những cộng đồng nhập cư
này đã đóng vai trò là nơi cưu mang vốn con người, những mô hình về sự thành đạt
này có khả năng và vẫn còn tồn tại qua thời gian và không gian.
Trong trường
hợp Hoa Kỳ, chính sách di trú của nước này đã đóng một một vai trò thậm chí còn
lớn hơn trong việc làm nghiêm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, vì tính năng
động kinh tế, sự cởi mở văn hóa, và địa thế của nước Mỹ có xu thế thu hút một số
người tài giỏi và thông minh nhất thế giới lẫn một số người ít học nhất thế giới.
Sự thể này đã nâng chóp bu của thang kinh tế lên cao và hạ phần dưới cùng xuống
thấp hơn nữa.
Tại sao giáo dục không phải là một phương thuốc chữa trị mọi thứ bệnh
Sự nhìn nhận
ngày càng rộng lớn về tình trạng bất bình đẳng và phân hóa giai cấp xã hội đang
gia tăng tại các nước hậu công nghiệp đương nhiên đã đưa đến các cuộc thảo luận
về những điều có thể thực hiện để đối phó vấn đề này. Trong bối cảnh của Hoa Kỳ,
câu trả lời đến từ hầu hết mọi thành phần xã hội thật là đơn giản: giáo dục.
Một chủ đề của
lập luận này tập trung vào giáo dục đại học. Theo đó, hiện nay có một khoảng
cách đang gia tăng về những cơ may trong đời giữa những người tốt nghiệp đại học
và những người không tốt nghiệp, và vì thế cần phải có càng nhiều người vào đại
học càng tốt. Đáng tiếc là, mặc dù một tỉ lệ người Mỹ cao hơn trước đang theo
đuổi bậc đại học, nhưng họ không nhất thiết học hỏi nhiều hơn. Một con số ngày
càng đông đảo không đủ khả năng học tập ở bậc đại học, nhiều người phải rời ghế
nhà trường trước khi hoàn tất học vị, và nhiều người khác nhận những bằng cấp
chỉ phản ánh những tiêu chuẩn thấp hơn trình độ mà người ta thường cho là một bằng
đại học phải có.
Trong khi
đó, mức chênh lệch đáng kể nhất trong sự thành tựu ở học đường diễn ra sớm hơn
bậc đại học, được biểu hiện trong tỉ lệ hoàn tất bậc trung học, và những chênh
lệnh quan trọng trong thành tích học tập (giữa các giai cấp xã hội khác nhau và
giữa các sắc tộc khác nhau) còn xuất hiện sớm hơn, ngay từ cấp tiểu học. Do đó,
một chủ đề thứ hai của cuộc tranh luận giáo dục tập trung vào bậc tiểu học và
trung học. Những phương thức chữa trị được đề xuất ở đây gồm có: cung cấp thêm
tiền cho các trường học, cho phụ huynh nhiều lựa chọn hơn, kiểm tra bài vở của
học sinh thường xuyên hơn, và cải thiện hiệu năng của giáo viên. Thậm chí nếu một
số hoặc toàn bộ các biện pháp này là đáng mong muốn vì những lý do khác đi nữa,
không một biện pháp nào chứng tỏ đã giảm bớt khoảng cách giữa các học sinh và
giữa các nhóm xã hội – vì bản thân nền giáo dục chính thức ở nhà trường
(official schooling) đóng một vai trò tương đối nhỏ bé trong việc tạo ra hoặc
duy trì các khoảng cách thành đạt (achievement gaps).
Thật ra những
khoảng cách này có nguồn gốc trong những mức vốn con người khác nhau (different
levels of human capital) mà trẻ em thừa hưởng khi chúng bắt đầu đi học – điều
này đã dẫn đến một chủ đề thứ ba của cuộc tranh luận giáo dục, tập trung vào việc
chăm sóc tuổi thơ ấu của trẻ em sớm hơn và tích cực hơn. Những đề xuất ở đây
thường dẫn đến việc đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình và đặt chúng vào những
bối cảnh mang tính cơ chế (institutional settings) càng dài thời gian càng tốt
(như chương trình Head Start, Early Head Start /cho trẻ em đi học sớm) hay thậm
chí cố gắng tái xã hội hoá toàn bộ những khu dân sinh (như trong dự án Khu vực
của Trẻ em Harlem/the Harlem Children’s Zone project). Có một số trường hợp
thành công riêng lẻ với những chương trình này, nhưng không ai biết chắc là
chúng có thể được nhân rộng trên một qui mô lớn hơn không. Nhiều chương trình
cho thấy kết quả ngắn hạn về khả năng nhận thức, nhưng hầu hết những thành quả
này có xu thế mai một qua thời gian, và những thành quả còn sót lại thường là
không đáng kể. Có một điều khả tín hơn là, những chương trình này giúp trẻ em
trau dồi các kỹ năng không thuộc lãnh vực nhận thức (noncognitive skills [như
các đức tính]) và những đặc điểm nhân cách có thể dẫn đến thành công kinh tế
tương lai – nhưng với một cái giá và nỗ lực đầu tư đáng kể, vì phải sử dụng các
nguồn lực được rút tỉa từ những bộ phận thành công hơn trong xã hội (và như thế
làm suy yếu các nguồn lực mà họ có thể sử dụng để đầu tư) hay các nguồn lực được
chuyển từ các dự án tiềm năng khác.
