Edward Celeson
Đinh Tuấn Minh dịch
Cuộc cải cách ở Anh quốc và thị trường
tự do
Dù là vẫn tồn tại một số ít các trí
thức thời đó có khuynh hướng phó mặc cho thiên nhiên, thứ chủ trương “không làm
gì cả” vốn thường được đại chúng gán ghép với xã hội laissez faire, thì dù là
trước và sau 1800, vẫn không thiếu những cố gắng cải tổ xã hội. Chính trong những
thập niên giữa hai thế kỷ XVIII và XIX này, William Wilberforce và Clapham Sect
đã cật lực đấu tranh xóa bỏ nạn nô lệ. Quả thực điều kiện lúc đó hoàn toàn
không thuận lợi cho cải cách xã hội vì Cách mạng Pháp bắt đầu vào năm 1789 và
cuộc chiến giữa Napoléon và thế giới chỉ chấm dứt sau trận Waterloo vào năm
1815. Trong khoảng thời gian một phần tư thế kỷ đó, cho dù là không có xung đột
liên tục nhưng xã hội luôn xáo trộn do chiến tranh hay tin đồn sắp có chiến
tranh. Bất chấp những bất ổn đó, Wilberforce và những cộng sự của ông đã vận động
được người dân Anh xoá bỏ luật buôn bán nô lệ (việc vận chuyển nô lệ từ Phi
Châu đến Mỹ Châu) vào năm 1807. Sau cuộc chiến với Napoléon, chính phủ Anh và hải
quân Hoàng gia Anh dốc toàn lực vào việc xóa bỏ tận gốc nạn buôn bán nô lệ đồng
thời làm áp lực để những quốc gia khác cùng hợp tác thực hiện. Sau cuộc Nội Chiến
[ở Hoa Kỳ, 1860-1864], cùng với bản tuyên bố giải phóng nô lệ ở Hoa Kỳ, gần như
đồng thời với việc xóa bỏ nạn nô lệ ở những nước Mỹ la tinh, có vẻ như nhân loại
sắp sửa thật sự được hưởng tự do. Cải cách xã hội quả đã mang lại kết quả tốt.
Trong cuộc đấu tranh đòi giải phóng
nô lệ kéo dài nhiều thập niên này, trong số những người không ủng hộ, có nhiều
người tranh luận hùng hồn rằng điều tốt nhất có thể làm đối với nạn buôn bán nô
lệ là phớt lờ nó; hy vọng một ngày nào đó nó sẽ tự biến mất. Theo họ thì thật
là khó hiểu khi thấy người Anh chủ trương laissez faire trong sinh hoạt kinh tế
nhưng lại tham gia tích cực vào việc xóa bỏ nạn buôn bán nô lệ ở những nơi xa
xôi mà họ không hề có thẩm quyền. Có vẻ sẽ hợp lý hơn nếu như người Anh chỉ
chuyên tâm vào công việc kinh doanh của mình, tức là kiếm tiền, và cứ để mặc
cho chuyện buôn bán nô lệ dần dần “biến đi”.
Những nhà cải cách Anh quốc vào đầu
và giữa thế kỷ XIX không chủ trương vô chính phủ – Đây là một yếu tố cực kỳ
quan trọng. Họ tin tưởng vào một sự tự do trong khuôn khổ luật pháp – Luật của
Thượng Đế. Đối với họ, buôn bán nô lệ trái với Luật của Thượng Đế, nên họ quyết
đấu tranh xóa bỏ nó. Nếu như chúng ta cho rằng tất cả những luật lệ hay dàn xếp
chính trị nào không hợp với đạo lý đều cần phải bị loại bỏ thì chắc là ngày nay
chúng ta cũng cần phải làm một cuộc cách mạng. [Nhưng điều này không diễn ra]
vì có lẽ chúng ta đã quá quen khuất phục trước quyền lực rồi. Sự áp bức của Chủ
nghĩa Phát Xít và Cộng Sản suốt nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng quyền lực có
thể trở nên tha hoá, rằng tiến bộ không phải tất sẽ đến, và rằng tự do không phải
tự dưng mà có.
