GS.TS Wendy N. Duong*
I. Giới thiệu
Hiến pháp Hoa kỳ được soạn thảo
bởi học giả-chính trị gia James Madison[1] vào năm 1787. Bản Hiến pháp này gồm bảy Điều và 27 Tu
chính án, là một văn kiện sống còn, tồn tại song song với lịch sử của nước Mỹ
và được áp dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày. Hiến pháp Hoa Kỳ đã được
nghiên cứu, trích dẫn, và được sử dụng như một mô hình cho các
Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Đây là một văn kiện được xây dựng từ
bốn lĩnh vực chủ chốt của nước Mỹ: pháp luật, lịch sử, chính phủ, và
văn hóa:
1) Tài liệu luật học: Hiến pháp là pháp luật tối cao của đất
nước[2] và được hình thành như một quy định cho xã hội: quy định
đó bắt buộc các cá nhân và chính phủ phải tuân theo quyền lực tối cao
nhất của pháp luật.
2) Tài liệu lịch sử: Hiến pháp chính là tác phẩm
nghiên cứu học thuật của những người sáng lập nên nước Mỹ, đại
diện cho các tiểu bang, và, do đó, đã tồn tại hơn
200 năm trong lịch sử Hoa kỳ[3];
3) Tài liệu chính tri và triết học: Hiến pháp thiết lập cấu
trúc cơ bản của chính phủ Mỹ và đưa ra triết
lý chính trị: chính phủ Mỹ được xây dựng trên mô hình cộng
hòa, đại diện cho nhân dân theo phương thức “liên bang,” dựa
trên nguyên tắc “phân quyền” để kiểm soát và quân bằng hóa ba cơ chế tạo
nên nhà cầm quyền nước Mỹ. Chính phủ Mỹ kết hợp (a) “thể chế
liên bang” (nghĩa là, phân chia theo chiều dọc quyền lực của chính phủ
quốc gia và chủ quyền nhà nước của các tiểu bang)[4], với (b) “thể chế phân quyền” (tức là, phân chia theo chiều
ngang quyền lực giữa ba ngành của chính phủ: lập pháp,
hành pháp và tư pháp).
4) Tài liệu văn hóa và xã hội: Hiến pháp thể hiện nét đặc
trưng cho văn hóa Mỹ, một xã hội mà người dân tự quyết định cho
chính mình. Theo những người sáng lập nước Mỹ, thì Hiến pháp tiêu biểu
cho tiếng nói của người dân nhằm hạn chế quyền lực của chính
phủ và khẳng định quyền tự do cá nhân cho dân (đây là ý
chính của 10 Tu chính án đầu tiên thêm vào Hiến pháp, được gọi là
“Tuyên ngôn Nhân quyền”, cũng là tác phẩm của Madison). Những lời
vào đề Hiến pháp được người Mỹ luôn ghi nhớ: “Chúng tôi, nhân
dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nỗ lực đoàn kết bên nhau để tạo nên
một Liên bang thống nhất, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước
và sự phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong liên bang, giữ
vững nền tự do cho bản thân và các thế hệ mai sau, quyết định xây dựng và ban hành
bản Hiến pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.”
Vì vậy, để hiểu Hiến
pháp Mỹ, người ta phải hiểu khái niệm: (i) phân quyền
lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ), (ii)
chủ thuyết liên bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung
ương và chính phủ các tiểu bang), (iii) cơ chế toà án bảo hiến ( cơ chế mà
qua đó Hiến pháp được hiểu, áp dụng và tôn trọng),
và (iv) Bản Tuyên ngôn Quyền (nói lên mối quan hệ giữa
chính phủ và cá nhân).
II.Tóm tắt bảy Điều và 27 Tu
chính án
Tóm tắt các điều khoản của Hiến
pháp:
– Điều I thiết lập
nhánh lập pháp liên bang.
– Điều II thiết lập nhánh
hành pháp liên bang.
– Điều III thiết lập
nhánh tư pháp liên bang.
– Điều IV gồm “Khoản tin tưởng
và tôn trọng tuyệt đối,” bắt buộc các tiểu bang phải tin tưởng và áp dụng tuyệt
đối các điều luật, hồ sơ và thủ tục tố tụng lẫn nhau. Điều IV cũng
quy định “Khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ,” có nghĩa là công dân của mỗi tiểu
bang sẽ được hưởng mọi đặc quyền phúc lợi và các đặc quyền có tác dụng miễn trừ
trước pháp luật y hệt như công dân của các tiểu bang khác.[5] Điều IV áp dụng vào việc bảo đảm không có sự phân
biệt kỳ thị trong cách các tiểu bang đối xử với các công dân, từ tiểu bang này
đến tiểu bang khác.[6]
– Điều V đặt nền móng
cho việc sửa đổi Hiến pháp.
– Điều VI tạo
nên quy chế tối cao cho Hiến pháp (cũng như các hiệp ước quốc tế
và các đạo luật liên bang, được ký kết hoặc ban hành theo như Hiến
pháp đã quy định).
– Điều VII yêu cầu sự
phê chuẩn của chín tiểu bang cho việc thành lập Hiến pháp.
(Lúc đó liên bang Hoa kỳ chỉ có chín tiểu bang.)
Tóm tắt cơ chế sửa đổi Hiến
pháp:
Cơ chế đưa ra tu chính án
được nêu trong Điều V, với mục đích duy trì để cho Hiến pháp được
tồn tại lâu dài.
Mỗi Tu chính án của Hiến pháp phải được
đề xuất rồi thông qua bởi hai phần ba thành viên
của cả hai viện, Thượng viện và Hạ viện, hoặc bởi hai phần ba
các tiểu bang, và sau đó phải được phê chuẩn bởi ba phần
tư các tiểu bang. Như vậy quá trình Tu chính án gồm hai bước:
• Bước thứ nhất:
các tu chính án được đề xuất từ hai phần ba nghị sĩ
trong cả hai viện của Quốc hội, hoặc bằng hội nghị
đặc biệt của các cơ quan lập pháp của hai phần ba các tiểu
bang.
• Bước thứ hai: các tu
chính án phải được phê chuẩn bởi các cơ quan lập
pháp của ba phần tư các bang, hoặc thể hiện trong hội nghị
của các bang đó.[7] Hiến pháp không quy định cho Tổng thống có
vai trò gì cả trong quá trình đưa ra tu chính án.
Tóm tắt các tu chính án: 27 tu chính án dưới đây, không
chỉ phản ánh sự cải tiến trong các quy định của Hiến pháp, mà còn thể hiện
tíến trình lịch sử của nước Mỹ. Ví dụ, một số tu chính án
được đưa ra sau cuộc Nội chiến Mỹ về vấn đề nô lệ tại các
bang miền nam.
Tu chính án thứ nhất đảm bảo tự do cá nhân về vấn
đề tôn giáo, ngôn luận, báo chí, hội họp trong hòa bình, và
quyền được tự do “kiến nghị lên chính phủ để khắc phục những
bất bình của dân.” Các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất được bảo đảm, tuy nhiên, không
phải là tuyệt đối[8]. Tu chính án thứ nhất được tóm tắt như sau:
(i) điều khoản “Tự do ngôn
luận” cho cá nhân và báo chí, nhằm bảo vệ những phát biểu bằng
ngôn ngữ (và cả những phát biểu phi ngôn ngữ, qua hành động thay vì lời nói).
(ii) điều khoản “Thiết lập” (đúng
hơn nên gọi là “khoản không thành lập”), để quy
định việc thiết lập Hoa Kỳ là một chính phủ thế tục, tách
riêng khỏi tôn giáo; và
(iii) điều khoản “Miễn can thiệp”
có ý nghĩa ngăn cấm sự can thiệp của chính phủ vào vấn
đề tự do tôn giáo. [9]
Tu chính án thứ 2 đảm bảo quyền của dân
chúng được phép mang vũ khí, và điều này được coi như tạo nền tảng cho lực
lượng dân quân.[10]
Tu chính án thứ 3 đảm bảo quyền của
dân chúng không bị bắt buộc phải chứa binh sĩ ở lại trong
tư gia khi không có sự đồng ý của gia chủ. Đây là điều Hiến pháp
quy định cấm chính phủ không được biến nhà dân thành đồn lính để
dân thành quân đội nhằm phục vụ chính phủ mà không cần lệnh động viên, thời chiến
hay thời bình cũng vậy.
Tu chính án thứ 4 đảm bảo tài sản và
tính mạng của người dân sẽ không bị tịch thu hay bắt bớ, không bị bắt giữ
hay tịch thu tài sản mà không có lệnh của tòa dựa trên lý do chính đáng,
khả thi. Những lệnh tòa ấy phải “mô tả chi tiết nơi bị
lục lọi tìm kiếm, cùng với cá nhân sẽ bị bắt giữ hay các thứ bị tịch thu.”
Tu chính án thứ 5 đảm bảo quyền của người bị
cáo buộc là tội phạm trước pháp luật:
– Việc xét xử một cá nhân bị buộc tội
phải được đưa ra trước một bồi thẩm đoàn;
– Người dân được bảo vệ không
phải chịu cái gọi là “song án hay song thức nguy cơ” trong quá trình luận tội”, có nghĩa rằng
họ không thể bị truy tố cùng một tội đến những hai lần;
– Người dân không bị bắt buộc
làm nhân chứng chống lại chính mình, và do đó có thể giữ im lặng trong
suốt quá trình tố tụng hình sự (quyền này thường được dân Mỹ mô
tả cũng là quyền được dựa trên “Điều thứ năm” để khỏi nói năng gì cả với cảnh
sát khi bị bắt bớ).
– Nhà nước không thể tước đi cuộc
sống của một người, sự tự do hoặc tài sản của họ mà
không theo đúng quy định của pháp luật (Điều khoản “Tiến trình
xét xử”).
Tu chính án thứ 5 cũng có “điều khoản về
trưng thu tài sản của dân” cấm chính phủ không được lấy tài sản tư
nhânngoài mục đích công cộng mà không có bồi thường đúng đắn.[11] Điều khoản Hiến pháp về trưng thu được áp dụng mỗi khi
chính phủ lấy tài sản của dân, toàn phần hay chỉ một phần, ngắn hạn hay vĩnh viễn,
tài sản hữu hình hoặc trừu tượng thì cũng thế, tất cả đều được bảo vệ.[12]
Tu chính án thứ 6 đảm bảo quyền của bị
cáo được xét xử công khai, công bằng và nhanh chóng trước một
bồi thẩm đoàn công minh, cũng như quyền được biết lý do và tính chất
việc truy tố, quyền được đối chấp người tố cáo và đưa ra nhân chứng, và
quyền được tư vấn bởi một luật sư có khả năng.
Tu chính án thứ 7 đảm bảo quyền được bồi thẩm đoàn xét
xử trong một phiên tòa dân sự.
