2. Lý thuyết đạo đức của Rand: Đức hạnh của sự vị kỉ
Tiêu đề khiêu khích Đức hạnh của sự vị
kỉ của Ayn Rand phù hợp với một luận đề khiêu khích tương tự về đạo đức. Đạo đức
truyền thống luôn luôn nghi ngờ sự tư lợi, lên án các hành động vô đạo đức vốn được thúc đẩy bởi sự
tư lợi, cũng như ca ngợi các hành động vị tha. Theo quan điểm truyền thống, một người tư lợi sẽ không cân nhắc lợi ích
của người khác và do đó sẽ coi thường hoặc gây tổn hại cho những lợi ích này
khi theo đuổi lợi ích của riêng mình.
Quan điểm của Rand là điều ngược lại mới
đúng: sự tư lợi, khi được hiểu đúng, phải là tiêu chuẩn của đạo đức và sự vị
tha là sự vô đạo đức sâu sắc nhất.
Theo Rand, sự tư lợi được hiểu đúng,
là xem mình như là một mục đích tự thân. Nghĩa là cuộc sống và hạnh phúc của mình
là các giá trị cao nhất của mình, và mình không tồn tại như một người đầy tớ
hay nô lệ cho lợi ích của người khác. Và không ai tồn tại như một người đầy tớ
hay nô lệ cho lợi ích của riêng mình. Cuộc sống và hạnh phúc của mỗi người là mục
đích cuối cùng của anh ta. Sự tư lợi được hiểu đúng cũng đòi hỏi sự tự chịu
trách nhiệm: cuộc sống của mình là của riêng mình, và vì vậy đó là trách nhiệm của
mình để duy trì và nâng cao nó. Đó là tùy thuộc vào mỗi người trong chúng ta để
xác định đâu là các giá trị mà cuộc sống của chúng ta đòi hỏi, làm thế nào tốt
nhất để đạt được những giá trị đó, và hành động để đạt được những giá trị đó.
Đạo đức học về sự tư lợi của Rand là
không thể tách rời với sự ủng hộ của bà cho chủ nghĩa tự do cổ điển. Chủ nghĩa
tự do cổ điển, thường được gọi là "chủ nghĩa tự do cá nhân" trong thế
kỷ 20, là quan điểm cho rằng cá nhân phải được tự do theo đuổi lợi ích riêng của
họ. Về mặt chính trị, điều này ngụ ý rằng các chính phủ phải bị giới hạn để đảm
bảo cho sự tự do của cá nhân khi làm như vậy (theo đuổi lợi ích riêng của họ).
Nói cách khác, tính hợp pháp đạo đức của sự tư lợi ngụ ý rằng cá nhân có quyền
đối với cuộc sống, sự tự do, tài sản, và việc theo đuổi hạnh phúc riêng của họ,
và rằng mục đích của chính quyền là bảo vệ các quyền này. Về mặt kinh tế, việc
để cho cá nhân tự do theo đuổi lợi ích riêng của họ một lần nữa ngụ ý rằng chỉ
một mình hệ thống kinh tế tư bản hay thị trường tự do mới là đạo đức: các cá
nhân tự do sẽ sử dụng thời gian, tiền bạc và tài sản khác của họ như họ thấy
phù hợp, và sẽ tương tác và trao đổi tự nguyện với người vì lợi ích tương hỗ của
họ.
a. Lý tính và đạo đức
Về cơ bản, phương tiện mà nhờ đó chúng
ta sống cuộc sống của chúng ta với tư cách là con người, là lý tính. Khả năng
duy lý là những gì cho phép chúng ta tồn tại và phát triển. Khi sinh ra chúng
ta không biết điều gì là tốt cho chúng ta; đó là điều mà chúng ta phải học. Khi
chúng ta sinh ra chúng ta không thể biết làm thế nào để đạt được những thứ tốt
cho chúng ta; đó cũng là điều mà chúng ta phải học. Đó là thông qua lý tính mà
chúng ta biết đâu là thực phầm và đâu là chất độc hại, những loài động vật nào
hữu ích hoặc nguy hiểm đối với chúng ta, làm thế nào để tạo ra các công cụ,
hình thức tổ chức xã hội nào hiệu quả, và vân vân.
Do đó, Rand ủng hộ sự tư lợi duy lý: lợi
ích của một người không phải là bất cứ điều gì mà một người tình cờ cảm thấy
thích; thay vì đó, chính nhờ lý tính mà một người xác định những gì là lợi ích
của mình và những gì không. Bằng cách sử dụng lý tính ta đưa vào trong tính
toàn tất cả các yếu tố mà ta có thể biết, dự đoán các hậu quả của các tiến
trình hành động khả dĩ, và áp dụng các chính sách hành động một cách có nguyên
tắc.