Vì tất cả những
lý do trên, tình trạng bất bình đẳng trong các xã hội tư bản tiên tiến dường
như vừa gia tăng vừa không tránh khỏi, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Thật vậy,
một trong những khám phá chắc chắn nhất của ngành nghiên cứu khoa học xã hội
đương đại là, một khi sự cách biệt giữa các gia đình có lợi tức cao và những
gia đình có lợi tức thấp gia tăng, thì những cách biệt trong sự thành đạt về học
vấn và công ăn việc làm giữa con cái họ lại càng gia tăng hơn nữa.
Phải làm gì?
Chủ nghĩa tư
bản ngày nay vẫn tiếp tục tạo ra những lợi ích ngoạn mục và những cơ hội ngày
càng to lớn hơn cho việc tự trau dồi và phát triển bản thân. Nhưng hơn bao giờ
hết, những mặt tốt của nó đang đi cùng với những mặt xấu, đặc biệt là việc gia
tăng tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế. Như Marx và Engels đã nhận xét
chính xác, điều làm cho chủ nghĩa tư bản khác với các hệ thống xã hội và kinh tế
khác là nó “thường xuyên cách mạng hóa việc sản xuất, gây xáo trộn liên tục cho
mọi tình huống xã hội, [và] mang lại tình trạng bấp bênh và dao động triền miên”.
Vào cuối thế
kỷ 18, nhà nghiên cứu và thực hành môn kinh tế chính trị vĩ đại nhất nước Mỹ,
Alexander Hamilton, đã có một số nhận xét sâu sắc về tính hàm hồ tất yếu
(inevitable ambiguity) của chính sách công trong một thế giới đầy lực hủy diệt
sáng tạo (a world of creative destruction):
Cái thân phận
mà Thượng đế đã quan phòng vĩnh viễn cho con người là, mỗi điều tốt lành mà con
người được thụ hưởng đều bị pha trộn với nhiều điều xấu xa, mọi suối nguồn hoan
lạc là ngọn nguồn của thương đau – ngoại trừ một điều là Đức hạnh, điều tốt
lành duy nhất không bị pha chế được phép tồn tại trong Thân phận hữu hạn của
con người… Người làm chính trị đích thực… sẽ hỗ trợ những cơ chế và kế hoạch
nàocó xu thế tạo hạnh phúc cho đồng loại, phù hợp với khuynh hướng tự nhiên của
họ là gia tăng gấp bội nguồn hạnh phúc cá nhân và gia tăng các nguồn tài nguyên
và sức mạnh quốc gia – cố gắng đưa vào mỗi trường hợp tất cả những thành tố có
thể được sử dụng để vạch ra các biện pháp ngăn ngừa và chỉnh sửa cái ác vốn
luôn luôn đi đôi với những ân sủng thế gian.
Bây giờ cũng
như vào thời đó, vấn đề trước mắt chỉ là làm thế nào để duy trì những ân sủng
thế gian của chủ nghĩa tư bản đồng thời vạch ra các biện pháp ngăn ngừa và chỉnh
sửa đối với những điều ác vốn luôn luôn đi đôi với những ân sủng ấy.
Một liều thuốc
tiềm năng để chữa trị các vấn đề bất bình đẳng và bất an kinh tế giản dị là tái
phân phối lợi tức từ chóp bu xuống tận đáy của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương
thức này có hai khuyết điểm. Khuyết điểm thứ nhất là, qua thời gian, chính các
thế lực đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng sẽ xác lập lại thế lực
của mình; việc này đòi hỏi tái phân phối lợi tức thêm nữa, hay tái phân phối mạnh
mẽ hơn. Khuyết điểm thứ hai là vào một thời điểm nào đó, việc tái phân phối lợi
tức sẽ tạo ra bất mãn sâu sắc và cản trở các động cơ tăng trưởng kinh tế. Một mức
độ nào đó của việc tái phân phối lợi tức thông qua đánh thuế, sau các kết toán
thị trường, là điều có thể thực hiện và cần thiết, nhưng mức độ lý tưởng là bao
nhiêu thì đây là vấn đề chắc chắn sẽ bị tranh cãi gay gắt, và dù con số có nhiều
bao nhiêu đi nữa, việc tái phân phối lợi tức sẽ không bao giờ giải quyết được
những vấn đề cơ bản.