Tu chính án thứ 8 cấm việc áp dụng một số tiền
bảo lãnh quá đắt cho bị cáo được tại ngoại hầu tra, hoặc một số tiền phạt quá lớn
vượt mức hợp lý, hoặc hình phạt độc ác bất nhân “bất bình thường, dã man, tàn bạo”. Nói
khác đi, hình phạt phải cân xứng với tội danh (đây là Điều khoản cấm
“xử phạt dã man và bất thường”).[13]
Tu chính án thứ 9 đảm bảo rằng việc Hiến
pháp liệt kê các quyền cá nhân không ảnh hưởng gì đến các quyền
sẵn có khác của dân. Do đó, Hiến pháp được coi như mẹ đẻ của pháp luật, không
thể đem ra làm công cụ khống chế người dân, hay công cụ hạn chế các quyền sẵn
có của dân (các quyền tạo ra bởi luật tự nhiên hay thông luật có sẵn từ trước).
Tu chính án thứ 10 đảm bảo rằng Hiến
pháp không thay thế quyền hạn sẵn có của “các tiểu bang hay người
dân”. Vì vậy, Hiến pháp không cấm các tiểu bang soạn thảo luật của
riêng mình, nếu địa hạt ấy không bị Hiến pháp cấm đoán. Như thế, Tu chính án thứ 10 chứng
minh cho chủ thuyết liên bang: việc phân chia quyền lực giữa tiểu bang và
liên bang, để dành lại cho các tiểu bang toàn thể chủ quyền nhà
nước, trong tất cả các địa hạt mà Hiến pháp không ủy quyền cho chính
phủ quốc gia.
Tu chính án thứ 11 không cho phép công
dân của một tiểu bang khởi kiện một tiểu
bang khác bằng cách khởi tố ở tòa án liên bang.[14]
Tu chính án thứ 12 thiết lập các Đoàn cử
tri thay mặt dân dồn lá phiếu cho Tổng Thống và Phó Tổng thống.
Tu chính án thứ 13: bãi bỏ chế độ nô lệ (đây
là điều khoản Hiến pháp độc nhất được áp dụng cho chính quyền cũng như tư
nhân).
Tu chính án thứ 14 bao gồm “điều khoản bảo
vệ bình đẳng” và “điều khoản bảo đảm tiến trình xét xử pháp luật” áp dụng vào
các tiểu bang.[15] Tu chính án thứ 14 cũng quy định tất cả các đặc
quyền phúc lợi và miễn trừ bất khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ áp
dụng vào các tiểu bang (“Điều khoản đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”).[16] Do đó, Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã
giải trình Tu chính án thứ 14 để mở rộng sự bảo vệ của Tuyên
ngôn về quyền tới tất cả các cấp nhà nước tiểu bang. Đặc biệt, Tòa án
Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã sử dụng Điều khoản “Tiến trình Xét xử” để làm
cơ sở cho quyền tự do đời tư được trở thành quyền hiến định, bảo đảm chống lại
mọi can thiệp hoặc điều tiết của luật lệ tiểu bang.[17]
Tu chính án thứ 15 đảm bảo quyền được
bỏ phiếu của tất cả các công dân (bao gồm cả” những người “công dân mới được
trả tự do (trước kia vẫn còn là nô lệ)” sau cuộc nội chiến).
(Các tu chính án thứ 13,
14, và 15 được gọi là “các tu chính án sau nội chiến.”)
Tu chính án thứ 16 thiết lập quyền đánh
thuế của Quốc hội.
Tu chính án thứ 17 thiết lập quy
trình cho các cuộc bầu cử trực tiếp nhằm chọn lựa Thượng
nghị sĩ Mỹ.
Tu chính án thứ 18 cấm chất rượu cồn (sau đó đã được bãi
bỏ để hợp pháp hóa việc bán và dùng rượu trong Tu chính án thứ 21.
Tu chính án thứ 19 thiết lập quyền phụ nữ được
bầu cử.
Tu chính án thứ 20 thiết lập bổ xung các
điều khoản thời hạn tại chức của Tổng thống, Phó Tổng thống, và Quốc hội.
Tu chính án thứ 21 bãi bỏ tu chính án thứ 18
và hợp pháp hóa việc sử dụng và mua bán rượu.
Tu chính án thứ 22 quy định việc giới hạn thời
gian tại chức của Tổng thống.
Tu chính án thứ 23 thiết lập số người đại
diện cử tri ở Washington, DC cho cuộc bầu cử Tổng thống. Tu
chính án này cho phép Đặc khu thủ đô Columbia có ba phiếu đại diện cử
tri.
Tu chính án thứ 24 loại bỏ thuế thân (đóng
thuế để được đi bầu cử) nhằm tạo dựng sự bình đẳng của công dân trong quyền
bầu cử sau cuộc nội chiến ở Mỹ.
Tu chính án thứ 25 thiết lập các quy tắc
cho sự kế nhiệm Tổng thống, được áp dụng trong trường hợp Tổng
thống bị bãi nhiệm, chết, từ chức, hoặc thương tật tạm thời hay
vĩnh viễn.
Tu chính án thứ 26 quy định việc giảm tuổi bầu
cử xuống còn 18 tuổi (kết quả của luật động viên trong thời gian
chiến tranh tại Việt Nam).
Tu chính án thứ 27 quy định thay đổi
lương bổng của Quốc hội: Quốc hội có thể bỏ phiếu để tăng lương
cho các thành viên của chính mình, nhưng việc tăng lương sẽ chỉ có
hiệu lực sau cuộc bầu cử (tức là việc tăng lương sẽ
không có hiệu lực cho đến sau khi các nghị sỹ đã hết nhiệm kỳ).
III. Diễn giải Hiến pháp Hoa Kỳ và Bộ
máy Chính phủ Liên Bang
A. Chủ thuyết phân chia quyền lực
1. Quốc hội Mỹ bao gồm Hạ Nghị viện
và Thượng Nghị viện. Một Viện không thể hoạt động đơn
phương mà không có sự kết hợp dựa theo nguyên tắc lưỡng viện. Cả
hai cơ quan lập pháp này phải đồng ý giải tán thì mới hết hạn làm việc
được (ví dụ, một Viện không thể ngừng hoạt động trong
khi Viện kia vẫn đang làm việc). Người phát ngôn của Hạ viện là viên
chức hàng đầu của Hạ viện. Hạ viện có 435 thành
viên được bầu dựa trên dân số. Thượng viện có 100 thành viên (số
thượng nghị sĩ đại diện cho mỗi tiểu bang là hai người, được lấy từ 50 bang,
không lệ thuộc vào dân số). Phó Tổng thống Mỹ là Chủ tịch Thượng
viện.[18] Mọi dự luật về tăng thuế đều phải do Hạ viện khởi
xướng. Ngoài việc soạn thảo luật, Hiến pháp còn quy định quyền hạn cụ
thể cho Quốc hội: ví dụ, quyền tạo ra luật bản quyền tác giả (“Điều
khoản Bản quyền”); quyền gây quỹ, chi tiêu, và phát hành tiền tệ; quyền
tuyên chiến và đưa ra các quy định đối với Bộ binh và Hải quân; và quyền
điều chỉnh giao dịch thương mại với nước ngoài và giữa những tiểu
bang với nhau (Điều khoản Thương mại xuyên bang). Điều I chứa đựng
“Điều khoản cần thiết và thích hợp” (đôi khi còn được gọi
là “Điều khoản cân đối”), cho phép Quốc hội “soạn thảo tất cả các điều luật được
cho là cần thiết và thích hợp để thực hiện… tất cả
các quyền hạn mà Hiến pháp đã ban cho chính phủ liên bang.[19] Còn có “Điều khoản ngôn luận và tranh luận“ cho
phép các thành viên của Quốc hội làm nhiệm vụ lập
pháp của họ “mà không bị thẩm vấn bất kỳ tại đâu”. Điều khoản này
có hiệu quả tạo ra tính miễn trừ tuyệt đối cho các nghị sĩ
không bị thưa kiện dù là dân sự hoặc hình sự. Ứng viên phải đủ 25 tuổi nếu
muốn được bầu vào Hạ viện và ít nhất là 30 tuổi để được ứng cử vào Thượng
viện.
2. Tổng thống có vai trò rất quan trọng bởi
vai trò của nước Mỹ là đại cường quốc trong các vấn đề toàn cầu – nhà
lãnh đạo nước Mỹ thường được coi là một trong những nhà lãnh đạo
thế giới. Tổng thống không chỉ nắm quyền lực mà cũng phải thi hành
công vụ hành pháp (Điều II, Khoản 3). Ứng cử viên Tổng thống ít
nhất phải đủ 35 tuổi và không thể là một cá nhân sinh đẻ ở ngoại
quốc rồi trở thành công dân Mỹ về sau.
Hiến pháp cũng nêu lên và hạn
định vai trò và quyền lực của Tổng thống. Ví dụ, Tổng
thống là Tổng tư lệnh quân đội, làm việc với Quốc hội trong việc soạn
thảo luật, có trọng trách ký kết các hiệp ước quốc tế (nếu có biểu
quyết đồng ý của hai phần ba thượng nghị sĩ) và bổ nhiệm Thẩm
phán Tòa án Tối cao cùng các Đại sứ theo “sự ưng thuận và lời
khuyên của Thượng viện”. Ngoài những quyền hạn được quy định trong Hiến
pháp, Tổng thống còn có quyền lực tiềm ẩn về đối ngoại, vì được xem là
nguyên thủ quốc gia, mặc dù điều quyền đối ngoại này không thể hiện rõ bằng văn
bản trong Hiến pháp.[20] Hơn nữa, cho dù Hiến
pháp trao cho Quốc hội quyền”tuyên chiến,” Tổng thống cũng
có quyền “tham ra cuộc chiến” để đẩy lùi các cuộc xâm lược nhằm phòng
thủ và bảo vệ nước Mỹ trong thẩm quyển của môt vị Tổng Tư lệnh quân
đội.[21]
Khi người Mỹ bỏ phiếu cho Tổng
thống của họ, thực sự họ chỉ bỏ phiếu cho một Đại cử tri
đoàn, tức là một nhóm nhỏ người dân đến từ các bang, được
tham gia bỏ phiếu chính thức cho Tổng thống
và Phó Tổng thống cho cả nước trong vai trò đại biểu của cử
tri. Hệ thống bầu cử qua đại biểu tiểu bang này (gọi là cơ chế
đầu phiếu qua hình thức “Đại cử tri”) được dùng và coi như là quy luật đảm bảo quyền
biểu quyết của các tiểu bang ít dân cư.[22]
Tổng thống hoàn toàn được
miễn trừ (không bị thưa kiện đòi bồi thường thiệt hại) trong các hoạt động hành
pháp khi tại chức, trừ phi Tổng thống bị giải nhiệm vì các hoạt động có tính
cách lợi dụng công vụ, tham nhũng hay lạm dụng công quyền. Tuy nhiên, Tổng thống
vẫn có thể bị kiện vì những hành vi xảy ra trước khi đắc
cử, hoặc các hành vi không liên quan đến công vụ của Tổng thống. Tổng thống chỉ
có thể phục vụ hai nhiệm kỳ liên tiếp, tổng cộng là tám
năm. Tổng thống chỉ có thể sẽ bị bãi nhiệm nếu bị Hạ viện luận tội
truy tố và sau đó Thượng viện biểu quyết với hai phần ba số
phiếu đồng ý bãi nhiệm Tổng thống của các thượng nghị sĩ.
