Lưu Đức Quang
1. Lịch sử lập hiến
Cộng hòa Pháp là quốc gia có lịch sử
lâu đời với truyền thống văn hóa, khoa học, chính trị, pháp luật… đáng tự hào.
Pháp cũng là quốc gia có lịch sử lập hiến đầy biến động và phức tạp bậc nhất
trên thế giới với hàng loạt các biến cố chính trị trong suốt hơn 200 năm qua:
đó là 5 cuộc cách mạng, 2 đế chế, 2 lần phục hồi vương quyền, 5 chế độ cộng
hòa. Khởi đầu từ cuộc Đại Cách mạng năm 1789, lịch sử lập hiến Cộng hòa Pháp đã
trải qua 12 chế độ chính trị với 16 bản Hiến pháp và các đạo luật Hiến pháp
quan trọng khác, cụ thể như sau:
Hiến pháp ngày 03/9/1791 thiết lập nền
quân chủ lập hiến và một chế độ đại diện dựa trên chủ quyền quốc gia, sự phân
chia quyền lực giữa nhà vua – người đứng đầu cơ quan hành pháp và một Quốc hội
được lập ra theo mức thuế, với nhiệm kỳ một năm. Hiến pháp này tồn tại 1 năm.
Hiến pháp ngày 24/6/1793 được thông
qua bằng trưng cầu ý dân, đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ nhất,
dựa trên chủ quyền nhân dân thể hiện bằng việc thành lập một Nghị viện thống nhất
và một Hội đồng hành pháp gồm 24 thành viên, phụ thuộc hoàn toàn vào Nghị viện.
Bản Hiến pháp này không được thi hành.
Hiến pháp ngày 22/8/1795 thiết lập chế
độ cộng hòa đại diện, dựa trên chủ quyền quốc gia, sự chia sẻ quyền lực giữa
hai Hội đồng (Hội đồng Nguyên lão và Hội đồng Năm trăm) và một cơ quan hành
pháp gồm 5 thành viên. Hiến pháp này tồn tại 4 năm.
Hiến pháp ngày 15/12/1799 thiết lập nền
cộng hòa dựa trên chủ quyền quốc gia với các cơ cấu quyền lực: 3 Tổng tài và 4
Hội đồng (Hội đồng Nhà nước, Viện lập pháp, Thượng viện, Viện dự luật). Hiến
pháp này tồn tại 3 năm.
Hiến pháp ngày 08/8/1802 xác lập chức
vụ Tổng tài suốt đời đối với Tổng tài thứ nhất (Napoleon Bonaparte), tăng cường
quyền lực cho Thượng nghị viện, giảm quyền lực của Viện dự luật. Hiến pháp này
tồn tại 2 năm.
Hiến pháp ngày 18/5/1804 xác lập chế
độ thừa kế thế vị đối với Hoàng đế Napoleon Bonaparte. Hiến pháp này tồn tại 10
năm.
Hiến pháp ngày 06/4/1814 do Thượng
nghị viện của Đế chế[2] thông qua, tái lập chế độ quân chủ và phổ thông đầu phiếu
nhưng bị vua Louis XVIII từ chối nên không được áp dụng.
Hiến pháp ngày 04/6/1814 do vua Louis
XVIII ban hành, khôi phục lại chủ quyền của nhà vua trong chế độ quân chủ lập
hiến với Nghị viện được bầu dựa trên mức thuế gồm 2 viện (Thượng nghị viện và Hạ
nghị viện). Hiến pháp có hiệu lực trong 16 năm (trừ thời kỳ “Một trăm
ngày”).
Hiến pháp ngày 22/4/1815 được ban
hành vào thời kỳ “Một trăm ngày” dựa trên chủ quyền quốc gia
và chế độ phổ thông đầu phiếu; đồng thời xác lập chế độ lưỡng viện và cơ quan
hành pháp. Hiến pháp này tồn tại 21 ngày.
Hiến pháp ngày 14/8/1830 xác lập nền
quân chủ đại diện (vua của người Pháp thay vì vua của nước Pháp), dựa trên chủ
quyền quốc gia, chế độ đại nghị lưỡng viện. Hiến pháp này tồn tại 18 năm.
Hiến pháp ngày 04/11/1848 lập ra nền Cộng
hòa thứ hai, xác lập chế độ đại diện dựa trên hai trụ cột (chủ quyền
nhân dân và chủ quyền quốc gia) và sự phân chia quyền lực giữa Tổng thống (được
thành lập bằng phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 4 năm) với một Viện lập pháp (được
thành lập bằng phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 3 năm). Hiến pháp này tồn tại 3
năm.
Hiến pháp ngày 14/01/1852 thiết lập nền
cộng hòa chuyên chế dựa trên học thuyết Ceasar dân chủ, gồm 2 Hội đồng được bổ
nhiệm và 1 Hội đồng được bầu cử. Trong thời gian Hiến pháp này có hiệu lực, Đế
chế (thứ hai) được khôi phục. Hiến pháp này tồn tại 18 năm.
Hiến pháp ngày 21/5/1870 thiết lập Đế
chế đại nghị kiểu Orlean với hai cơ quan hành pháp. Hiến pháp này tồn tại 4
tháng.