Cuộc cải cách vĩ đại ở Anh quốc vào
thế kỷ XIX mặc dù đã đạt được những thành quả to lớn nhưng vẫn chưa được hiểu
đúng và hầu như đã đi vào quên lãng. Wilberforce và đồng sự đã đạt được những
thay đổi về mặt cơ cấu xã hội nhiều hơn bất kỳ một cuộc cải cách nào khác trong
lịch sử (13). Trong bối cảnh này, phong trào đòi tự do mậu dịch
và tự do kinh doanh dưới triều nữ hoàng Victoria bắt đầu, những người đi đầu
trong phong trào này là những tín đồ Thiên Chúa giáo rất sùng đạo, họ thậm chí
xem đây như là một cuộc thánh chiến. Trước khi có phong trào này, người Anh
cũng đã xóa bỏ việc sử dụng nô lệ trong đồn điền của họ ở những nước thuộc địa
(khi Wilberforce qua đời vào năm 1833 thì dự luật xóa bỏ nô lệ này vẫn còn đang
được tranh cãi ở Quốc Hội Anh, nhưng ông cũng có đủ cơ sở để biết trước rằng dự
luật này sẽ được thông qua); nhiều người Anh lúc đó tin rằng sau vấn đề xóa bỏ
nô lệ thì mục tiêu tiếp theo của quốc gia sẽ là vấn đề tự do mậu dịch và tự do
kinh doanh. Trong một tài liệu của Hội Tự Do Mậu Dịch vừa ra đời người ta thấy
có câu “… tổ chức này được thành lập một cách chính đáng giống như Hội Chống Nô
Lệ vậy.” (14) Mặc dù ai cũng biết đây là thuộc lĩnh vực
kinh tế, nhưng tư cách chính đáng và chủ trương cải cách của cuộc vận động này
vẫn được thể hiện xuyên suốt.
Bãi bỏ Đạo Luật Ngô
Mục tiêu của những nhà vận động cải
cách kinh tế là “Chương trình nông nghiệp Anh quốc,” Đạo Luật Ngô mà ai cũng biết,
là một hệ thống thuế biểu nhập khẩu rất phức tạp nhằm ngăn cản việc nhập khẩu hạt
ngô trừ phi giá ngô trong nước lên quá cao đến độ không ai mua nổi. Đối với
Richard Cobden, John Bright và những thành viên khác của Liên đoàn chống Đạo Luật
Ngô, việc cố tình làm cho thực phẩm trở nên khan hiếm và đắt đỏ một cách không
cần thiết là tội lỗi và độc ác, và không có một thứ luật pháp nào có thể biện
giải cho chủ trương phi đạo đức này. Ngay cả ngài Ashley, vị bá tước thứ bảy của
dòng họ Shaftesbury, với tư cách là một quý tộc địa chủ thì ông hẳn sẽ phải mất
nhiều hơn là được nếu như thị trường Anh quốc bị ngập tràn bởi nguồn nông sản dồi
dào từ Hoa Kỳ, vẫn bỏ phiếu ủng hộ tự do mua bán thực phẩm chỉ vì ông tin rằng
đó là việc làm đúng đắn. Còn ở Hoa Kỳ thì ngược lại, trong giai đoạn 40 năm sống
dưới Chương Trình Nông Nghiệp Liên Bang, kể từ khi Henry Wallace “cắt bông giết
lợn” [để giữ giá nông sản] vào mùa xuân 1933, nếu quý vị nào còn nhớ, hầu như
không thấy có mấy nỗ lực muốn giải quyết vấn đề một cách phù hợp với đạo lý. Đó
không phải là cách nhìn của những con người vào đầu thời Victoria. Sau cuộc hội
nghị lớn của giới tăng lữ được tổ chức ở Manchester, các vị mục sư bắt đầu rao
giảng rằng Đạo Luật Ngô là “phản đạo, phản kinh thánh và đi ngược lại luật của
Thượng Đế.” Nhờ thế, Liên đoàn chống Đạo Luật Ngô đã in và phát hành hàng tấn
truyền đơn. Đến độ người ta tin rằng “cho đến cuối năm 1844 thì toàn bộ dân
Anh, ngoại trừ những người mù chữ, đều đã từng đọc qua tài liệu về Liên đoàn
này cũng như những việc làm của nó” (15), một hiệu quả vận động
mà ngay cả thời nay cũng khó có thể đạt được.