Các chính sách có nguyên tắc mà một
người áp dụng được gọi là các đức hạnh. Một đức hạnh là một đặc trưng có được
do tự tạo ra; nó là hệ quả từ việc xác định đâu là một chính sách tốt và cam kết
hành động nhất quán theo chính sách đó.
Một đức hạnh là duy lý: coi việc sử dụng
lý tính như là một sự tốt lành căn bản, và cam kết hành động theo lý tính là đức
hạnh duy lý. Một đức hạnh khác là sản suất: cho rằng các giá trị mà ta cần để tồn
tại phải được tạo ra, và cam kết tạo ra những giá trị đó là đức hạnh sản xuất.
Một đức hạnh khác nữa là sự trung thực: cho rằng sự thật là sự thật và cho rằng
cuộc sống của ta phụ thuộc vào việc hiểu biết và hành động phù hợp với sự thật,
và cam kết với sự thật là đức hạnh trung thực.
Sự độc lập và toàn vẹn cũng là đức hạnh
cốt lõi trong giải thích của Rand về sự tư lợi. Cho rằng ta phải suy nghĩ và hành
động dựa trên những nỗ lực của chính mình, và cam kết với chính sách hành động
độc lập là một đức hạnh. Và cho rằng mọi người phải xác định đâu là lợi ích của
mình và hành động để đạt được chúng, và một chính sách cam kết hành động trên
cơ sở niềm tin của ta là đức hạnh toàn vẹn. Các chính sách trái ngược, với việc
tin một điều và làm một điều khác là một sự xấu xa đạo đức giả; và theo quan điểm
của Rand đạo đức giả là một hành vi tự
phá hoại.
Công bằng là một đức hạnh từ lợi cốt
lõi khác: theo giải thích của Rand, công bằng có nghĩa là một chính sách phán
quyết về con người, bao gồm cả bản thân mình, theo các giá trị và hành động của
họ. Chính sách đối lập, với việc trao cho con người nhiều hơn hoặc ít hơn những
gì họ xứng đáng là không công bằng. Đức hạnh cuối cùng trong danh sách của Rand
là sự tự hào, theo lời của Rand, đó là chính sách với "tham vọng đạo đức".
Điều này có nghĩa là một chính sách mà cam kết làm cho chính tôi trở thành người
tốt nhất có thể, định hình tính cách của tôi tới mức cao nhất có thể.
Tóm lại, theo giải thích của Rand, người đạo đức là người hành động và cam
kết hành động theo sự tự lợi ích tốt nhất của mình. Đó là bởi sống theo đạo đức
tư lợi mà ta tồn tại, thịnh vượng, và đạt được hạnh phúc.
Hiện nay giải thích này về sự tư lợi
là một quan điểm thiểu số. Quan điểm trái ngược thường xem sự tư lợi tương phản
với đạo đức, cho rằng một người là đạo đức chỉ khi anh ta hy sinh sự tư lợi của
bản thân cho lợi ích của người khác, hay ôn hòa hơn, khi chủ yếu hành động vì lợi
ích của người khác. Ví dụ, phiên bản đạo đức chuẩn cho rằng một người là đạo đức
khi anh ta đặt lợi ích của mình sang một bên để phục vụ Chúa, hay kẻ yếu và người
nghèo, hay xã hội. Theo các giải thích này, lợi ích của Chúa, người nghèo, hoặc
toàn xã hội được cho là có ý nghĩa đạo đức lớn hơn so với lợi ích của cá nhân
người đó, và do đó một cách đúng đắn thì lợi ích cá nhân của người đó sẽ phải hy
sinh khi cần thiết. Do đó, lý thuyết đạo đức vị tha này tin rằng ta nên xem mình
về cơ bản như là một tôi tớ, tồn tại để phục vụ lợi ích của người khác, mà không
phải là lợi ích của chính mình. "Sự phục vụ vị tha cho những người
khác" hay "sự hy sinh quên mình" là những cụm từ mà cách giải
thích này dùng để chỉ các hành động và động cơ đúng đắn.