Ba đạo luật Hiến pháp ngày 24/2, 25/2
và 16/7/1875 đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ ba; đồng
thời, thiết lập chế độ đại nghị dựa trên chủ quyền quốc gia với một Tổng thống
không phải chịu trách nhiệm và có thẩm quyền lớn về mặt lý thuyết (giải tán Hạ
nghị viện, thành lập Chính phủ), được thành lập bằng bầu cử, có nhiệm kỳ 7 năm;
Hạ nghị viện được bầu bằng phổ thông đầu phiếu trực tiếp, Thượng nghị viện được
bầu bằng phổ thông đầu phiếu gián tiếp. Vai trò của cơ quan lập pháp được đề
cao. Trong nền Cộng hòa thứ ba (1870-1940), không có văn bản nào mang tên gọi
Hiến pháp nên có thể xem ba đạo luật trên là Hiến pháp của thời kỳ này. Hiến
pháp tồn tại 65 năm.
Đạo luật Hiến pháp ngày 10/7/1940 thiết
lập chế độ độc tài của quốc trưởng, trao cho Thống chế Petain – nguyên thủ quốc
gia, quyền lập hiến riêng, nắm mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong
giai đoạn này (4 năm), Thống chế Petain đã thông qua một số văn kiện hiến định,
khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của Đại cách mạng 1789
được thay thế bằng khẩu hiệu “Lao động – Gia đình – Tổ quốc”.
Đạo luật Hiến pháp ngày 02/11/1945 (“tiểu
Hiến pháp”) thiết lập chế độ tạm thời của quốc gia cho tới khi có một
Hiến pháp chính thức, được thông qua bằng trưng cầu ý dân, ban hành quy chế về
Hội đồng lập hiến. Hội đồng này đã bổ nhiệm tướng De Gaulle là người đứng dầu
Chính phủ.
Hiến pháp ngày 27/10/1946 đánh dấu sự
ra đời của nền Cộng hòa thứ tư, thiết lập chế độ đại nghị gồm
Tổng thống có quyền lực hạn chế, Quốc hội lưỡng viện. Hiến pháp này đề cao vai
trò của Quốc hội và tồn tại 12 năm. Trong giai đoạn này, tình hình chính trị hết
sức bất ổn, 24 Chính phủ đã thay nhau nắm quyền.
Hiến pháp ngày 04/10/1958 đánh dấu sự
ra đời của nền Cộng hòa thứ năm – chính thể hiện hành của
nước Pháp. Hiến pháp thiết lập chế độ Cộng hòa lưỡng tính dựa trên chế độ nghị
viện hợp lý và xu hướng đề cao vai trò của Tổng thống. Lần đầu tiên, Hiến pháp
quy định việc thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Hội đồng Hiến
pháp[3].
Từ khi ra đời tới nay, nền Cộng hòa
thứ năm đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với những sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
Chúng tôi khái quát thành 2 giai đoạn đáng chú ý sau đây:
- Giai
đoạn củng cố quyền lực của Tổng thống (nhiệm kỳ Tổng thống Charles De
Gaulle): Trong
giai đoạn này, vai trò của Tổng thống ngày càng mạnh mẽ. Tính chính đáng của
quyền lực Tổng thống được củng cố bằng sự kiện: năm 1962, Tổng thống De
Gaulle tự mình đưa ra trưng cầu ý dân về Hiến pháp, theo đó, thay đổi cách
lựa chọn Tổng thống bằng cách chuyển từ bầu cử qua đại cử tri sang phổ
thông đầu phiếu. Đồng thời, Nghị viện thể hiện quyền lực yếu ớt, thiếu
tính đối trọng, thể hiện ở lần duy nhất Hạ nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm
Chính phủ vào năm 1962. Các nhà khoa học Pháp gọi đây làNền Quân chủ
Cộng hòa.
- Giai
đoạn khủng hoảng thể chế (nhiệm kỳ Tổng thống Francois Mitterrand và
Jacques Chirac): Trong
giai đoạn này, hai vị Tổng thống F. Mitterrand và J. Chirac đã chấp nhận
tình huống chung sống chính trị[4] và xây dựng một quan niệm mới về chức
năng Tổng thống – người đại diện dân tộc với vai trò chủ yếu về quốc phòng
và ngoại giao và giảm nhiệm kỳ Tổng thống từ 7 xuống còn 5 năm (2000) cho
trùng với nhiệm kỳ Hạ nghị viện nếu không bị giải tán. Hệ quả là hai cuộc
bầu cử Tổng thống và Quốc hội có tầm quan trọng ngang nhau, Thủ tướng đóng
vai trò tích cực hơn trong việc điều hành Chính phủ.
Qua việc tìm hiểu đôi nét về lịch sử
lập hiến của Cộng hòa Pháp – chiếc nôi của những tư tưởng chính trị – pháp lý
tiến bộ trong thời đại Xã hội có Hiến pháp, chúng ta có thể rút ra mấy điều sau
đây:
- Một
là, lịch sử lập hiến của nước Pháp có lẽ đã thể hiện phần nào quy luật “phủ
định của phủ định” của triết học duy vật biện chứng, bởi cứ sau mỗi
thời kỳ xây dựng bất thành nền Cộng hòa thì nước này lại quay về với chế độ
Đế chế. Tuy nhiên, dân chủ hóa thể chế chính trị vẫn là xu hướng được khẳng
định và ngày càng phát triển về chất.
- Hai
là, “bản thân nội dung Hiến pháp không quan trọng bằng tinh thần
áp dụng Hiến pháp”[5]. Đây mới chính là yếu tố quyết định cho sức sống của mỗi
bản Hiến pháp hoặc đảm bảo cho Hiến pháp – có vị
trí xứng đáng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong sự vận
hành của đời sống xã hội.