Nỗ lực vận động phi thường này cuối
cùng đã được đền bù xứng đáng. Đến năm 1846, Liên đoàn chống Đạo Luật Ngô đã loại
bỏ được Đạo luật Ngô đáng căm ghét, và nông sản giá rẻ từ Hoa Kỳ bắt đầu tràn
ngập thị trường Anh quốc (và sau đó là thị trường Tây Âu) giúp cho dân lao động
tại Anh có được những bữa ăn tử tế với giá cả phải chăng. Những năm sau đó người
Anh lần lược bãi bỏ những chính sách thuế nhập khẩu còn lại mà những nước láng
giềng cũng đang có khuynh hướng làm theo. Giao thương quốc tế vào cuối thời
Victoria có được một môi trường phát triển cực kỳ thuận lợi, sự bùng phát của
những hoạt động sáng tạo đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và mang đến thịnh vượng
cho cả thể giới cũng như tại Hoa Kỳ. Lòng tin của họ vào tự do hẳn có cơ sở rất
vững chắc. Những người Anh được tự do mua bán tỏ ra rất lạc quan cho tương lai,
“đồng thời chắc cũng thấy ngượng cho những dự đoán tiêu cực theo học thuyết
kinh tế bi quan” mà Malthus và Ricardo đã đưa ra trước đó một thế hệ. Họ “đã có
nhiệt tâm nắm bắt và tinh lọc những điều hữu ích từ học thuyết kinh tế của một
người Pháp là Frederic Bastiat” (16). Họ tin rằng hòa bình và
tiến bộ chính là thành quả của một đường lối kinh tế đúng đắn, nhận định đó có
vẻ đúng, ít ra là trong thời gian ngắn hạn. Những ai trong chúng ta còn phải chịu
đựng và thất vọng vì những xung đột, xáo trộn cùng sự nghèo khổ gần như muôn đời
của phần lớn các quốc gia trên thế giới, sẽ thấy khá hơn nếu chịu khó nghiên cứu
thời kỳ Victoria.
Xưa và nay
Dĩ nhiên là những vị đó và những giai
đoạn lịch sử của họ sẽ là những đề tài lý thú cho chúng ta nghiên cứu, nhất là
sự tương phản giữa thời đại trước và hiện tại. Có một tác giả đã viết “… ở đầu
thế kỷ XIX, thành phần tinh hoa của tầng lớp trung lưu đã tin vào đạo lý, vào cải
tổ hệ thống tôn giáo và nhà nước, vào hành động hợp đạo lý, và vào nền kinh tế
laissez-faire” (17). Một sử gia công minh trong tương lai, nếu
có so sánh những cải cách của người Anh thời Victoria trong bối cảnh của họ với
những cải cách của chúng ta trong bối cảnh thời đại ngày nay, hẳn sẽ phải viết
về những người Anh thời Victoria như sau: “Chưa từng bao giờ có ít chương trình
hành động lại làm được nhiều điều với ít tốn kém như thế.” Còn đối với những cố
gắng tốn kém hàng tỉ đô la của chúng ta nhằm thay đổi cả thế giới, thì nhà sử học
đó hẵn phải viết là “Chưa từng bao giờ có nhiều chương trình hành động với mức
phí tổn khủng khiếp nhưng lại làm được ít thứ đến thế.” Phải chăng chủ nghĩa tư
bản còn có thể mang lại nhiều thứ khác mà bấy lâu nay chúng ta chưa hề biết. Với
bao nhiêu chuơng trình thất bại của phe xã hội chủ nghĩa chung quanh ta, có lẽ
đã đến lúc chúng ta nên tìm hiểu xem chủ nghĩa tư bản đã vận hành tốt đến nhường
nào trong quá khứ.