Sự khác biệt cốt lõi giữa quan điểm tư
lợi của Rand và quan điểm vị tha có thể được nhìn thấy trong lý do tại sao hầu
hết những người ủng hộ sự vị tha nghĩ sự tư lợi là xấu xa, đó là: sự xung đột lợi
ích.
b. Xung đột lợi ích
Đạo đức truyền thống xem sự xung đột
lợi ích là cố hữu trong sự tồn tại của con người, và coi đạo đức là giải pháp:
các nguyên tắc đạo đức cơ bản sẽ cho chúng ta biết lợi ích của ai nên phải hy
sinh để giải quyết xung đột. Ví dụ, nếu có một sự xung đột căn bản giữa những
gì Thượng đế muốn và những gì con người muốn, thì đạo đức tôn giáo sẽ đưa ra một
nguyên tắc căn bản là ước muốn của con người cần phải hy sinh cho ước muốn của
Thượng đế. Nếu có một sự xung đột căn bản giữa những gì xã hội cần và những gì
cá nhân muốn, thì một số phiên bản đạo đức thế tục sẽ đưa ra một nguyên tắc căn
bản là mong muốn của cá nhân cần phải hy sinh cho nhu cầu của xã hội.
Việc coi sự xung đột lợi ích là cố hữu
hầu như luôn luôn bắt nguồn từ một trong hai niềm tin: đó là bản chất con người
về cơ bản là mang tính phá hoại, hoặc là các nguồn lực kinh tế là khan hiếm. Nếu
bản chất của con người về cơ bản là mang tính phá hoại, thì con người tất yếu xung
đột với nhau. Nhiều triết lý đạo đức bắt đầu từ tiền đề này - ví dụ, huyền thoại
về Gyges của Plato, giải thích của người Do Thái và Kitô giáo về Tội lỗi tổ
tông, hay giải thích của Freud về id. Nếu những gì mà cá nhân từ bản chất muốn
làm với nhau là hãm hiếp, trộm cướp, và giếp chóc, thì để có một xã hội những
ham muốn cá nhân này cần phải bị hy sinh. Do đó, một nguyên tắc cơ bản của đạo
đức là thúc giục cá nhân kìm chế những ham muốn tự nhiên của mình để xã hội có
thể tồn tại. Nói cách khác, tự lợi là kẻ thù, và phải hy sinh cho những thứ
khác.
Nếu nguồn lực kinh tế là khan hiếm, thì
sẽ không đủ cho tất cả. Sự khan hiếm này đó đặt con người vào trong một cuộc
xung đột căn bản với nhau: vì để thỏa mãn nhu cầu của người này, thì nhu cầu của
người khác phải hy sinh. Nhiều triết lý đạo đức bắt đầu với tiền đề này. Ví dụ,
những người theo sau lý thuyết của Thomas Malthus tin rằng tốc độ tăng trưởng
dân số vượt xa tốc độ tăng trưởng lương thực. Giải thích của Mác về xã hội tư bản
là sự cạnh tranh tàn bạo dẫn đến việc khai thác của một số người đối với người
khác. Garret Hardin sử dụng ví dụ thuyền cứu sinh để bảo chúng ta tưởng tượng rằng
xã hội giống như một chiếc thuyền cứu sinh với nhiều người hơn mà nó có thể chứa.
Và như vậy để giải quyết sự cạnh tranh chết chóc này do việc thiếu nguồn lực gây
ra, một nguyên tắc cơ bản của đạo đức là thúc giục các cá nhân phải hy sinh lợi
ích của mình để những người khác có thể đạt được nhiều hơn và xã hội có thể tồn
tại một cách hòa bình. Nói cách khác, trong tình trạng khan hiếm sự tư lợi là kẻ
thù và phải hy sinh cho những cái khác.
Rand bác bỏ cả giả thiết về sự khan
hiếm nguồn tài nguyên lẫn giả thiết về cách phá hoại của bản chất con người.
Con người không được sinh ra với tội lỗi hay với các mong muốn phá hoại; họ
cũng không nhất thiết đạt được chúng trong quá trình phát triển đến trưởng
thành. Thay vào đó con người sinh ra với
Tabula Rasa ("bảng trắng"), và thông qua sự lựa chọn và hành động của
mình mà ta có được tính cách và thói quen của mình. Như Rand phát biểu,
"Con người là một hữu thể với một tâm hồn tự tác tạo". Việc có những
ham muốn ăn sâu như ăn cắp, hãm hiếp, giết người đều là kết quả của sự phát triển
sai lầm và đạt được những thói quen xấu, cũng giống như sự lười biếng kinh niên
hay thói quen ăn quá nhiều đồ ăn vặt. Và cũng giống như người ta không sinh ra với
sự lười biếng nhưng có thể lựa chọn để phát triển thành một người có sức sống
hoặc lười nhác, một người không sinh ra với đặc tính chống lại xã hội nhưng có
thể lựa chọn để phát triển thành một người hợp tác hay thích xung đột.