3. Tư pháp: Tòa án Tối cao liên bang
Hoa Kỳ là tòa án độc nhất được trực tiếp thành lập bởi Hiến
pháp. Tuy nhiên, Điều III của Hiến pháp cũng cho
phép Quốc hội được lập ra đạo luật nhằm “phong chức và thiết lập” các
tòa án liên bang cấp dưới (ngay trong năm 1789, sau khi Hiến
pháp đã ra đời, Quốc hội lập tức ban hành Đạo luật Tư pháp và
thiết lập nên ngành tư pháp liên bang). Vì vậy, Tòa
án liên bang và Tòa án tiểu bang cùng tồn tại trong một thể chế mà
không bên nào gây xung khắc cho bên nào.[23] Chủ thuyết “bảo hiến bằng tư pháp” của nước Mỹ vì thế được
ra đời, gán cho Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ thẩm quyền
giải thích và thi hành Hiến pháp – đó là cơ quan chính phủ độc nhất có thẩm quyền
quyết định tối hậu về vấn đề liệu hành động của chính phủ có hợp hiến
hay không.
Vấn đề kiểm soát và đối trọng quyền
lực nhà nước:
Việc phân chia quyền lực theo thuyết “kiểm soát và đối trọng quyền lực lẫn
nhau” trong triết lý luật học Hoa Kỳ không phải chỉ nằm ở cách Hiến pháp phân
quyền cho ba nhánh, mà còn ở việc Hiến pháp đòi hỏi ba nhánh phải làm
việc với nhau: ba nhánh “kết hợp và trao đổi lẫn nhau” để đảm
bảo rằng mỗi nhánh luôn chịu sự kiểm soát của nhánh khác. Sau
đây là bốn ví dụ điển hình:
1) Một dự luật chỉ có thể trở
thành luật nếu Quốc hội thông qua (với hơn 50% số
phiếu). Tuy nhiên, Tổng thống phải ký vào dự luật để
ban hành luật. Vì thế, Tổng thống có quyền “phủ quyết” bằng cách
không ký tên. Trong trường hợp này, Quốc hội phải xem xét lại dự
luật, và chỉ có thể vượt quyền phủ quyết của Tổng thống với hai phần
ba số phiếu của các thành viên Quốc hội. Việc biểu quyết “vượt trên
đa số phiếu” của Quốc hội này là để đảm bảo rằng Quốc hội xem
xét lại các dự luật một cách thật chặt chẽ, nếu muốn bác quyền phủ quyết của Tổng thống.
2) Thẩm phán Tòa án tối cao liên bang
Hoa kỳ chịu trách nhiệm cuối cùng cho việc kiểm tra tính
hợp hiến của cả luật liên bang lẫn luật tiểu bang. Hiến
pháp guy định rằng họ được bổ nhiệm cả đời, được tại chức cho đến ngày qua đời.
Điều này nhằm duy trì tính độc lập cho công việc của họ, nhưng họ
lại phải được Tổng thống đương nhiệm đề cử và sau
đó phải được sự chấp thuận của Thượng viện.
3) Trong trường hợp Tòa án Tối
cao liên bang Hoa kỳ tuyên bố rằng một hành vi nào đó của chính phủ là vi
hiến, thì Quốc hội và các tiểu bang – qua các đại biểu cho nhân
dân – vẫn có thể lấy trưng cầu dân ý để sửa đổi Hiến pháp nhằm hủy
bỏ án lệ của tòa án tối cao liên bang theo ý của nhân dân (qua các đại biểu).[24]
4) Mặc dù Tòa án tối cao
liên bang đứng độc lập, và Hiến pháp thiết lập thẩm quyền của Tòa án
này, nhưng Hiến pháp cũng cho phép Quốc hội quyền soạn thảo luật tạo
nên các trường hợp ngoại lệ để sửa đổi tài phán thẩm quyền của Tòa
án liên bang tối cao. Như vậy Hiến pháp cho Quốc hội nắm quyền kiểm
soát vấn đề tài phán thẩm quyền của các tòa án liên bang.
B. Thể chế liên bang
Điều VI, gọi là “Điều khoản quyền tối
cao” đưa ra các nguyên lý cơ bản của thể chế liên bang Hoa Kỳ:
Hiến pháp, luật liên bang, và các hiệp ước quốc tế được thực hiện theo
quy định của luật liên bang, tất cả được coi là có hiệu lực “tối cao.” Do đó,
Điều khoản này được hỗ trợ bởi học thuyết gọi là “học thuyết phủ đầu”.
Học thuyết này có nghĩa như sau: Nếu một đạo luật liên bang quy định,
đưa ra chỉ tiêu trái ngược hẳn với luật tiểu bang trong cùng một vấn đề, cùng một
địa hạt, và địa hạt ấy Hiến pháp đã quy định phải là phạm vi của liên bang, thì
luật nào hơn, dân phải theo luật nào, tiểu bang hay liên bang? Trong trường hợp
ấy, toà án có thể sử dụng “Học thuyết phủ đầu”[25] để giải quyết xung đột theo nguyên lý như sau: Nếu các
điều kiện áp dụng học thuyết được giải tỏa thỏa đáng theo thông luật, thì tòa
án sẽ áp dụng học thuyết này để cho luật liên bang được “phủ đầu” luật tiểu
bang, và dân sẽ phải theo quy luật liên bang, còn luật tiểu bang thì kể như phải
bỏ đi. Mặc dầu như thế có nghĩa là chính phủ liên bang giữ vai trò đứng đầu,
các tiểu bang vẫn giữ quyền tự trị như quốc gia có chủ quyền, chứ không lép vế
hoặc bị “phủ đầu” trở thành phụ thuộc vào liên bang trong các lãnh vực khác,
thí dụ như các lãnh vực thuộc về quyền cảnh sát của nhà nước (an ninh trật tự,
sức khỏe cho dân…). Quyền nhà nước ấy vẫn thuộc về tiểu bang.
Thể chế liên bang có nghĩa là quốc
gia bao gồm hai cơ cấu chính phủ riêng biệt: chính phủ trung ương quốc
gia và nhiều chính phủ tiểu bang riêng biệt, mỗi bên đều độc lập. Theo lời
của thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa kỳ, Ngài Anthony Kennedy, thì các
nhà soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ đã “cắt đôi cái nhân nguyên tử gọi là quyền
lực quốc gia.”[26] Mặc dù các chủ quyền quốc gia cơ bản như
tuyên chiến, giữ hòa bình với nước ngoài, hoặc điều chỉnh trông coi
các vấn đề thương mại xuyên tiểu bang – đây là những vấn đề tiên quyết đã
được giao phó cho chính phủ liên bang, thì trách nhiệm quản
lý lãnh thổ hàng ngày và giữ an ninh trật tự cho dân địa phương vẫn là quyền và
nhiệm vụ của các tiểu bang. Quyền lực của chính phủ trung ương quốc gia được
quy định hạn chế rõ ràng trong Hiến pháp, và, do đó, chính quyền liên bang
không thể can thiệp vào chủ quyền độc lập của tiểu bang. Theo Hiến
pháp, quyền lực của chính phủ trung ương liên bang không thể lấn lướt hoặc thay
thế chủ quyền của tiểu bang, và các chính phủ tiểu bang vẫn được nắm nguyên tất
cả những quyền lực quốc gia mà Hiến pháp không giao cho chính phủ liên bang, hoặc
không giữ lại cho dân (có nghĩa là những quyền mà theo Hiến pháp, dân đã không
đồng ý giao cho nhà nước bang khế ước xã hội, lấy thí dụ, những quyền tự do cá
nhân cơ bản trong Bản Tuyên ngôn Quyền con người).
Một đặc điểm của thể
chế liên bang được thể hiện tại Điều I của Hiến pháp Hoa Kỳ là cấm không
cho các tiểu bang thỏa thuận với nhau để lập thành liên hiệp: “Không
có bang nào được phép giao kết lập liên hiệp với một tiểu bang khác mà không có sự đồng ý của
Quốc hội liên bang…” .Điều cấm này đã được toà án
liên bang giải trình rằng đó là điều khoản ấy có mục đích ngăn chặn xu
hướng các tiểu bang muốn tăng quyền lực chính trị bằng cách thỏa thuận liên hiệp
để xâm phạm vào quyền hạn của chính phủ trung ương quốc gia.[27]
C. Chủ thuyết tư pháp bảo hiến:
Hiến pháp cho tòa án quyền đánh giá hành vi hợp hiến hay vi hiến của nhà
nước
Quyền hạn của Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ không những được thành lập trong Hiến pháp, mà
còn được giải lý và bày tỏ qua truyền thống thông luật của Hoa Kỳ. Như vậy,
quyền tối hậu được quyết định các vấn đề Hiến pháp cuối cùng sẽ
nằm trong tay chín vị thẩm phán của Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ.[28] Chỉ những thẩm phán này mới được trình bày và giải
thích ý nghĩa của Hiến pháp, và sau đó, Tòa án Tối cao sẽ tuyên bố một hành động
nào đó của chính phủ (đã bị dân khiếu nại) là có vi hiến hay không. Phần này
trong luật Hiến pháp ở Mỹ được gọi là “Học thuyết tư pháp bảo hiến”. Học
thuyết này cho phép Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ giải
thích vai trò mà Hiến pháp đã giao cho chính Tòa án Tối
cao, có nghĩa là Toà án phải tự đứng ra quyết định, giải trình và đảm nhận vai trò Hiến
pháp của mình, thì từ đó mới giải thích Hiến pháp cho dân được.[29]
1. Những điều kiện mà thông luật đòi
hỏi cần phải được đáp ứng nếu người khiếu nại muốn Tòa án Tối cao liên bang xét
xử vấn đề vi hiến: Hiến pháp trao quyền tư pháp cho Tòa án Tối cao
liên bang chứ không trao quyền lập pháp cho cơ chế toà án này. Do đó, chủ thuyết
tư pháp bảo hiến phải có giới hạn. Ở một hình thức nào
đó, Toà án phải tự đặt ra giới hạn cho mình và phải quyết định
khi nào thì toà án mới có quyền “lên tiếng” . Các học thuyết về Hiến pháp hay
những tiêu chuẩn do chính các thẩm phán liên bang đặt ra (trong thể chế thông
luật) trở thành thước đo để đánh dấu khi nào thì học thuyết tư pháp bảo hiến mới
có thể đem ra áp dụng.
Trước hết, tòa án chỉ có thể quyết
định các vấn đề Hiến pháp nếu có “vụ án tranh cãi” do một
đương sự khởi tố vì họ có tư thế chính đáng. Điều này có nghĩa là vụ
án đó được tạo ra vì đương sự đã đi kiện – vì họ đã bị
thiệt hại và sẽ bị trực tiếp ảnh hưởng vì vụ án
này. Vụ án ấy phải là một sự việc có thể giải quyết được qua cơ chế
tư pháp, không thể là một vụ án đã quá trễ nải, hoặc chưa chín muồi đủ để toà
xét xử, hoặc vấn đề quá trừu tượng không thể xác minh thực tế. Tòa
án không thể chỉ đưa ra một ý kiến mang tính chất tư vấn
mà phải giải quyết các tranh chấp thực tế trong cuộc sống mang lại
hậu quả pháp lý bằng những phán quyết có tính chất tư pháp. Vụ án phải
là một tranh chấp có thực chứ không chỉ đơn thuần có tính
cách hàn lâm như một cuộc tranh luận trong lớp học. Việc tranh chấp không
thể chỉ là một “câu hỏi chính trị” mà đáng lý ra phải đem vào lĩnh vực của các
ngành kia trong chính phủ chứ không phải ngành tư pháp tức toà án. Nếu tất
cả các tiêu chuẩn kể trên của thông luật đều được đáp ứng thích
đáng thì Toà án liên bang mới có thể đưa ra quyết định
và công khai ý kiến của các thẩm phán về vấn đề vi hiến
hay hợp hiến.