- Ba
là, không thể có một bản Hiến pháp hoàn hảo và bất biến ngay từ lúc ra đời.
Các thể chế hiến định luôn chuyển mình theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước
và mong muốn của nhân dân. Một bản Hiến pháp có giá trị lâu bền phải chăng
là một bản Hiến pháp có tính mềm dẻo về mặt thể chế, tính linh hoạt trong
việc thay đổi chính nó.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp
Về mặt cấu trúc, Hiến pháp Cộng hòa
Pháp hiện hành là sự kết hợp giữa các văn bản chính trị – pháp lý sau đây:
Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân năm 1789, Lời nói đầu Hiến pháp
năm 1946, Hiến chương Môi trường năm 2004 và bản văn Hiến pháp năm 1958 (đã được
sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1962, 1974, 1992, 1993, 1995, 2000,
2003, 2005 và 2008) với lời nói đầu và 108 điều được chia thành 16 phần[6].
2.1. Các nguyên tắc hiến định
- Hiến
pháp xác định tiêu chí cơ bản của Nhà nước: “Nước Pháp không thể
phân chia, là Nhà nước phi tôn giáo, Nhà nước cộng hòa[7] dân chủ và xã hội” (điều 1). Điều 2
xác định phương châm của nền cộng hòa – “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” cũng
như nguyên tắc của nó – “Chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân”;
- Nguyên
tắc chủ quyền nhân dân: “Chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện chủ quyền đó thông qua những đại diện của mình hoặc bằng
trưng cầu ý dân. Không một nhóm dân cư, một cá nhân nào được phép chiếm dụng
chủ quyền này” (điều 3). Nguyên tắc này đã xác định hai hình thức
nhân dân thực hiện quyền lực của mình – dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện đồng thời chống lại mọi hình thức lạm quyền, độc quyền;
- Nguyên
tắc đa nguyên chính trị: “Các đảng và nhóm chính trị thúc đẩy việc
thể hiện ý kiến thông qua biểu quyết. Chúng được tự do hình thành và hoạt
động. Chúng phải tôn trọng các nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và nền dân
chủ” (điều 4). Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước Pháp,
địa vị pháp lý của các chính đảng được ghi nhận;
- Nguyên
tắc đảm bảo quyền con người, quyền công dân đặt nền tảng quan trọng đối với
việc xác lập, bảo vệ các quyền và tự do của cá nhân từ thời Đại cách mạng
Pháp[8].
2.2. Địa vị hiến định của con người
và công dân
Khác với nhiều Hiến pháp trên thế giới,
Hiến pháp năm 1958 không có phần riêng về địa vị hiến định của con người và
công dân mà nội dung này chỉ được quy định tại Lời nói đầu, trong đó, viện dẫn
Tuyên ngôn về quyền con người, quyền công dân năm 1789 và Lời nói đầu Hiến pháp
năm 1946[9] và một vài điều khoản riêng lẻ như: nguyên tắc công dân
bình đẳng trước pháp luật không phụ thuộc vào hoàn cảnh xuất thân, chủng tộc
hay tôn giáo (điều 2); chủ quyền nhân dân và quyền bầu cử (điều 3); tính đa
nguyên của các đảng chính trị và sự tôn trọng các nguyên tắc dân chủ (điều 4);
thẩm quyền của Nghị viện ban hành các đạo luật về quyền và tự do của công dân
(điều 34); quyền tự quyết của các dân tộc (điều 53); tính độc lập của cơ quan
tư pháp (điều 64); vai trò của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ tự do cá nhân
(điều 66)…
Tuyên ngôn về quyền con người, quyền
công dân năm 1789 đã xác lập những nguyên tắc mang tính phổ quát về quyền con
người như nguyên tắc bình đẳng:“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (điều 1);
nguyên tắc tự do: “Tự do là có thể làm bất cứ điều gì không gây hại cho
người khác” (điều 4); nguyên tắc thực thi pháp luật: “Bất cứ
hành vi nào không bị pháp luật cấm thì cũng không được phép ngăn cản và không
ai bị bắt buộc phải làm điều mà pháp luật không yêu cầu” (điều
5). Tuyên ngôn cũng quy định một số quyền tự nhiên của con người như các quyền
trong lĩnh vực tư pháp (quyền được xét xử bằng pháp luật, quyền được suy đoán
vô tội…), quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, quyền tư hữu…
Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 quy định
các quyền công dân về kinh tế, xã hội và văn hóa như: quyền bình đẳng nam nữ,
quyền cư trú, quyền được giáo dục, quyền và nghĩa vụ lao động, quyền tham gia
công đoàn, quyền được bảo vệ sức khỏe, được đảm bảo an ninh từ phía Nhà nước…[10]
2.3. Bộ máy nhà nước
Mục tiêu của các nhà lập hiến năm
1958 là bãi bỏ địa vị ưu thế của Nghị viện – từng là một trong những nguyên
nhân dẫn tới sự sụp đổ của nền Cộng hòa thứ tư, đồng thời, tăng cường quyền
hành của người đứng đầu đất nước để tạo nên sự ổn định và vững mạnh của chế độ
chính trị. Họ đã dùng hai giải pháp để đạt được mục tiêu trên: tăng cường quyền
lực cho Tổng thống và Thủ tướng bằng cách hạn chế quyền lực của Nghị viện. Sự
pha trộn giữa hai mô hình chính thể đại nghị và cộng hòa Tổng thống khiến người
ta có thể gọi nền Cộng hòa thứ năm là chính thể “Tổng thống được tăng
cường”, chính thể “Nghị viện được hợp lý hóa”, chính thể “nửa
Tổng thống” hay chính thể “cộng hòa lưỡng tính”. Việc
xác lập vai trò hoạch định chính sách của nguyên thủ quốc gia và quyền lập quy
của cơ quan hành pháp được coi là một trong những thành công lớn nhất của chính
thể này trong lịch sử lập hiến của nhân loại.