Phương thuốc
thứ hai, sử dụng chính sách chính phủ để thu hẹp khoảng cách giữa các cá nhân
và giữa các nhóm xã hội bằng cách đưa chính sách ưu đãi cho những thành phần
làm ăn thất bát, có lẽ còn tồi tệ hại hơn cả chính cơn bệnh. Dù bất cứ ích lợi
được viện dẫn là gì đi nữa, những phần thưởng được ủy thác cho một số loại công
dân nhất định chắc chắn tạo ra một cảm thức bất công trong phần còn lại của xã
hội. Nghiêm trọng hơn nữa là cái giá phải trả cho những phần thưởng này nếu xét
về hiệu năng kinh tế, vì theo định nghĩa, chúng sẽ đưa những cá nhân thiếu khả
năng lên những địa vị mà họ sẽ không thể vươn tới nếu chỉ dựa vào tài năng của
mình. Tương tự như thế, những chính sách cấm đoán việc sử dụng tiêu chuẩn tài
năng (meritocratic criteria) trong giáo dục, trong việc thu dụng nhân viên, và
cung cấp tín dụng – chỉ vì những tiêu chuẩn này có “tác động chênh lệch” lên số
phận của nhiều cộng đồng khác nhau hoặc vì chúng làm gia tăng hậu quả bất bất
bình đẳng xã hội – chắc chắn sẽ làm suy giảm phẩm chất của hệ thống giáo dục, lực
lượng lao động, và cả nền kinh tế.
Một phương
án chữa trị thứ ba, khuyến khích đổi mới kinh tế liên tục để làm lợi cho mọi
người, có nhiều hứa hẹn hơn hai phương án trên. Sự kết hợp giữa Internet và các
cách mạng điện toán hiện nay có thể được ví với việc khám phá ra điện, một khám
phá đã tạo điều kiện cho gần như vô số hoạt động khác, đã chuyển hóa xã hội nói
chung trong nhiều cung cách không ai tiên đoán được. Trong số những thành quả
khác, Internet đã cực kỳ nhanh chóng gia tăng tốc độ của kiến thức, một yếu tố
chủ yếu trong việc tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa chí ít kể từ thế kỷ 18.
Thêm vào đó, các viễn ảnh của các ngành khác dù còn nằm trong thời kỳ ấu trĩ,
như công nghệ sinh học (biotechnology), sinh tin học (bioinformatics), và công
nghệ nanô (nanotechnology), cũng như các viễn ảnh về tăng trưởng kinh tế tương
lai và sự cải thiện đang diễn ra của đời sống con người, đều có vẻ sáng sủa một
cách hợp lý. Tuy nhiên, thậm chí cả sự đổi mới liên tục lẫn sự phục hồi tăng
trưởng kinh tế cũng sẽ không loại bỏ hay thậm chí giảm bớt một cách đáng kể
tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế, vì sự khác biệt giữa các cá nhân,
giữa các gia đình, và giữa các tập thể sẽ vẫn cứ ảnh hưởng đến sự phát triển vốn
con người (human capital) và sự thành đạt nghề nghiệp.
Do đó, muốn
cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục giữ được tính chính đáng và đáp ứng được nguyện vọng
của các bộ phận dân chúng nói chung – kể cả những thành phần hạ lưu và trung
lưu trên nấc thang kinh tế xã hội, cũng như những thành phần thượng lưu gần
chóp bu, kẻ thua cũng như người thắng – các mạng lưới an toàn do chính phủ lập
ra nhằm giúp giảm bớt tình trạng bất an kinh tế, xoa dịu những nhức nhối do thất
bại trong thị trường và giúp duy trì cơ hội đồng đều cho mọi người, cần phải được
duy trì và được hồi sinh. Những chương trình này đã hiện hữu tại hầu hết các nước
trong thế giới tư bản tiên tiến, kể cả Hoa Kỳ, và vì thế cánh Hữu cần phải chấp
nhận rằng chúng đang đáp ứng một mục đích không thể thiếu và phải được duy trì
chứ không nên cắt bỏ – rằng những chi phí của chính phủ về phúc lợi xã hội là một
cách đối phó thích hợp với một số đặc điểm có vấn đề nội tại trong chủ nghĩa tư
bản, chứ không phải là một “con quái vật” cần phải “bỏ đói”.