2. Các thách thức hay
khó khăn trong việc giải thích và tuân thủ Hiến pháp:
Nhiều quyết định của Tòa án Tối cao liên
bang Hoa Kỳ đã giải quyết các tranh cãi nóng bỏng trong xã hội Mỹ.
Người dân không đồng ý với các thẩm phán và bản thân
các thẩm phán cũng không đồng thuận với nhau. Những
vấn đề khó khăn thường hay đi đến quyết định với số phiếu năm trên bốn (trong
khi có chín vị thẩm phán). Công chúng Mỹ có thể không thống nhất
ý kiến, nhưng quyết định của Tòa án tối cao vẫn là quyết định
Hiến pháp tối hậu trong một trường hợp có tranh cãi. Quyết định của Tòa
án tối cao đã và sẽ gây ra những thay đổi trong xã hội và đã từng
bị các nhà lập pháp phản đối gay gắt. Ví dụ, sau khi quyết định của
Tòa án tối cao năm 1954 bãi bỏ chế độ phân chia chủng tộc được
đưa ra,[30] hơn 100 thành viên Quốc hội liên bang đã chỉ
trích quyết định này là một việc “lạm dụng quyền lực tư pháp[31]“.
Nhiều học giả nghiên cứu về Hiến
pháp cho rằng các thẩm phán liên bang nên tuân thủ các mục
đích và tinh thần của Hiến pháp và không nên “cố tình tích
cực làm luật”. Quan điểm đi ngược lại với việc thẩm phán tích cực làm luật là
quan điểm thẩm phán cần phải “tự giới hạn chính mình,” không nên biến mình
thành nhà lập pháp. Các án lệ bằng văn bản của thẩm phán không thể
phản ảnh chính sách cá nhân của họ. Họ không thể
tuyên bố rằng một đạo luật của tiểu bang là vi hiến chỉ
vì nó đi ngược lại ý kiến chủ quan cá nhân hay
chính sách của riêng họ, hay chỉ vì họ muốn soạn ra một đạo luật mới. Mặt khác,
có những học giả lại cho rằng lý luận đạo đức phải là
một phần thiết yếu của phương pháp diễn giải Hiến pháp
của Tòa án liên bang Tối cao.[32]
D. Quyền tự do cá nhân và Tuyên ngôn
về Quyền con người
Một phần quan trọng của Hiến
pháp Mỹ là những quy định bảo vệ quyền cá nhân chống
lại sự xâm phạm của chính phủ, được thể hiện không những qua văn bản
Hiến pháp mà còn cả ở các thông luật của Tòa án Tối cao liên bang. Các thẩm
phán liên bang được bổ nhiệm theo Điều III của Hiến pháp trở
thành “người giám hộ” cho quyền cá nhân của người dân Mỹ. Đây
là toàn bộ học thuật bộ môn “quyền cá nhân” trong ngành luật Hiến
pháp Hoa Kỳ, mang những đặc điểm sau đây:
1. Nguồn gốc của quyền cá nhân
Theo đúng văn bản thì Hiến
pháp không hề ban bố quyền cá nhân mà chỉ quy định rằng một số quyền cá
nhân cơ bản bắt buộc phải có sự tôn trọng và không thể bị chính phủ
tước đoạt. Theo quan điểm của Tuyên ngôn Độc lập thì những quyền cá nhân này được
thừa kế từ luật tự nhiên và không thể tách rời khỏi con người. Nhân quyền được
xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng tự do dân sự không phải là
ân sủng đến từ nhà lập pháp, vì quyền con người đã vốn có trong bản
chất con người, do đó, những gì có trong bản Tuyên ngôn Quyền con người
nhất thiết phải được Hiến pháp bảo vệ.
2. Học thuyết “Nhà nước hành động“
Hiến pháp thưở ban đầu hay Tuyên
ngôn Quyền con người của nước Mỹ không hề bảo vệ cho con người trước
những lạm dụng của tư nhân, mà chỉ bảo vệ con người trước những sai lầm hay vi
phạm của nhà nước hoặc trước luật hình sự của các tiểu bang. Để có một vấn
đề vi hiến, thì người vi hiến phải hành động “dưới màu sắc của pháp
luật,” hoặc tham dự vào những công việc thườ ng là việc của chính phủ, hoặc
cùng mưu mô thủ đoạn với nhà nước, hoặc được nhà nước tạo điều kiện cho
hành động, và như vậy phạm nhân đó có thể được mô tả
như một “diễn viên nhà nước” (“nhà nước” ở đây có nghĩa
là chính phủ, cả liên bang cũng như các tiểu bang). Quy
chế này được gọi chủ thuyết “Nhà nước hành động.” Nếu nhà
nước không hành động thì không hề có vấn đề “vi hiến” (Ngoại lệ duy nhất
là Tu chính án thứ 13, cấm chế độ nô lệ, dù chế độ này
được thực thi bởi tư nhân hay chính phủ thì cũng vậy).
3. Học thuyết “kết hợp”:
Lúc đầu, Bản Tuyên ngôn về Quyền
con người chỉ được áp dụng cho chính phủ liên bang (mỗi tiểu
bang đều có Hiến pháp riêng của mình, cũng như cơ chế hành pháp bởi
Thống đốc, lưỡng viện lập pháp, và ngành Tư pháp cho mỗi
tiểu bang). Năm 1868, sau cuộc nội chiến, Tu chính án thứ
14 được phê chuẩn và trực tiếp áp dụng cho tất cả các tiểu bang.
Trong thập niên 1960,Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã bắt đầu giải
thích Tu chính án thứ 14 và Điều khoản bảo vệ bình đẳng cho con người,
cũng như điều khoản tuân thủ các tiến trình xét xử theo luật pháp nêu lên
trong Tu chính án này để bắt đầu đem các quyền cá nhân cơ bản của Bản
Tuyên ngôn về quyền con người áp dụng ở tất cả các tiểu bang, qua Tu chính án
thứ 14. Đây được gọi là “học thuyết kết hợp” (có nghĩa là Toà án đã “kết hợp”
quyền Hiến pháp ở mức liên bang vào mức tiểu bang). Học thuyết này có được áp dụng
hay không là ở chỗ các quyền tự do cơ bản của Hiến pháp Hoa Kỳ có bắt nguồn từ
những “khái niệm cơ bản nòng cốt của nền tảng công lý Hoa Kỳ” hoặc có “bắt nguồn
sâu xa từ lịch sử và truyền thống của nước Mỹ ” hay không.[33] (Những tiêu chuẩn này cho thấy các thẩm
phán khi nhận định vấn đề bảo hiến đã sẵn sàng đi ra ngoài cơ cấu ngôn từ của
văn bản Hiến pháp để nhìn vào lịch sử cũng như truyền thống nước Mỹ,
nhằm xác định xem quyền cá nhân nào là cơ bản, và cái gì là không cơ bản
trong Hiến pháp Hoa Kỳ).
Ngày nay, phần lớn Bản
Tuyên ngôn về quyền con người đã được đem áp dụng vào tất cả các tiểu
bang qua hình thức “kết hợp” bằng Tu chính án thứ 14. Theo đó, một phần đáng
kể của ngành luật học về Tòa án Tối cao liên bang, đặc
biệt chuyên về các quyền tự do cá nhân, đã được phát triển
qua các án lệ của Toà án liên bang bàn luận về điều khoản của
Tu chính án thứ 14 (đòi hỏi việc tuân thủ quy trình luật pháp trong vấn đề xét
xử). Tuy nhiên, nguồn gốc của các quyền liên bang về quy trình đòi hỏi
xét xử theo trình tự pháp luật lại chính là ở Tu chính án thứ 5 chứ không phải
Tu chính án thứ 14. Cả hai Tu chính án thứ 5 và Tu chính án thứ
14 đều có “Điều khoản quy trình xét xử theo luật
pháp”, nhưng Tu chính án thứ 5 không có “Điều
khoản bảo vệ bình đẳng” như Tu chính án thứ 14. Nói một
cách khác, Bản Tuyên ngôn về quyền con người (tức là 10 Tu chính án đầu
tiên) không bao gồm khoản bảo vệ bình đẳng, vì
khoản này chỉ được thể hiện qua Tu chính án thứ 14 (mà Tu chính án thứ 14 lại
không phải là một phần của Bản Tuyên ngôn về quyền con người). Khoản bảo
vệ bình đẳng của Tu chính án thứ 14 đã được đọc cùng với
khoản về quy trình xét xử của Tu chính án thứ 5, vì toà án liên bang đã áp
dụng “Học thuyết kết hợp” một cách ngược lại (có nghĩa là, Học
thuyết kết hợp (thông thường thì “kết hợp từ liên bang đến tiểu bang)
đã được áp dụng ngược lại (đi ngược từ tiểu bang lên đến liên
bang, thay vì đi xuôi từ liên bang xuống đến tiểu bang).
4. Ngành luật học nói về điều khoản
đòi hỏi quy trình xét xử và điều khoản bảo vệ bình đẳng
Điều khoản đòi hỏi quy trình xét xử ở
cả hai nơi – Tu chính án thứ 5 và thứ 14 – không hoàn toàn đảm bảo
quyền “sống, tự do, và có tài sản”. Điều khoản này chỉ đảm bảo
“quá trình pháp luật” trước khi một người bị chính phủ trung
ương, quốc gia hoặc tiểu bang tước đoạt những quyền cơ bản ấy của
mình[34]. Bảo vệ bình đẳng không có nghĩa
là chính phủ áp dụng luật cho tất cả mọi người theo cùng một cách. Ví
dụ, người nhận bản án với tội danh giết người sẽ phải xử phạt theo mức
độ khác biệt. Bảo vệ bình đẳng theo Hiến pháp chỉ
đòi hỏi rằng những công dân nằm trong những hoàn cảnh tương tự
thì sẽ được đối xử bình đẳng trước pháp luật như nhau[35] (Ở đây, để bảo hiến và xem xét tính hợp hiến
trong các hành động của chính phủ, thì mặc dù Tòa án Tối
cao là một phần của chính phủ liên bang, Tòa án lại là một cơ quan độc
lập, và các thẩm phán bắt buộc phải tự bước ra ngoài vai trò “chính
phủ” của mình để phân xử chính xác và độc lập: liệu các hành động của
nhà nước bị đương sự chống đối trong vụ án có thực sự là hành động vi hiến hay
không).