Nếu như ở chính thể đại nghị, Chính
phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện và ở chính thể cộng hòa Tổng thống,
Chính phủ lại chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống, thì ở Pháp, Chính phủ (Thủ
tướng và các Bộ trưởng) không những chỉ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện,
mà còn chịu trách nhiệm thực sự trước Tổng thống. Giống như chính thể đại nghị,
Chính phủ Pháp có Thủ tướng đứng đầu, nhưng thực ra, Chính phủ đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Tổng thống.
Sau khi chính sách của Tổng thống được
thông qua, Thủ tướng phải có trách nhiệm lãnh đạo Chính phủ thực thi các chính
sách đã được Tổng thống hoạch định, và phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
Tổng thống việc thực thi các chính sách này. Nếu không hoàn thành nhiệm vụ này,
Thủ tướng và các Bộ trưởng phải từ chức hoặc bị giải tán, Tổng thống không phải
chịu trách nhiệm, theo quy tắc “vô trách nhiệm” của nguyên thủ
quốc gia trong chế độ đại nghị. Thậm chí, Tổng thống còn có quyền giải tán Hạ
nghị viện.
Bên cạnh đó, chính quyền hành pháp của
Pháp cũng mang những đặc điểm quan trọng của chính thể cộng hòa Tổng thống như:
Tổng thống toàn quyền (về mặt pháp lý) bổ nhiệm Thủ tướng và các Bộ trưởng, nhưng
cũng giống như chế độ đại nghị, Tổng thống không thể bổ nhiệm một người khác nếu
như người đó không là thủ lĩnh của đảng cầm quyền. Sau đó, Thủ tướng giới thiệu
ứng viên cho các chức danh khác trong Chính phủ để Tổng thống bổ nhiệm. Chính
phủ chịu trách nhiệm trực tiếp trước Tổng thống.
Tuy nhiên, những năm gần đây, nền Cộng
hòa thứ năm bị chỉ trích là trao quá nhiều quyền lực cho Tổng thống, quá ít quyền
lực cho Nghị viện; do vậy, tính dân chủ chưa được bảo đảm đầy đủ, nền Cộng hòa
chưa có được tính điển hình. Lần sửa đổi Hiến pháp năm 2000 đã rút ngắn nhiệm kỳ
của Tổng thống từ 7 năm xuống còn 5 năm. Năm 2007, Tổng thống Nicolas Sarkozy
đã lập ra Ủy ban tư vấn và đề xuất về vấn đề hiện đại hóa và tái cân bằng các
thể chế của nền Cộng hòa thứ năm. Ủy ban này do cựu Thủ tướng Balladur đứng đầu,
tập hợp các chính trị gia, luật gia… nhằm đưa ra các đề xuất (77 đề xuất) giúp
cho các thể chế chính trị của Pháp đáp ứng được yêu cầu của một nền dân chủ thế
kỷ XXI. Ngày 21/7/2008, dự thảo này đã được Nghị viện thông qua. Theo đó, giới
hạn quyền lực của Tổng thống bị giới hạn và quyền lực của Nghị viện được củng cố
hơn:
- Đối
với Tổng thống: Ngoài
việc cho phép Tổng thống được quyền phát biểu trước Nghị viện, phần lớn
các điều khoản liên quan đến Tổng thống đều nhằm hạn chế quyền lực của thể
chế này như: quyền ân xá, quyền bổ nhiệm các quan chức cao cấp, thành viên
Hội đồng Hiến pháp và quyền sử dụng điều 16 Hiến pháp. Theo điều này, Tổng
thống có thể nắm trong tay quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong những
tình trạng khẩn cấp. Theo Hiến pháp sửa đổi, nếu Tổng thống muốn kéo dài
thời gian nắm giữ quyền hạn đặc biệt này hơn 60 ngày thì phải triệu tập và
được sự đồng ý của Hội đồng Hiến pháp;
- Đối
với Nghị viện: phân
chia lại thẩm quyền giữa Chính phủ với Nghị viện, tăng số lượng ủy ban
trong Nghị viện. Ngoài ra, ảnh hưởng của Chính phủ đối với Nghị viện được
giảm bớt thông qua các biện pháp như: Nghị viện có thể phản đối việc sử dụng
quy trình khẩn cấp, đặt ra thời hạn tối thiểu là 1 tháng từ khi trình một
dự thảo đến khi dự thảo được xem xét tại Nghị viện, buộc Chính phủ phải kịp
thời thông báo với Nghị viện về các chiến dịch quân sự và phải được sự đồng
ý của Nghị viện nếu muốn kéo dài các chiến dịch này quá 6 tháng[11].