Tại Hoa Kỳ
chẳng hạn, những biện pháp như an sinh xã hội (Social Security), bảo hiểm thất
nghiệp (unemployment insurance), phiếu mua thực phẩm dành cho người nghèo (food
stamps), tín chỉ giảm thuế lợi tức (the Earned Income Tax Credit), chế độ y tế
cho người nghỉ hưu (Medicare), chế độ y tế cho người già hay người tàn tật (Medicaid),
và việc nới rộng bảo hiểm do Đạo luật Cải tổ Y tế (the Affordable Care Act [hay
Obamacare]) đã giúp đỡ và xoa dịu trước hết những người kém thành công hay
không thể tham dự vào nền kinh tế hiện nay. Cắt giảm phạm vi trợ cấp của những
chương trình này là một hành vi thiếu nhân ái trong khi tình trạng bất bình đẳng
và bất an kinh tế đang gia tăng. Và nếu không vì gì khác chăng nữa, thì chính
tinh thần vị kỷ sáng suốt (the enlightened self-interest) của những ai đã hưởng
lợi nhiều nhất trong một xã hội mang tính năng động tư bản chủ nghĩa chắc chắn
sẽ giúp họ nhận ra rằng, nếu không chịu từ bỏ một số thành quả thị trường của
mình để đạt được sự ổn định xã hội và kinh tế liên tục, thì đó là một thái độ dại
dột. Các chương trình phúc lợi của chính phủ cần phải cải tổ cấu trúc, nhưng
cánh Hữu phải chấp nhận rằng một nhà nước phúc lợi rộng lượng hợp lý sẽ còn tồn
tại mãi, và tồn tại vì những lý do hết sức hợp lý.
Về phần
mình, cánh Tả cần phải tỉnh táo đối diện với thực tế là, những toan tính táo bạo
nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng có thể vừa là quá tốn kém vừa là vô ích.
Chính sự thành công của những nỗ lực trong quá khứ nhằm gia tăng sự bình đẳng về
cơ hội – như mở rộng cánh cửa giáo dục và cấm hẳn mọi hình thức phân biệt đối xử
– mang ý nghĩa là, trong các xã hội tư bản tiên tiến ngày nay, những vựa tiềm
năng to lớn và riêng rẽ chưa được khai thác càng ngày càng trở nên hiếm hoi. Vì
vậy, việc đưa thêm nhiều biện pháp hơn nữa để cải thiện sự bình đẳng có thể khó
đạt được thành quả như các biện pháp đã sử dụng trước đây, trong khi sự tốn kém
lại to lớn hơn nhiều. Và nếu những biện pháp này dẫn đến việc lấy mất nguồn lực
của những thành phần xã hội có vốn con người phong phú hơn để đưa sang những
thành phần thiếu loại vốn này, hoặc không đếm xỉa đến các tiêu chuẩn thành đạt
và tài năng, thì chúng sẽ cản trở tính năng động và đà tăng trưởng kinh tế, vốn
là nền tảng cho nhà nước phúc lợi hiện nay đứng vững.
Như vậy,
thách thức đối với chính sách của chính phủ trong thế giới tư bản tiên tiến là
làm thế nào để duy trì một mức độ năng động kinh tế nhằm cung ứng các lợi ích
ngày càng to lớn cho tất cả mọi người, đồng thời có thể chi trả những chương
trình phúc lợi xã hội cần thiết nhằm làm cho đời sống của người dân dễ thở hơn
trong tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế ngày càng gia tăng. Các quốc
gia khác nhau sẽ đối phó thách thức này bằng những đường lối khác nhau, vì mỗi
quốc gia có những ưu tiên, những truyền thống, có diện tích, và những đặc tính
dân số và kinh tế khác nhau. (Một trong những ảo tưởng của thời đại là nghĩ rằng
trong vấn đề chính sách của chính phủ, các quốc gia có thể tùy tiện vay mượn mô
hình của nhau.) Nhưng một khởi điểm hữu ích có lẽ là, phải từ bỏ cả loại chính
trị đặc quyền đặc lợi (the politics of priviledge) lẫn loại chính trị sách động
hận thù (the politics of resentment), để chấp nhận một quan điểm rõ ràng về những
gì chủ nghĩa tư bản thực sự có liên quan, chứ không mang thái độ lý tưởng hóa của
những người sùng bái chủ nghĩa này và thái độ phỉ báng của những người đả kích
nó.
_________
Jerry Z.
Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn
The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường:
Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).
Nguồn: http://www.procontra.asia/?p=2652