Theo Rand, sự khan hiếm các nguồn lực
là không có cơ sở. Bằng việc sử dụng lý tính, con người có thể khám phá những nguồn
lực mới và làm thế nào để sử dụng nguồn lực hiện có hiệu quả hơn, bao gồm cả
tái chế lẫn làm cho quy trình sản xuất hiệu quả hơn. Ví dụ, con người đã liên tục
phát hiện và phát triển các nguồn năng lượng mới, từ động vật tới gỗ, than, dầu
khí, hạt nhân, mặt trời; và không có kết thúc trong tiến trình này. Ở bất kỳ thời
điểm nào, các nguồn lực sẵn có là một lượng cố định, nhưng theo thời gian lượng
nguồn lực liên tục được mở rộng.
Bởi vì con người là duy lý nên họ có
thể sản xuất ra một lượng ngày càng tăng các hàng hóa, và như vậy lợi ích của
con người về cơ bản không mâu thuẫn với nhau. Thay vào đó, Rand cho rằng điều
ngược lại mới đúng: vì con người có thể và sẽ trở nên hữu ích, nên lợi ích của
con người về căn bản là hài hòa với nhau. Ví dụ, việc sản xuất ngô nhiều hơn của
tôi là hài hòa với việc sản xuất nhiều đậu hơn của bạn, vì cả hai chúng ta khi
sản xuất và trao đổi với nhau chúng ta đều tốt hơn. Đó là tốt cho lợi ích của bạn
khi tôi có thể thành công trong sản xuất nhiều ngô hơn, cũng là tốt cho lợi ích
của tôi khi bạn thành công trong việc sản xuất nhiều đậu hơn.
Xung đột lợi ích có tồn tại trong một
phạm vi hẹp. Ví dụ, trong một lúc nào đó có sự trạnh tranh cho một số nguồn lực,
và sự cạnh tranh tạo ra người thắng và người thua. Tuy nhiên, cạnh tranh kinh tế
là một hình thức hợp tác rộng lớn hơn, một cách để phân bổ các nguồn lực mà
không cần đến vũ lực và bạo lực. Bởi sự cạnh tranh, các nguồn lực được phân bổ một
cách hiệu quả và hòa bình, và trong dài hạn nhiều nguồn lực hơn được tạo ra. Do
đó, một hệ thống kinh tế cạnh tranh là vì lợi ích bản thân của tất cả chúng ta.
Vì vậy, Rand cho rằng đạo đức vị kỉ của
bà là cơ sở cho hạnh phúc và tự do của cá nhân và thịnh vượng xã hội.
3. Ảnh hưởng của Rand
Ảnh hưởng của những tư tưởng của Rand
khó đo đếm, nhưng nó rất lớn. Tất cả những quyển sách mà bà xuất bản khi còn sống
vẫn tiếp tục được in, đã bán được hơn hai mươi triệu bản, và tiếp tục bán hàng
trăm nghìn bản mỗi năm. Một cuộc khảo sát được tiến hành chung bởi Library of
Congress and the Book of the Month Club vào đầu những năm 1990 kêu gọi độc giả nêu
tên cuốn sách ảnh hưởng nhất đến cuộc sống của họ: Atlas Shrugged chỉ đứng thứ
hai sau Kinh Thánh. Các trích đoạn từ tác phẩm của Rand thường xuyên được in lại
trong sách giáo khoa và các tuyển tập đại học, và một số tập được xuất bản sau khi
bà mất có chứa các tác phẩm, các bài báo, và thư từ trong thời kì đầu của bà.
Những người được truyền cảm hứng từ ý tưởng của bà đã xuất bản nhiều cuốn sách
thuộc nhiều lĩnh vực học thuật và thành lập một số viện nghiên cứu. Đáng chú ý
trong số này là Viện Cato, có trụ sở tại Washington, DC, một think tank tự do cá
nhân hàng đầu trên thế giới. Rand, cùng với người đạt giải Nobel Friedrich
Hayek và Milton Friedman, là những người quan trọng trong việc thu hút các thế
hệ cá nhân đến với phong trào tự do cá nhân. Cũng đáng chú ý là Viện Ayn Rand,
được thành lập vào năm 1985 bởi nhà triết học Leonard Peikoff và có trụ sở tại
California, và The Objectivist Center, thành lập vào năm 1990 bởi nhà triết học
David Kelley và có trụ sở tại New York.
(hết)
Nguồn: http://www.iep.utm.edu/rand/