* Tổng thống
Theo nhận định của nhiều nhà khoa học,
Hiến pháp năm 1958, bên cạnh việc tuyên bố một đặc trưng của chế độ nghị viện,
còn thiết lập một chế độ chính quyền cá nhân của Tổng thống. Trung tâm của bộ
máy chính quyền là Tổng thống – Tổng thống thực hiện chức năng kép: vừa là người
đại diện cho quốc gia, vừa lãnh đạo quyền hành pháp. Điều 5 quy định: Tổng thống
có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, là trọng tài điều hòa hoạt động của các cơ quan
công quyền và sự trường tồn của quốc gia; bảo vệ độc lập dân tộc, sự toàn vẹn
lãnh thổ và tôn trong các thỏa thuận và hiệp ước quốc tế. Tổng thống do
nhân dân trực tiếp bầu ra, với nhiệm kỳ 5 năm (trước lần sửa đổi Hiến pháp năm
2000, nhiệm kỳ Tổng thống là 7 năm). Tổng thống có thẩm quyền rất lớn, kể cả
quyền giải tán Nghị viện của chính thể đại nghị và toàn quyền thành lập chính
phủ của cộng hòa tổng thống. Hiến pháp năm 1958 của Pháp tăng cường sự chịu
trách nhiệm của Bộ trưởng trước Tổng thống và giảm tính chịu trách nhiệm của Bộ
trưởng trước Nghị viện. Về thẩm quyền, theo điều 19 Hiến pháp, thẩm quyền của Tổng
thống có thể phân chia thành hai loại: thẩm quyền tuyệt đối của Tổng thống và
thẩm quyền liên đới trách nhiệm với Thủ tướng hay các Bộ trưởng.
Trong lĩnh vực lập pháp, thẩm quyền quan trọng bậc nhất
của Tổng thống là quyền giải tán Hạ nghị viện với một số hạn chế: một là, không
thể thực hiện 2 lần trong một năm; hai là, không thể thực hiện trong thời gian
áp dụng tình trạng khẩn cấp theo điều 16; ba là, không thể thực hiện bởi Tổng
thống tạm quyền (do Chủ tịch Thượng nghị viện tạm thời đảm nhiệm cho đến khi Tổng
thống mới được bầu).
Trong lĩnh vực hành pháp, Tổng thống lãnh đạo tối cao
chính quyền hành pháp như đã phân tích. Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng,
sau đó, Thủ tướng đệ trình các ứng cử viên Bộ trưởng để Tổng thống bổ nhiệm. Nếu
Hạ nghị viện không tín nhiệm Thủ tướng, Tổng thống có hai lựa chọn: hoặc chọn
Thủ tướng mới hoặc giải tán Hạ nghị viện. Điều 15 quy định: Tổng thống là tổng
chỉ huy các lực lượng vũ trang và đứng đầu các hội đồng và ủy ban quốc gia tối
cao về quốc phòng.
Trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, Tổng thống cử đại sứ ra nước
ngoài, tiếp nhận đại sứ nước ngoài đến Pháp cũng như tham gia đàm phán, ký kết
các điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế có hiệu lực khi Nghị viện phê chuẩn hoặc
phải tổ chức trưng cầu ý dân như trường hợp thông qua Hiến pháp châu Âu.
Trong lĩnh vực tư pháp, Tổng thống là người bảo đảm cho
sự độc lập của cơ quan tư pháp (điều 64). Điều 17 Hiến pháp trao cho Tổng thống
quyền đặc xá sau khi có ý kiến tư vấn của Hội đồng thẩm phán tối cao và Bộ trưởng
Tư pháp. Trong số 18 thành viên của Hội đồng, Tổng thống, Chủ tịch Thượng nghị
viện, Chủ tịch Hạ nghị viện – mỗi người bổ nhiệm 3 thành viên.
* Chính phủ
Chính phủ là cơ quan tập thể bao gồm
Thủ tướng và các Bộ trưởng. Hiến pháp năm 1958 phân biệt hai loại cơ quan hành
pháp trung ương sau đây:
- Hội đồng Bộ trưởng là hội nghị Bộ trưởng do Tổng thống chủ toạ nhằm
quyết định các chính sách quốc gia. Thủ tướng chỉ được quyền chủ tọa các
phiên họp này khi được Tổng thống ủy quyền và theo một chương trình nghị sự
nhất định;
- Nội các là hội nghị Bộ trưởng do Thủ tướng chủ toạ nhằm chuẩn bị cho
các phiên họp chính thức của Hội đồng Bộ trưởng hoặc tổ chức thực hiện
chính sách do Tổng thống hoạch định.
Với tính chất “hai đầu” trong
tổ chức và hoạt động hành pháp, ở Pháp, khái niệm chính quyền hành pháp trung
ương rộng hơn khái niệm Chính phủ. Theo quy định tại điều 20 Hiến pháp, Chính
phủ có chức năng xác định và thực hiện chính sách quốc gia. Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Tổng thống và Nghị viện.
Thủ tướng điều hành hoạt động của
Chính phủ, chịu trách nhiệm về quốc phòng, đảm bảo việc thi hành các đạo luật
và có quyền ban hành văn bản pháp quy, đề nghị Tổng thống bổ nhiệm và cách chức
các Bộ trưởng; quyền sáng kiến lập pháp; đề nghị Nghị viện họp bất thường, đề
nghị Ủy ban hỗn hợp giữa Thượng nghị viện và Hạ nghị viện họp giải quyết bất đồng
trong quá trình thông qua các dự luật; yêu cầu Tổng thống kiến nghị với Nghị viện
xem xét lại dự luật; yêu cầu Hội đồng Hiến pháp phân định thẩm quyền giữa lập
pháp với lập quy; đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm trước Hạ nghị viện.