A. Điều khoản về quy trình xét xử
theo pháp luật:
Dùng học thuyết tư pháp bảo hiến,
Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã đặt ra các tiêu chuẩn về quy
trình xét xử theo trình tự pháp luật, gọi là “thủ tục pháp lý,” đồng thời cũng
đã xây dựng nên quy định “nội dung” cho quy trình và thủ tục xét xử này (chứ
không phải chỉ đặt “thủ tục” là vấn đề hình thức). Tòa án phân biệt “nội
dung” của quy trình xét xử theo thủ tục pháp lý, khác hẳn thủ tục hay quy
trình xét xử theo luật. Hành động của chính phủ phải đáp ứng cả hai tiêu
chuẩn, nội dung cũng như hình thức thủ tục, chứ nếu không, hành động ấy sẽ bị
coi là vi hiến, và Tòa án sẽ vô hiệu hóa hành động vi hiến ấy.
Về hình thức, quy trình xét xử theo thủ
tục pháp lý được đặt ra để ngăn chặn những hành động của chính phủ có tính
cách “ngang ngược” và không hợp lý. Quy trình này đòi hỏi chính phủ phải thông
báo trước về hành vi của mình, một cách hợp lệ, và cá nhân “khổ chủ” phải có một
cơ hội có ý nghĩa để biện minh cho chính mình trước khi cá
nhân bị chính phủ tước đoạt cuộc sống, sự tự do, và tài sản
của mình. Về nội dung, quy trình xét xử này đòi hỏi các hành động của
chính phủ cần phải vượt qua một trong ba tiến trình xem xét bởi Tòa án nơi
khác, hành vi của chính phủ cần phải đáp ứng một trong ba tiêu
chí sau đây[36].Tùy theo từng vụ án, Toà án liên bang sẽ xem xét hành vi
bị cá nhân chống đối ấy nhằm quyết định xem tiêu chí nào phù hợp với hành động
nào của chính phủ rồi tuân theo quy định của tiêu chí đó mà suy xét vấn
đề hợp hiến hay vi hiến. Tòa án đã xác định ba tiêu chí này
dựa trên các từ tiếng Anh rất “nôm na” như sau, nhằm thiết lập các
tiêu chuẩn rất quan trọng cho việc áp dụng Hiến pháp vào hành vi của chính
phủ khi bị dân chống đối trong Tòa án. Ba tiêu chí này đặt ra ba cấp bậc hoặc
ba mức, cho việc Tòa án suy xét xem vấn đề vi hiến hay hợp hiến:
(i) Mức tối thiểu, thấp
nhất và nhẹ nhất cho Tư pháp xem xét (“Trắc nghiệm Hợp lý”: đòi hỏi
rằng hành vi của chính phủ, thí dụ một đạo luật nào đó) yêu cầu cơ
quan lập pháp phải dựa trên cơ sở khách quan làm cho đạo luật ấy có tính
chất hợp lý, có nghĩa là đạo luật có liên quan hợp lý đến một mục đích
chân chính nào đó của chính phủ thì dù quyền sử dụng vũ lực của chính phủ (để bảo
toàn sức khỏe, an ninh, trật tự công cộng và phúc lợi chung cho dân) (Đây
là tiêu chí thấp nhất, thường dành cho ngành tư pháp xét xử các vụ việc liên
quan tới các đạo luật hay quy định về kinh tế).
(ii) Mức tối đa, tiêu chí
khó nhất và cao nhất trong việc tư pháp xem xét hành vi của chính phủ(“kiểm
tra giám sát nghiêm ngặt”): Mục này đòi hỏi sự giám sát vô cùng chặt chẽ của
nhánh tư pháp. Ở tiêu chí này, hành vi hay đạo luật của chính phủ bị dân chống
đối được coi như là đương nhiên vi hiến, có nghĩa là chính phủ phải mang gánh nặng
chứng minh hành vi của mình. Thí dụ, đạo luật hay quy định của mình áp dụng vào
dân đã được giới hạn rất nghiêm ngặt vì đó là biện pháp ít thương tổn nhất để
thực thi mục đích của chính phủ. Đạo luật hay quy định, hành vi của chính phủ
là biện pháp cần thiết để thi hành một mục tiêu rất cần kíp bắt buộc phải có của
chính phủ.
Tòa án Tối cao đã xem
xét và áp dụng tiêu chuẩn “giám sát nghiêm ngặt” mỗi khi chính phủ vi
phạm đến “các quyền cơ bản trong Hiến pháp” nêu lên từ Bản Tuyên ngôn
quyền con người. Nhưng quyền cơ bản này gồm có các quyền được Hiến pháp bảo
đảm trong thủ tục tố tụng hình sự (Tu chính án thứ
4, 5, 6, và 8 ). Quyền tự do ngôn luận, tôn giáo,
hội họp trong Tu chính án đầu tiên là quyền cơ bản, và như vậy ở Mỹ,
các quyền tự do của Tu chính án thứ nhất được đảm bảo vô cùng chặt chẽ đến nỗi
mà ngay cả các loại ngôn luận có tính chất gây ra thù ghét, khinh khi, hay quá
khác biệt với đạo đức quần chúng cũng vẫn được bảo vệ gần như tuyệt đối [37]. Cam đoan tự do ngôn luận trước khi lời nói được bày tỏ cũng
bị coi như là một thủ phạm vi hiến, cần phải xem xét nghiêm ngặt bởi ngành tư
pháp. Như thế, đặc biệt, việc hạn chế tự do ngôn luận, thường bị
coi là vi hiến, dưới các tiêu chuẩn giám sát chặt chẽ của Tòa án Tối
cao liên bang.[38] Tuy vậy, các quyền tự do cơ bản nhất cũng vẫn
có thể bị chính phủ hạn chế, miễn là các hành động của chính phủ được giám
sát chặt chẽ và đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hiến mà Tòa án tối
cao liên bang đã xây dựng nên. Ví dụ, Tòa án Tối cao liên bang
đã đưa ra một cuộc thử nghiệm gọi là “trắc nghiệm cân bằng” nhằm
phân biệt tự do tín ngưỡng được Hiến pháp bảo vệ, khác với hành vi tín ngưỡng,
vẫn có thể bị các tiểu bang hạn chế vì an ninh trật tự xã hội dưới sự giám sát
chặt chẽ của Tòa án liên bang. Tương tự như vậy, tự do ngôn luận cũng có
thể bị chính phủ hạn chế hay cấm đoán, nhưng chỉ trong giới hạn vô cùng chặt chẽ,
theo đúng như các án lệ của Tòa án Tối cao đưa ra, và điều này đã tạo nên một
ngành của luật học rất bao quát và công phu, chuyên môn về án lệ của Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ. [39]
Ngoài ra, Hiến pháp còn bảo vệ các
quyền cơ bản không được nói lên rõ nét bằng văn vản trong Hiến pháp, bằng
cách “kết hợp” các điều khoản của Tu chính án thứ 5 và Tu chính án thứ
14, để tạo nên một số quyền cá nhân rất cần thiết và là hệ quả của các quyền cơ
bản khác mà Hiến pháp đã nói đến. Những quyền cơ bản này là
các quyền tạo nên bởi “ngụ ý,” bao gồm quyền tự do liên hiệp, lập hội
và có bạn bè đàn đúm, quyền tự do riêng tư hay đời sống cá
nhân, và quyền tự do đi lại[40].
(iii) mức xét đoán lưng chừng, trung
bình, ở giữa (“intermediate”): ở cấp bậc hay tiêu chí “trung trung”
này, thì mục đích của chính phủ, thực thi bởi hành vi hay đạo luật hoặc quy định
nhà nước phải được Tư pháp coi là “ quan trọng” và “cấp bách”. Đạo luật hay
hành vi của chính phủ bị nguyên đơn chống đối phải “liên quan mật thiết” đến mục
đích quan trọng ấy. “Phương tiện” đề đạt thành “cứu cánh” của chính phủ phải được
Tư pháp xem là nằm ngay giữa mục “hợp lý tối thiểu” và mục “cần kíp tối đa”.
b, Điều khoản bảo vệ quyền bình
đẳng:
Điều khoản bảo vệ quyền bình đẳng ở Tu
chính án thứ 14 (được ngụ ý tiềm ẩn vào Tu chính án thứ 5 do
học thuyết “kết hợp” được áp dụng “ngược”, đi từ tiểu bang lên ngược đến liên
bang). Điều khoản này đã được sử dụng để làm vô hiệu hóa các hành vi
của chính phủ nhằm phân biệt các nhóm người hay các loại người bằng cách tạo
gánh nặng cho quyền tự do cơ bản của họ. Theo học thuyết bảo hiến tư pháp, các
thẩm phán bảo hiến cho rằng các nhóm người bị kỳ thị này là các nhóm “cần được
bảo vệ”: theo dòng lịch sử, họ đã chịu thiệt thòi, bị kỳ thị vì những đặc tính
bẩm sinh không thể thay đổi được chẳng hạn như chủng tộc, màu da, nguồn gốc văn
hóa hoặc quốc gia, hoặc giới tính. Vì vậy, Tòa án tối cao liên bang giải
quyết vấn đề chủng tộc hoặc nguồn gốc quốc gia bằng cách coi như các
“nhóm người” này là những nhóm “dễ bị tổn thương” vì các quyền tự do cơ bản của
họ thường không được bảo đảm hay rất dễ bị tước đoạt.
Ba tiêu chí hay cấp bậc kể trên được
Tòa án bảo hiến sử dụng trong việc phân tích Điều khoản về quy trình xét xử trước
pháp luật, đồng thời cũng được sử dụng trong việc Tòa án bảo hiến phân tích Điều
khoản bảo vệ quyền bình đẳng. Cụ thể là việc phân tích quyền được bảo vệ bình đẳng
trong các vụ án kiện chính phủ đã phân biệt đối xử với các nhóm người
cần được bảo vệ, gây nên vấn đề vi hiến. Nói tóm lại, Tòa án bảo hiến sử dụng một
hình thức thử nghiệm dựa trên “cứu cánh và phương tiện” của hành vi nhà nước đã
phân loại các nhóm người và đối xử không đồng đều, nhằm xác định xem hành vi ấy
có hợp hiến hay không. Thử nghiệm này đòi hỏi Tòa án phải so sánh
phương tiện mà chính phủ sử dụng với mục đích mà chính phủ dùng để biện
minh cho việc phân loại trên. Hành vi hoặc quy định của chính phủ sẽ bị
coi là vi hiến nếu đó là phương tiện sử dụng quá lố hay không chính đáng để đạt
tới mục tiêu. Nếu thế thì quy định của chính phủ sẽ phải bỏ đi. Sau đây là các
ví dụ xem Tòa án đã quyết định như thế nào khi áp dụng ba cấp bậc xem xét này:
(i. Mức tối thiểu: thử nghiệm sơ sài nhất dựa trên việc
xem xét tính “hợp lý” này thường dành cho việc chính phủ phân biệt cách đối
xử dựa trên tuổi tác và các quy định phúc lợi (thí dụ: tất
cả khối người nghèo không phải là một nhóm người bị bạc đãi vì cá tính bất
di bất diệt cần được luật pháp bảo vệ, và phúc lợi được hưởng giáo dục không phải
là một quyền cơ bản cần được Hiến pháp bảo đảm).
(ii) Mức tối đa: thử nghiệm dựa trên cấp bậc xem
xét, khắt khe nhất, thường được dành cho việc chính phủ đã phân loại dựa trên
màu da, nơi sinh quán và chủng tộc.