Tín ngưỡng và tự do
Những ý kiến ủng hộ chủ trương kinh tế
thời Victoria thường bị gán tội là tuyên truyền cho chủ nghĩa tư bản; và trong
số những chỉ trích đó, có không ít đến từ phe theo chủ nghĩa xã hội. Một trong
những đánh giá gây nhiều chú ý nhất về tự do mậu dịch và tự do kinh doanh mà
tôi từng đọc vài năm trước đây là của một người Áo theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
Karl Polanyi. Ông ta viết rằng “cái thị trường có khả năng tự điều chỉnh này…
đã tạo ra một lượng của cải vật chất lớn chưa từng có” (18) có
lẽ dùng từ như thế chưa đủ mạnh, ông ta còn viết thêm “Thế kỷ XIX làm nên một
hiện tượng chưa từng có trong biên niên sử của nền văn minh phương Tây, chủ yếu
là giai đoạn hòa bình 100 năm, 1815-1914”, tức là từ trận Waterloo đến “tiếng
súng tháng Tám” năm 1914. (Ở đây tôi lướt qua đoạn ông có xem xét đến cuộc chiến
Crimean hay xung đột Pháp-Phổ, nhưng ông cho đó là những bất ổn nhỏ. Riêng cuộc
nội chiến ở Hoa Kỳ thì không tính vì nó không xảy ra ở Âu Châu.)
Sau những lời tán tụng chủ nghĩa tư bản,
một áng văn bậc thầy có thể sánh với Hazlitt và von Mises viết vào những lúc
thăng hoa nhất, Polanyi lại chuyển sang cảnh báo chúng ta rằng thị trường tự do
“… sẽ tiêu diệt con người và biến môi trường quanh ta thành nơi hoang dã”. Điều
khiến ông e ngại tự do là hành vi mà con người sẽ, mà thật sự là họ đã, làm khi
họ được thả lỏng. Kiểm lại lịch sử nền tự do của nhân loại từ thời Cộng Hòa La
Mã đến nay, ta hẳn cũng sẽ hiểu được những lo lắng của Polanyi không phải là vô
cớ. Nói cách khác, trong suốt chiều dài lịch sử, tự do thật sự chỉ đến với những
ai có trách nhiệm và đạo đức cao. Muốn thế, thị trường tự do và nhà nước tự do
cần phải được xây dựng dựa trên cơ sở đạo lý vững chắc. Đây cũng chính là luận
điểm mà Edmund Burke từng chỉ ra ngay từ những ngày đầu của Cách mạng Pháp:
“Con người chỉ nên được phép hưởng tự
do trong chừng mực tương xứng với khả năng đức hạnh kiềm chế những cơn thèm
khát của chính bản thân họ … xã hội không thể tồn tại trừ phi ở đâu đó có một
quyền lực kiểm soát ý muốn và sự thèm khát của con người, và họ sẽ ít phải chịu
kiểm soát từ bên ngoài nếu như trong họ có đạo lý, và chịu nhiều hơn nếu họ không
có. Dường như tạo hóa đã có một thứ luật ngầm định không cho những ai ham muốn
quá độ được hưởng tự do, bằng cách buộc họ phải trở thành tù nhân của những
tham vọng của chính mình.”
(Hết)
Chú thích:
13) Earle E. Cairns, Saints
and Society, p. 43.
(14) George Barnett Smith, The
Life and Speeches of the Right Hon. John Bright, M.P., Vol. I, p. 133.
15 Dean Russell, Frederic Bastiat:
Ideas and Influence, p. 66.
(16) Ibid., p. 69.
(17) Robert Langbaum, The
Victorian Age, p. 9.
(18) Karl Polanyi, The Great
Transformation, pp. 3-5.
Nguồn: http://www.talawas.org/?p=2061