* Nghị viện
Nghị viện Pháp có cơ cấu hai viện bao
gồm: Quốc hội (Hạ nghị viện) và Thượng nghị viện. Nghị viện họp mỗi năm 1 lần.
Kỳ họp đầu tiên trong năm khai mạc vào ngày làm việc đầu tiên của tháng 10 và kết
thúc vào ngày làm việc cuối cùng của tháng 6. Thời gian tiến hành 1 kỳ họp của
Nghị viện không quá 120 ngày. Kỳ họp bất thường có thể được triệu tập với một
chương trình nghị sự được xác định theo đề nghị của Thủ tướng hoặc đa số nghị sỹ.
Hạ nghị viện gồm không quá 577 thành viên,
được thành lập bằng phổ thông đầu phiếu toàn quốc, nhiệm kỳ 5 năm. Cuộc bầu cử
được tiến hành theo hai vòng, các ứng viên phải đạt được ít nhất 12.5% số phiếu
ở vòng 1 mới được quyền tham dự vòng 2, vòng 2 xác định người thắng cứ theo
nguyên tắc đa số tương đối. Hạ nghị viện đại diện chung cho các tầng lớp dân cư
và được bầu theo tỷ lệ dân số.
Thượng nghị viện gồm không quá 348 đại biểu[12], được thành lập bằng bầu cử gián tiếp bởi các đại cử tri, nhiệm
kỳ 9 năm (từ năm 2004, giảm còn 6 năm), cứ 3 năm bầu lại 1/3 số thành viên (từ
năm 2011, các cuộc bầu cử Thượng nghị viện sẽ diễn ra 3 năm một lần để thay thế
½ số thành viên). Tuổi tối thiểu của ứng cử viên thượng nghị sỹ là 30 (trước
năm 2004 là 35 tuổi). Thượng nghị viện đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh
thổ.
Tổng thống có thể giải tán Hạ nghị viện,
không được quyền giải tán Thượng nghị viện. Nếu khuyết Tổng thống hoặc Tổng thống
không thể thực hiện nhiệm vụ của mình, Chủ tịch Thượng nghị viện sẽ thực hiện
chức năng của Tổng thống.
Tương quan quyền hạn giữa hai viện
cho thấy: quyền
lực của Hạ nghị viện có tính ưu thế so với quyền lực của Thượng nghị viện. Theo
quy định tại điều 45 và 46, mỗi dự luật hay sáng kiến luật phải được hai viện
biểu quyết tán thành. Nếu có bất đồng, hai viện phải thành lập 1 Ủy ban hỗn hợp
để thảo luận và quyết định. Nếu ủy ban này không thống nhất thì Chính phủ sau
khi đề nghị hai viện xem xét lại, có thể yêu cầu Hạ nghị viện đưa ra quyết định
cuối cùng với 2/3 số phiếu thuận trở lên. Điều 49 quy định: Hạ nghị viện có thể
buộc Chính phủ giải tán bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm sau 48 giờ kể từ khi
có ít nhất 1/10 số hạ nghị sỹ đề nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Trong lĩnh vực lập pháp, thẩm quyền của Nghị viện bị giới
hạn trong phạm vi 15 lĩnh vực theo quy định tại điều 34 Hiến pháp, ví dụ: quyền
công dân và những bảo đảm cơ bản cho công dân thực hiện các quyền, tự do, xác
nhận nghĩa vụ về tài sản hoặc nhân thân xuất phát từ yêu cầu quốc phòng; quốc tịch,
địa vị và năng lực của cá nhân, chế độ hôn nhân, thừa kế, tặng cho; ấn định trọng
tội, khinh tội và các hình phạt, thủ tục hình sự, quy chế thẩm phán; mức thuế
và thể thức thu thuế, quy chế phát hành tiền tệ; chế độ bầu cử Nghị viện và các
Hội đồng địa phương; thành lập các loại công sở; đảm bảo cơ bản đối với công chức
dân sự và nhân viên quân sự Nhà nước; vấn đề cơ bản về quốc phòng; nền hành
chính của các tập thể cộng đồng và nguồn tài chính của họ; vấn đề giáo dục; chế
độ sở hữu, các quyền và nghĩa vụ dân sự, thương mại; quyền lao động, thành lập
nghiệp đoàn; các nguồn thu và thuế Nhà nước; mục tiêu hoạt động kinh tế – xã hội
của Nhà nước. Ngoài những lĩnh vực trên, Chính phủ có thể thực hiện quyền lập
quy của mình.
* Hội đồng Hiến pháp (Hội đồng Bảo hiến)
Cơ cấu thành viên Hội đồng bao gồm hai loại: một
là, thành viên đương nhiên là các cựu Tổng thống (thành viên suốt đời); hai là,
thành viên do được bổ nhiệm (Tổng thống, Chủ tịch Thượng nghị viện, Chủ tịch Hạ
nghị – mỗi chức danh bổ nhiệm 3 thành viên) với nhiệm kỳ 3 năm và cứ mỗi 3 năm,
1/3 số thành viên phải được thay đổi. Thành viên phải chấp hành nguyên tắc bất
khả kiêm nhiệm các chức vụ nhà nước khác cũng như tham gia các tổ chức kinh tế,
lãnh đạo các chính đảng. Chủ tịch Hội đồng do Tổng thống bổ nhiệm.