(iii) Mức trung bình (dựa trên những thuật ngữ có
tính chất “trung dung” trong tiêu chuẩn đánh giá, cấp bậc này nằm ngay ở giữa mục
sơ sài và mục nghiêm ngặt): thường dành cho phân loại theo giới tính, con
hoang hay con chính thức, người có quốc tịch hay là người nước ngoài. Vì mục
đích khó xác định, chỉ nằm ở mức “trung dung” giữa hai thái cực, thành ra kết
quả khó dự đoán hơn, thường là không rõ ràng.
IV.Kết luận
Hiến pháp Hoa Kỳ thiết lập một chế
độ mà vị Tổng thống quá cố Abraham Lincoln đã mô tả: đó là “một chính
quyền của dân, do dân, và vì dân”. Hiến pháp Hoa Kỳ không chỉ đặt nền móng cho
tính chất “ tối cao” của pháp luật trong một cơ chế pháp quyền, mà còn thể hiện
khát vọng không ngừng của nhân dân Mỹ. Khát vọng của dân Mỹ không những chỉ được
thể hiện tại thời điểm ban hành Hiến pháp (một chu trình mà ngành luật Hiến
pháp Mỹ gọi là việc diễn giải “ý định đầu tiên” của các vị sáng lập ra
Hiến pháp”), mà còn được nói lên ngày hôm nay cũng như ngày mai, bởi
vì ván bài Hiến pháp đã từng được trải qua, và sẽ tiếp tục được trải
qua, không biết bao nhiêu là giải trình qua các án lệ Hiến pháp của ngành Tư
pháp. Ví dụ, lúc đầu thì Bản Tuyên ngôn Nhân quyền bảo vệ pháp
lý cho đàn ông da trắng, không bao gồm đàn ông da màu
và phụ nữ. Đến thời điểm hiện nay, rất nhiều Tu chính án và án lệ của
ngành Tư pháp đã tiếp tục bổ sung và cập nhật hóa Hiến pháp để đem việc bảo đảm
quyền con người đến với tất cả các công dân hay cá nhân sinh sống ở Mỹ đều được
hưởng các quyền cơ bản như nhau trước Hiến pháp. Cuối cùng thì học thuyết tư
pháp bảo hiến, áp dụng bởi các vị thẩm phán Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ, đã
là tiếng nói của người gác cửa cho các nguyên tắc của Hiến pháp Mỹ, mãi cho đến
khi nào toàn dân Mỹ (thông qua Quốc hội liên bang và các đại biểu tiểu bang)
quyết định chọn lựa việc sửa đổi Hiến pháp liên bang một lần
nữa theo như mong muốn của dân Mỹ./.
* Cử nhân Truyền thông Đại học Southern Illinois,
Thạc sĩ Luật Đại học Harvard, Tiến sĩ Luật học Đại học Houston. Giáo
sư Trường Luật, Đại học Denver, Hoa Kỳ, Học giả Fulbright Hoa Kỳ tại Khoa
Luật ĐHQG Hà Nội năm 2011-2012.
Bài viết này là tham luận tác giả gửi
tới Hội thảo về sửa đổi Hiến pháp do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội phối hợp với Viện
Nghiên cứu Lập pháp tổ chức ở Vĩnh Yên tháng 9 năm 2011.
[1] Vị Tổng thống thứ 4 trong lịch sử Hoa kỳ,
James Madison, được mệnh danh là “Cha đẻ của Hiến pháp,” đã làm sáng tỏ vấn
để nổi bật của Hiến pháp là: làm thế nào để Chính phủ có đầy đủ mọi quyền lực
thực hiện nhiệm vụ được dân chúng giao mà không xâm phạm tới những quyền tự do
cá nhân.
[2] Hiến pháp là văn bản pháp luật tối cao của đất nước. Tưởng
cũng nên nói thêm về sự tương quan giữa luật pháp quốc tế và luật
pháp nội địa Hoa Kỳ. Luật pháp quốc tế được coi là pháp luật của toàn
thế giới. Tuy nhiên, ở Mỹ, một hiệp ước phải được phê
chuẩn trong nước thì mới trở thành luật nội địa, để có thể áp dụng
ngay trên đất nước. Sau khi được phê chuẩn, hiệp ước sẽ có cùng
một mức độ giá trị như một đạo luật liên bang. Nếu hiệp ước
và luật liên bang mâu thuẫn với nhau, thì cái nào đến sau sẽ có giá trị thay
cái đến trước. Bởi vì một đạo luật liên bang đến sau có thể chấm dứt một
hiệp ước đến trước, nên Quốc hội Hoa Kỳ có thể ban hành một đạo
luật có hiệu lực kết thúc một hiệp ước mà trước đây Tổng
thống đã ký kết. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ – tòa án có quyền lực cao
nhất nước Mỹ được hình thành bởi Hiến pháp — đã diễn giải rằng
thông luật quốc tế là một phần thiết yếu của luật nội địa áp dụng
trong nước Mỹ.
[3] Văn kiện tiên quyết đi trước Hiến pháp là Bản Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ soạn năm 1776, và Điều lệ Liên bang soạn
năm 1781. Tại Hội nghị Lập hiến năm 1787, các đại biểu quyết
định sửa đổi, thay thế Điều lệ Liên bang bằng cách soạn thảo bản
Hiến pháp. Các nhà sáng lập và soạn thảo Hiến pháp Mỹ được coi
như các kiến trúc sư chính trị và pháp lý của đất nước, vì họ đã
đặt nền móng cho việc xây dựng luật pháp và lý thuyết cộng hòa.
[4] Trong bài viết này, “Bang” (viết hoa chữ cái đầu) đề cập cụ
thể đến các bang có chủ quyền; chữ “bang” không viêt hoa (chữ thường) nói
chung đề cập đến nhà nước Mỹ, chính phủ liên bang cũng
như các tiểu bang.
[5] Tu chính án thứ 14 cũng có một khoản tạo nên đặc
quyền phúc lợi và miễn trừ cho công dân, nhằm bảo vệ quyền công dân của
liên bang. Ví dụ, Tu chính án thứ 14 được áp dụng để
bảo vệ các công dân “mới chuyển đến” một tiểu bang mới.
[6] Ví dụ, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã bác bỏ một điều
luật của tiểu bang trong việc hạn chế không cho công dân của các bang khác
được gia nhập luật sư đoàn, được hiểu như một đạo luật có tác dụng phân biệt
công dân giữa các bang, hoặc làm cản trở việc di chuyển từ bang này đến bang
khác (quyền tự do đi lại). Xin xem án lệ Tòa án tối cao New
Hampshire kiện Piper, 470 US 274 (1985).
[7] Trong lịch sử nước Mỹ, khoảng
10.000 dự thảo Tu chính án đã được Quốc hội giới thiệu để sửa đổi Hiến
pháp. Nhưng chỉ có 27 tu chính án nhận được sự phê chuẩn của
¾ các bang. Tất cả 27 tu chính án này là do Quốc hội đề xuất. Dự thảo
Tu chính án gần đây nhất được đề nghị mà không thành công là Tu
chính án về quyền bình đẳng giới tính năm 1972 nhằm mục đích tạo
dựng cơ chế nam nữ và giới tính bình quyền ở Mỹ. Hiện
nay, đầu thế kỷ hai mươi mốt, tuy không có quy định từ Hiến pháp về giới tính
bình quyền, một số các tiểu bang ở Mỹ đã cho phép người đồng tính được bình quyền
với người khác tính trong lãnh vực cưới hỏi trước pháp luật và trong lãnh vực
phúc lợi xã hội.
[8] Lý do ở đây là vì lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ: một
quốc gia thành lập bởi dân di cư, chạy trốn sự đàn áp tôn giáo ở Âu
châu, cũng như do các cuộc tranh luận mạnh mẽ đi đến việc
thành lập một liên bang độc lập thoát khỏi sự cai trị của nước Anh, do sự
tập hợp của các tiểu bang. Tu chính án thứ nhất được coi là tinh
túy và là quyền ưu tiên cơ bản tại Mỹ, được công lý bảo vệ triệt
để tại tòa án. Luật học tạo ra bởi Tòa án liên bang Tối cao đã
đưa ra các trường hợp ngoại lệ nhất định rất hạn hẹp gần như trong
gang tấc: chỉ trong các trường hợp ngoại lệ rất gay go, rất hạn hẹp trong gang
tấc này, Chính phủ mới được quyền giới hạn các quyền tự do cá nhân
thuộc về Tu chính án thứ nhất. Tuy nhiên Chính phủ chỉ có thể giới hạn trong chừng
mực, miễn là những quy định giới hạn đó được tòa án xem là tối cần
thiết cho lợi ích chung được chính phủ bảo vệ, và những quy định đó phải tuân
theo thủ tục bảo hiến dưới con mắt của ngành tư pháp dưới tiêu chuẩn “giám
sát chặt chẽ” do Tòa án Tối cao Liên bang đặt ra.
[9] Hai điều khoản về “tôn giáo” được viết ngắn
gọn trong một câu và đã bị một số học giả chỉ trích, thậm
chí cho rằng hai điều khoản ấy gây căng thẳng với nhau: “Quốc hội
sẽ không được ban đạo luật tôn sùng cơ sở tôn giáo, hoặc ngăn
cấm việc tự do thực hiện hành vi tôn giáo”. Hiến pháp Hoa Kỳ
– Điều VI – khoản 3 cũng cấm chính phủ không được sử dụng
“bất cứ kỳ thi có tính cách tôn giáo nào trong việc tuyển chọn công chức
cho các cơ quan chính quyền hay các văn phòng cần có niềm tin của quần
chúng.” Như vậy, Hiến pháp đã tách tôn giáo ra khỏi hẳn nhà nước và thiết
lập nước Mỹ thành một chính phủ thế tục không phụ thuộc vào
bất kỳ giáo hội nào.
[10] Tuy nhiên, Quốc hội và các bang có thể ban
hành luật kiểm soát súng, mặc dù những đạo luật này
nói chung có thể không được lòng dân, và đã gây tranh
cãi khá gay go trong xã hội Mỹ.
[11] Các quyền về sở hữu tài sản không được quy định trong
Hiến pháp. Quyền tư hữu là luật của từng tiểu bang.
[12] Hành vi vi hiến của chính phủ lấy tài sản của dân khác
hẳn với việc chính phủ bắt buộc phải ban hành quy định trưng dụng tài sản tư
nhân cho các mục đích công chính đáng, đúng theo quyền hạn và trách nhiệm gìn
giữ trật tự công cộng của chính phủ. Vì thế, việc phân tích hành động của chính
phủ có vi hiến hay không sẽ tùy thuộc vào nhận định xem hành vi ấy có nghiêm trọng
đến nỗi bị xem như là “tước đoạt tài sản của dân” trái với Hiến pháp hay không.
Các đạo luật phân chia ranh giới phát triển nhà cửa, đô thị, đòi hỏi cư dân phải
tuân thủ quy định của chính phủ về việc sử dụng đất đai vì mục tiêu trật tự
công cộng đã được xem là hợp hiến.