Về thẩm quyền, Hội đồng chịu trách nhiệm thẩm
tra tính hợp pháp của hoạt động ban hành pháp luật của các cơ quan nhà nước (điều
37, 41); thẩm tra tính hợp hiến của các đạo luật (bắt buộc đối với các đạo luật
tổ chức, không bắt buộc đối với các đạo luật khác); tính hợp hiến của các điều
ước quốc tế (điều 54, thẩm tra không bắt buộc); tính hợp pháp của các thủ tục
trưng cầu ý dân, bầu cử Tổng thống, bầu cử Nghị viện; tuyên bố kết quả bầu cử Tổng
thống; tuyên bố việc Tổng thống tạm thời không đảm nhiệm được chức vụ hoặc xác
định vị trí Tổng thống bị khuyết. Với chức năng của một cơ quan tài phán Hiến
pháp, Hội đồng đã phát triển một hệ thống án lệ cho phép bảo vệ các quyền và tự
do cá nhân dựa trên lời mở đầu của Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công
dân và các nguyên tắc cơ bản được luật pháp thừa nhận. Nó cũng chính là người
phân định ranh giới giữa hoạt động lập pháp với lập quy – nguyên nhân chính của
nhiều mâu thuẫn chính trị giữa Nghị viện với Chính phủ.
Điểm đặc biệt của mô hình Hội đồng Hiến pháp
Pháp so với nhiều nước khác là việc xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước
khi nó được Tổng thống công bố. Vì vậy, mô hình này có ý nghĩa to lớn trong việc
ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra khi một đạo luật vi hiến được thi
hành.
* Hệ thống tư pháp
Hệ thống tòa án được phân định thành hai tiểu hệ
thống: Tòa án Tư pháp và Tòa án Hành chính, ngoài ra còn có Tòa án đặc biệt. Hệ
thống Tòa án Tư pháp có thể được phân chia thành hai loại sau: một là, xét dưới
góc độ chuyên môn, có các Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Lao động, Tòa Thương mại…
Hệ thống này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực
kinh tế – xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Hệ thống Tòa án Hành
chính có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính, xem xét tính đúng đắn của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính của các công chức và cơ quan quản lý
nhà nước.
Hệ thống Viện công tố thay mặt Nhà nước thực hiện quyền
buộc tội trước Tòa án. Hệ thống này được tổ chức theo ngành dọc và gắn với hệ
thống Tòa án Tư pháp. Công tố viên chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp[13].
2.4. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp
Việc sửa đổi Hiến pháp được quy định
trong Phần XVI với duy nhất một điều là điều 89, theo đó, quy trình này có hai
bước như sau:
1. 1. Sáng
kiến sửa đổi: Tổng
thống là người có quyền đưa ra sáng kiến sửa đổi Hiến pháp dựa trên đề xuất của
Thủ tướng và các nghị sỹ. Như vậy, cơ quan hành pháp và lập pháp cùng chia sẻ
quyền đưa ra sáng kiến sửa đổi Hiến pháp. Tương tự, việc đưa ra sáng kiến sửa đổi
của nhánh hành pháp cũng phải dưa trên sự nhất trí giữa Tổng thống và Thủ tướng;
2. 2. Thông
qua dự thảo sửa đổi: có hai tình huống như sau: Một là, nếu các
nghị sỹ đề xuất sửa đổi, Tổng thống trình dự thảo sửa đổi trước mỗi viện của Quốc
hội để thông qua với thủ tục khác nhau, sau đó, sẽ tiến hành trưng cầu ý dân[14]. Khác với thủ tục lập pháp, trong trường hợp có bất đồng giữa
hai viện, Thủ tướng có quyền triệu tập một Ủy ban hỗn hợp hai viện để soạn thảo
một văn bản chung. Nhiều dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã thất bại ở giai đoạn này,
ví dụ: đề xuất mở rộng lĩnh vực trưng cầu ý dân (năm 1984), tăng cường quyền lực
của Hội đồng Hiến pháp (năm 1990, 1993)… do bất đồng quan điểm giữa hai viện. Hai
là, nếu Chính phủ đưa ra đề xuất sửa đổi, Tổng thống có hai lựa chọn:
hoặc Tổng thống hành xử như trên hoặc Tổng thống trình dự thảo sửa đổi trước Hội
nghị lập hiến (gồm 2 viện Quốc hội) do Chủ tịch Hạ Nghị viện chủ tọa để thông
qua với 3/5 số phiếu tán thành mà không cần tổ chức trưng cầu ý dân[15].
Cùng với hai bước trên, điều khoản hiến
định này cũng đưa hai hạn chế của việc sửa đổi: một là, hạn chế về hoàn cảnh: “nghiêm
cấm sửa đổi khi sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị đe dọa”[16] (nhằm tránh tình trạng Hiến pháp bị buộc phải
sửa đổi trong bối cảnh đất nước bị xâm lược hoặc đang có xung đột hoặc trong thời
gian chức vụ Tổng thống bị bỏ trống…); hai là, hạn chế về nội dung: “hình
thức chính thể Cộng hòa của Chính phủ Pháp không thể bị sửa đổi”[17]. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học Pháp, lỗ hổng của
kỹ thuật lập hiến nằm ở chỗ Hiến pháp lại không nghiêm cấm việc sửa đổi chính
điều 89 này. Do vậy, về mặt lý thuyết, Chính phủ có thể sửa đổi hoặc xóa bỏ điều
89 để có thể “tự do” sửa đổi Hiến pháp, kể cả việc thay đổi
hình thức chính thể Cộng hòa [18].