[13] Ví dụ, ở tiểu bang Gerogia, hình phạt tử
hình không được phép thi hành đối với tội hiếp
dâm, theo án lệ vụ Coker kiện bang Georgia,
433 US 584 (1977), nhưng nhà nước vẫn có thể thi
hành thủ tục Hiến pháp hình sự để áp đặt hình phạt tử
hình cho một tội nhân bị kết án về tội giết người, xem thêm vụ Gregg kiện
bang Georgia, 428US 153 (1976).
[14] Tuy nhiên, công dân vẫn có thế khởi tố cán bộ,
công chức của tiểu bang, nhưng các vị này vẫn có thể được hưởng các đặc
quyền miễn trừ theo luật của tiểu bang đó. Hơn thế nữa, đặc quyền miễn trừ đặt
ra bởi Tu chính án thứ 11 chỉ có thể áp dụng trong các vụ án mà
nguyên đơn đòi thiệt hại, không thể áp dụng vào các đòi hỏi của
nguyên đơn xin tòa án phán quyết hay tuyên bố vấn đề gì khác, cũng không cấm việc
chính phủ liên bang Mỹ hoặc các tiểu bang khác làm đơn khởi tố.
[15] Đây là một tu chính án rất quan trọng: “Không có một
nhá nước nào có thể ban hành hay thực hiện bất cứ một luật lệ nào nhằm mục đích
xâm phạm vào đặc quyền phúc lợi hoặc miễn trừ của công dân Mỹ” (“điều khoản đặc
quyền phúc lợi và miễn trừ”), cũng không có một nhà nước nào có thể tước đoạt đi
quyền được sống, tự do hoặc tài sản của bất cứ ai, mà không áp dụng đúng theo
tiến trình xét xử của luật lệ (“điều khoản tiến trình xét xử””), cũng không được
từ chối bất kỳ ai quyền được bình đẳng trước pháp luật” (“điều
khoản bảo vệ bình đẳng”). Hiến pháp Hoa Kỳ – Tu chính
án thứ 14 – Mục 1.(Nên chú ý: câu trước của Tu chính án này dùng ngôn từ
“công dân”, nhưng hai điều khoản bình đẳng thì nói về “bất cứ con người nào (sống
ở Mỹ), chứ không dùng từ ngữ “công dân”.)
[16] Nói về Bản Tuyên ngôn Quyền con người của Hoa Kỳ thì Tu
chính án thứ 2 và 3 chưa được Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ áp dụng cho các
tiểu bang. “Điều khoản truy tố bởi một đại bồi thẩm đoàn” của Tu
chính án thứ 5, điều khoản đòi hỏi xét xử bởi bồi thẩm đoàn áp dụng
cho các vụ xét xử dân sự theo Tu chính án thứ 7, và Tu chính án thứ 8
cấm việc áp dụng tiền phạt quá mức hợp lý, tất cả đều chưa được áp dụng ở mức
tiểu bang. Theo bản chất thì hai tu chính án thứ 9 và thứ 10 không cần phải
tuyên bố được áp dụng vào tiểu bang. Vì thế, Bản Tuyên Ngôn Quyền con người,
khi đem áp dụng vào tiểu bang và liên bang, thi có sự chênh lệch, mặc dù hầu
như nội dung bảo vệ các quyền tự do cơ bản của Tuyên
ngôn Quyền thì đều giống nhau ở cả hai cấp: liên bang cũng như
tiểu bang.
[17] Xem án lệ vị Roe kiện Wade, 410 US 113
(1973)
[18] Như thế, Chủ tịch Thượng Viện tức là Phó Tổng thống
có quyền bỏ phiếu để thông qua các đạo luật bằng cách dùng lá phiếu giải quyết
khi có tình trạng tổng số phiếu ngang bằng cả hai bên (có nghĩa là cả hai bên
chống hay thuận đều có cùng số phiếu).
[19] Những Điều khoản “cần thiết và thích hợp”
tương tự như vậy cũng có mặt trong các tu chính án 13,14, 15,
19, 24 và 26, cho phép Quốc hội thực thi một biện
pháp nào đó bằng cách soạn các đạo luật thích nghi. Những tu chính án gần
nhất thì thường chỉ cho phép Quốc hội được dùng đủ mọi dự luật thích
đáng nhằm thực thi trách nhiệm lập pháp của mình, miễn là biện pháp (qua
đạo luật) đó thích hợp là được rồi, không nhất thiết phải tối cần. Thí dụ: Án lệ
vụ McCulloch kiện bang Maryland, 17 US 316
(1819) (quyền lực mà Hiến pháp giao cho chính phủ liên bang có thể được
dùng để Quốc hội liên bang tạo dựng ra một nhà băng làm Ngân khố của Hợp
chủng quốc, cho dù nhà băng ấy không được coi là “cần thiết”).
[20] Có một loại quyền lực tiềm ẩn, độc nhất và rất lớn của Tổng
thống (không nhánh nào khác của chính phủ có loại quyền lực này ngoài Tổng
thống), đó là quyền hành pháp nằm trong địa hạt ngoại giao. Tổng thống có
thể quyết định ký kết các thỏa thuận, hiệp ước với nước ngoài nhằm can
thiệp vào ảnh hưởng và hiệu lực của một hiệp ước nào đó đã có sẵn mà
không cần sự phê chuẩn của Quốc hội. Một thỏa thuận quốc tế
như vậy, ký kết vì Tổng thống sử dụng đặc quyền có một không hai trong địa hạt
ngoại giao này, sẽ xóa bỏ tất cả những đạo luật mà Quốc hội đã ban ra từ
trước mà vẫn không vi phạm chủ thuyết “phân chia quyền lực” của Hiến pháp Hoa Kỳ.
[21] “Quyền tuyên chiến ” là một vấn đề đã từng gây nhiều tranh
cãi, đặc biệt là trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam và các thời điểm gau
go khác, sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
[22] Trong lịch sử Hoa Kỳ, đã có các ứng cử
viên Tổng thống đã đắc cử vì giành được phiếu của đại diện cử tri (vì
số đại diện cử tri nhất định của từng tiểu bang), trong khi mất phiếu phổ
thông của quần chúng.
[23] Các tiểu bang có chủ quyền thành lập nên
nhánh tư pháp riêng của mình. Các thẩm phán tiểu bang xét xử các
vấn đề của tiểu bang ở ba cấp độ: tòa án xét xử, tòa
án phúc thẩm, và Tòa án Tối cao. Bởi vì Điều khoản “quyền
tối cao” của Hiến pháp liên bang, và qua Tu chính án thứ 14 (Điều khoản bảo
vệ công dân liên bang), Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ đã
đem Bản Tuyên ngôn quyền con người áp dụng vào tất cả các tiểu bang, cho
nên các tòa án tiểu bang cũng có quyền xét xử các vấn đề Hiến pháp liên bang, y
hệt như tòa án liên bang, và các vấn đề Hiến pháp liên bang thông thường cũng
là vấn đề Hiến pháp tiểu bang. Có nhiều khi thủ tục pháp lý của tiểu
bang có điều khoản cho phép các vấn đề Hiến pháp liên bang được “chứng
thực” hoặc gửi đến tòa án liên bang xét xử. Tuy nhiên,
Tòa án Tối cao liên bang Hoa Kỳ là nơi có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm cuối cùng cho tất cả mọi vấn đề Hiến pháp liên bang.
[24] Trong lịch sử Hoa Kỳ đã có bảy Tu chính
án Hiến pháp được phê chuẩn nhằm duy trì các quyền khác
nhau của Tòa án tối cao.
[25] Học thuyết “phủ đầu” bao gồm hai loại:
(i) “phủ đầu vì xung đột luật pháp”: khi một vấn đề không thể giải
quyết hay thực hiện theo cả luật liên bang và luật tiểu bang,
trái lại luật tiểu bang gây trở ngại cho mục tiêu của luật liên bang, thì trong
trường hợp đó, luật liên bang được coi là tối cao và “phủ đầu” luật
tiểu bang.
(ii) “phủ đầu chỉ từng lĩnh vực”:
(trường hợp luật liên bang nói lên mục đích và chủ trương quá rộng lớn và quá
bao quát, và đề án của liên bang được xem là đầy đủ và phản
ánh hoàn toàn ý định của Quốc hội nhằm quản lý toàn bộ lĩnh
vực được nêu ra trong luật, thì sẽ không có chỗ cho tiểu bang điều chỉnh
hoặc xen vào (nhất là nếu đây là phạm trù hay thẩm quyền của liên bang đã được
Hiến pháp vạch rõ và quy định).
Xem án lệ vụ Silkwood kiện Kerr–cGee Corp, 464US 238 (1984) (việc
chính phủ trông coi các cơ sở nguyên tử hạt nhân là phạm vi hoàn toàn thuộc về
thẩm quyền của liên bang, mặc dù luật của tiểu bang có thể bổ
sung cho luật liên bang về lãnh vực bồi thường thiệt hại dân mà thôi nếu
người dân bị thương tích).
Các lĩnh vực khác đã được
Tòa án liên bang Tối cao áp dụng học thuyết “phủ đầu” gồm
có chính sách di trú nhập tịch và vấn đề thương mại quốc tế.
[26] Xem án lệ vụ U.S. Term Limit, Inc. kiện
Thornton, 514 U.S. 779, 838 (1995) (Kennedy, J., phán quyết đồng ý).
[27] Tuy nhiên, Quốc hội liên bang Mỹ cũng đã đồng
ý cho thành lập một số thoả thuận liên hiệp giữa các tiểu bang,
thí dụ như Cơ quan Quản trị Hải cảng New York và Liên hiệp sông
Colorado lập nên nhằm tạo ra biện pháp ngăn ngừa lụt lội va mưa lũ.
[28] Nhà triết học người pháp
Alexis de Tocqueville đã nêu lên tầm quan trọng của Tòa án Tối
cao liên bang Hoa Kỳ qua việc Thẩm phán Tối cao đưa ra “án lệ”: “Hòa
bình, thịnh vượng, và sự tồn tại của Liên bang Hoa Kỳ
liên tục nằm trong tay của chín vị thẩm phán này”. Không có
án lệ của họ thì Hiến pháp Hoa Kỳ sẽ chỉ là những ngôn từ chết; … quyền
lực của họ bao la, nhưng quyền lực đó lại xuất phát từ quan
niệm của họ qua những gì họ viết… ” (các chữ in đậm là của tác giả bài
viết này, chứ không phải trong nguyên bản của triết gia de Tocqueville).
[29] Một ví dụ của Toà án quyết định vai
trò Hiến pháp của mình bằng cách áp dụng “Học thuyết bảo hiến tư
pháp” đã được chứng minh trong vụ Marbury kiện Madison,
5 US 137 (1803). Ở đó, Tòa án Tối cao đã bác bỏ một
điều khoản của Đạo luật Tư pháp do Quốc hội liên bang đưa ra về thẩm
quyền ban đầu của Tòa án Tối cao, trong khi Hiến
pháp đã hạn chế quyền lực xét xử phúc thẩm của Toà
án Tối cao rất rõ ràng, và chỉ cho Quốc hội mở rộng thẩm quyền tòa án ở mức phúc
thẩm mà thôi chứ không phải ở thẩm quyền ban đầu. Trong vụ án ấy, Tòa
án Tối cao liên bang đã tuyên bố rằng đạo luật ấy do Quốc hội soạn
ra là một đạo luật vi hiến. Nói cách khác, Tòa án Tối cao liên bang
đã vô hiệu hoá hành động của Quốc hội bằng cách tu hạn chế quyền hạn của
Tòa án Tối cao đúng theo như Hiến pháp đã quy định, dù rằng Quốc hội đã mở rộng
cho Toà án Tối cao nhiều quyền hơn là Hiến pháp cho phép. Toà án Tối cao đã khước
từ việc Quốc hội nới rộng và ban thêm thẩm quyền của Toà án để nghiêm túc tuân
hành Hiến pháp.
[30] Xem vụ Brown kiện Board of Education, 347
U.S. 483.
[31] Nếu Tòa án tối cao thiết lập xu hướng
bình đẳng chủng tộc, thì cuối cùng Quốc hội cũng sẽ theo. Xin
xem xét án lệ. Atlanta Motel, Inc kiện Chính phủ Hoa Kỳ, 379 US 241
(1964) (cấm phân biệt chủng tộc trong các phòng khách
sạn có chất lượng cao vì kỳ thị chủng tộc sẽ làm giảm số lượng khách
du lịch đi xuyên tiểu bang). Sau này, dựa theo “Điều khoản
thương mại xuyên bang” của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành các đạo luật
“dân quyền“ nhằm khắc phục và loại trừ vấn nạn kỳ thị chủng tộc ở
Mỹ. Những “đạo luật dân quyền” này đưa ra những quy định nhằm thực
thi các biện pháp bồi thường dân sự để chống việc chính phủ
vi phạm quyền Hiến pháp của dân.
[32] Nguyên tắc tiền lệ trong thông luật
là nguyên tắc bắt buộc tòa án phải căn cứ vào khung luật của những
án lệ đi trước để đưa ra quyết định pháp lý đúng đắn. Nguyên tắc này là một
tính năng quan trọng trong việc xét xử của các tòa án phúc thẩm ở Mỹ. Trong việc
thi hành Hiến pháp, nguyên tắc tiền lệ không mạnh bằng án lệ của toà án tối
cao liên bang, vì những văn bản án lệ của Tòa án Tối
cao không thể vượt qua chính văn bản Hiến pháp. Chính Hiến
pháp, chứ không phải thông luật liên bang mới có khả năng và
tính chất tối cao. Tòa án Tối cao liên bang cũng có thể tự đảo ngược quyết
định trước của chính mình. Vì thế, nguyên tắc tiền lệ có thể được chính
toà án Tối cao thay đổi.
[33] Xem các vụ Duncan kiện bang Louisiana, 391
U.S. 145, 149 (1968); Palkko kiện bang Connecticut, 302 U.S.
319, 325 (1937); Moore kiện bang East Cleveland, 431 U.S. 494
(1977).
[34] Cả hai Tu chính án thứ 5 và thứ 14 đều
đề cập đến quyền tự do, cuộc sống và tài sản của một “con
người”. Tuy nhiên, “Điều khoản về Đặc quyền phúc lợi và miễn trừ”, thì
giới hạn rõ ràng chỉ áp dụng cho các công dân mà thôi.
[35] Ví dụ, trẻ em da trắng và da đen phải được đối
xử như nhau bởi vì tất cả chúng đều là trẻ em. Xem vụBrown kiện
Board of Education, 347 US 483 (1954).
[36] Xem vụ United States kiện Carolene Products Co.,
304 U.S. 144, 153 n. 4 (1938).
[37] Xem vụ Cohen kiện bang California, 403
U.S. 15, 20 (1971).
[38] Thí dụ, xem án lệ vụ New York Times kiện the
United States, 403 U.S. 713 (1971) (Tòa án Tối cao liên bang từ chối yêu cầu của
chính quyền Nixon cho công khai tài liệu bí mật về chính
sách của Mỹ tại Việt Nam).
Các loại ngôn luận sau
đây không được Hiến pháp bảo vệ hoặc có thể bị chính phủ cấm
đoán hoặc điều chỉnh:
(i) Ma ly phỉ báng: ngôn luận không được sử
dụng để ma ly làm tổn thương người khác, và người nói sẽ phải chịu
trách nhiệm theo quy định của luật tiểu bang. Trường hợp ngoại lệ được
áp dụng cho báo chí: các phương tiện truyền thông có thể phát
biểu sai hay nói xấu công chức hoặc cá nhân nổi tiếng trong cộng
đồng về các vấn đề chung đang được công chúng quan tâm, miễn là các
cơ quan truyền thông báo chí không gian dối, hoặc không có “ác ý”. (“Ác ý là một
tiêu chuẩn pháp luật do Tòa án Tối cao liên bang đã quy định bằng án lệ). Như
thế, án lệ Hiến pháp đã thiết lập các tiêu chuẩn cho tự do báo chí. Bị
cáo, nạn nhân bị phỉ báng có thể đứng ra kiện các cơ quan truyền thông nếu các
cơ quan này làm trò ác ý, gây ra các vụ kiện phỉ báng dân sự bằng
cách đã phỉ báng nguyên đơn qua hành vi ác ý. Ở Tòa, các đương sự kiện
tụng vấn đề phỉ báng phải mang gánh nặng chứng minh rằng giới truyền thông có
“ác ý”, bằng cách đưa ra bằng chứng cụ thể về “ác ý” đó, dưới tiêu chuẩn bằng
chứng “thật rõ ràng, minh bạch” (đó là tiêu chuẩn bằng chứng cao nhất cho các
nguyên đơn dân sự. Xem án lệ vụ New York Times kiện Sullivan,376 US 254 (1964). Như
thế, việc kiện báo chí truyền thông ra tòa là rất khó. Báo chí cũng có thể tự
bào chữa bằng cách nói rằng mình không có ‘ác ý’ để bắt buộc nguyên đơn phải
mang gánh nặng chứng minh trước tòa. Lời bào chữa của báo chí cho rằng mình
không có ác ý cũng có thể áp dụng được vào các vụ án “xâm phạm đời tư” hay “gây
thiệt hại tinh thần” giống hệt như các vụ án dựa trên tội “ “ma ly và phỉ báng
công khai”.
(ii) Tục tĩu: Hiến pháp không bảo vệ
ngôn luận mang tính chất khiêu dâm vì không có giá trị xã hội. Roth
354 US 476 (1957) (cho rằng ngôn luận mang tính chất khiêu dâm nếu
một người trung bình trong xã hội, dùng tiêu chuẩn đạo đức của cộng đồng, cho rằng
ngôn luận ấy chỉ nhằm mục đích kích thích dâm tính của quần chúng mà thôi, chứ
chẳng có giá trị gì khác). Gần đây quyết định của Tòa án Tối
cao liên bang đã xử lý với các vấn đề ngôn
luận khiêu dâm trên mạng lưới Internet và vấn đề liên quan đến “lợi ích
chung” của quốc gia trong việc bảo vệ trẻ em chống lại các tài
liệu mang tính chất “khiêu dâm” này. Ví dụ, án lệ vụ việc liên quan đến Hiệp
hội Thư viện Hoa Kỳ, 2003 WL 21433656 (ủng hộ đạo luật liên
bang yêu cầu các thư viện công cộng cài đặt phần mềm để chặn
nội dung khiêu dâm không cho trẻ vị thành niên được xem).
(iii) “Từ ngữ “đấm đá khiêu chiến chọc
giận quần chúng” (đây là các từ ngữ thô bỉ nhằm mục đích nhục mạ người nghe phải
phản ứng bằng bạo lực gây ra tình trạng ẩu đả đánh nhau trong đám đông), là một
hình thức lạm dụng các tính ngữ khiêu chiến để kích động bạo lực, không được Hiến
pháp bảo vệ).
(iv) Ngôn luận “tạo ra một mối nguy hiểm rõ
ràng ở ngay thời điểm hiện tại“ (chẳng hạn, một người
hét lên “lửa” trong một đám đông và gây hoảng loạn cho quần
chúng trong khi thực sự chẳng có đám cháy nào hết).
(v) Ngôn luận mang tính cổ vũ cho bạo
động hay khuyến khích hành vi phạm pháp. Xem vụBrandenburg kiện
bang Ohio, 395 U.S. 444, 447 (1969).
(vi) Một số loại ngôn luận mang
tính thương mại có thể vẫn bị chính quyền điều chỉnh và kiểm soát. Xem
vụ Central Hudson Gas & Electric Corp. kiện Public
Service Commission, 447 U.S. 557 (1980).
[40] Quyền hiệp hội không được viết trong Tu
chính án thứ nhất qua các từ ngữ chính xác như thế, nhưng cũng đã được Tòa
án đọc vào nội dung của Tu chính án này. Quyền du lịch hay tự do đi lại
cũng đã được coi là một quyền cơ bản, dựa trên sự kết
hợp giữa các Điều khoản thương mại xuyên bang, Điều khoản đặc
quyền phúc lợi và miễn trừ của công dân Mỹ (có tính chất bất khả xâm phạm)
trong Điều IV của Hiến pháp và Tu chính án thứ 14, Điều khoản tiến trình xét xử
theo luật pháp trong Tu chính án thứ 5 và thứ 14. Tương tự, quyền riêng
tư cững đã được đọc vào nội dung của Hiến pháp, dù rằng không được
quy định một cách rõ ràng trong văn bản mà là thông qua Điều khoản tiến
trình xét xử trong Tu chính án thứ 5 và thứ 14. Vấn đề quyền riêng
tư sẽ xảy ra và Điều khoản tiến trình xét xử theo luật pháp sẽ được
dùng để ngăn chặn Chính phủ không được chen vào đời sống riêng tư của cá nhân
khi cá nhân không muốn tiết lộ thông tin về gia đình, quyền tự do lựa chọn làm
cha mẹ hay có con, sự toàn vẹn thân thể của cá nhan, nhân phẩm và
quyền tự chủ chính mình.
Ví dụ: Phụ nữ có thai: Phụ
nữ có quyền được bảo vệ bởi Hiến pháp khi quyết định phá thai mà không bị luật
liên bang hay tiểu ban kết án là tội phạm. Xem vụ Roe kiện Wade, 410 US 113
(1973). Tuy nhiên, Chính phủ không buộc phải trả chi phí phá thai cho phụ
nữ, xem vụ Harris kiện McRae, 448 US 297 (1980):Sự
thân mật riêng tư: Không tiểu bang nào được hợp pháp hóa việc
Chính phủ hỗ trợ cho một đạo luật hình sự cấm hai người trưởng thành
có quan hệ tình dục tại nhà riêng của họ; Quyền được chết: Một cá
nhân bị bệnh nặng xét thấy không thể phục hồi có quyền (được Hiến pháp bảo vệ) từ
chối điều trị y tế để nhanh chóng kết thúc sự sống. Tuy nhiên, nhà nước
có thể ban hành luật nghiêm cấm mọi người không được giúp đỡ một cá nhân tự tử
mà vẫn không vi phạm đến quyền tự do cơ bản – quyền muốn chết và được
chết t – của bệnh nhân…Xem vụ Washington kiện Gluckberg, 521
U.S. 702 (1997).
Nguồn:https://cungviethienphap.wordpress.com/2013/02/04/tong-quan-ve-hien-phap-hoa-ky-gs-wendy-duong/