2.5. Một số nội dung khác
- Địa
vị pháp lý của các đảng phái chính trị;
- Địa
vị pháp lý của các tổ chức tư vấn cho Chính phủ: Hội đồng Nhà nước và Hội
đồng Kinh tế, xã hội và môi trường;
- Quy
chế pháp lý của các cộng đồng lãnh thổ;
- Quan
hệ với cộng đồng Pháp ngữ;
- Quan
hệ với Liên minh châu Âu;
- Hiến
chương về Môi trường.
3. Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp
- Hiến pháp quy định chính thể Cộng hòa hỗn hợp: Rút kinh nghiệm từ thất bại của
chính thể đại nghị trong nền Cộng hòa thứ tư, các nhà lập hiến đã xây dựng
một chính thể có tính cách pha trộn giữa chính thể đại nghị với chính thể
Cộng hòa Tổng thống: Quốc hội và Tổng thống đều do nhân dân chọn ra thông
qua bầu cử; Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng mà không cần sự chấp
thuận của Quốc hội; Chính phủ chịu trách nhiệm trước Tổng thống và Hạ nghị
viện. Việc xác lập vai trò hoạch định chính sách của nguyên thủ quốc gia
và quyền lập quy của Chính phủ được xem là một trong những thành công
lớn nhất của chính thể này trong lịch sử lập hiến của nhân loại. Qua
hơn nửa thế kỷ, chính thể này đã thể hiện tính linh hoạt khá cao, góp phần
tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, giúp nước Pháp thoát khỏi nhiều cuộc
khủng hoảng chính trị.
- Hiến pháp xây dựng cơ chế bảo hiến bằng Hội đồng: Lần đầu tiên được thành lập theo
quy định của Hiến pháp năm 1958, Hội đồng bảo hiến có chức năng chính là
xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi chúng được công bố (bắt
buộc đối với các đạo luật tổ chức, không bắt buộc đối với các đạo luật thường).
Ngoài ra, Hội đồng còn giải quyết khiếu nại và tham gia tổ chức hoạt động
bầu cử Quốc hội, Tổng thống; giải quyết khiếu nại và tham gia tổ chức
trưng cầu ý dân; tham gia vào việc áp dụng tình trạng khẩn cấp theo điều
16 Hiến pháp; xác định tình trạng khuyết Tổng thống; xem xét sự phù hợp giữa
điều ước quốc tế với Hiến pháp; giải quyết các tranh chấp về việc phân định
thẩm quyền giữa Chính phủ với Quốc hội (phân định quyền lập pháp với quyền
lập quy). Đây được xem là một mô hình bảo hiến chuyên biệt, mang tính
chính trị – pháp lý, phòng ngừa từ xa đối với những biểu hiện vi hiến.
- Hiến pháp tiếp tục phát triển trong xu hướng toàn cầu hóa: Cũng như nhiều thành viên khác của
Liên minh châu Âu, Hiến pháp năm 1958 đã được bổ sung những quy định về Cộng
đồng châu Âu và Liên minh châu Âu từ lần trưng cầu ý dân năm 1992. Chương
XV – “Về Liên minh châu Âu” – gồm 7 điều từ điều 88-1 đến
88-7, nói về việc tham gia Liên minh cũng như trách nhiệm của nước Pháp
trong việc thực hiện những thỏa thuận của Liên minh, đặc biệt là Hiệp ước
Lisbon năm 2007. Năm 2004, Hiến chương về Môi trường được bổ sung trở
thành một bộ phận của Hiến pháp nhằm khẳng định quyền con người được sống
trong môi trường cân bằng để đảm bảo sức khỏe, nghĩa vụ bảo vệ và nâng cao
giá trị môi trường của các cá nhân cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong
lĩnh vực quan trọng này.
[1] Lưu Đức Quang – Giảng viên Trường Đại học Luật
Tp. HCM.
[2] Đế chế: chế độ đặt dưới sự điều hành của Hoàng đế, dựa
trên cơ sở Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp luôn bị Hoàng đế điều chỉnh theo ý
chí chủ quan của mình.
[3] Xem chi tiết: Charles Debbasch – Jacques Bourdon –
Jean-Marie Pontier – Jean-Claude Ricci (2005),Từ điển Thuật ngữ Chính trị
Pháp – Việt, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 147-151
[4] Chính đảng của Tổng thống không chiếm đa số trong Hạ nghị
viện, do vậy, Tổng thống phải bổ nhiệm Thủ tướng là người thuộc phe đối lập với
mình trong các giai đoạn 1986-1988, 1993-1995, 1997-2002.
[5] Nhận định của Serge Berstein – chuyên gia người Pháp về lịch
sử chính trị thế kỷ XX thuộc Viện Nghiên cứu Chính trị Paris. (Nguồn: Serge
Berstein (2006), Chân dung các Nguyên thủ Pháp, Nxb. Tri thức, Hà Nội).
[6] Xem toàn văn Hiến pháp năm 1958 tại: http://www.assemblee-nationale.fr/english/8ab.asp.
Xem thêm: A.N. Gơlavixchicôva, L.IU. Gruđxưna, V.A. Malưsep (2006), Luật
Hiến pháp nước ngoài qua các bảng kê và biểu đồ, Nxb. Eksmo, Matxcơva, tr.
161-164.
[7] Điều 89 Hiến pháp cấm sửa đổi quy định về Chính thể Cộng
hòa.
[8] Xem thêm: Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2007), Hệ
thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ chức và hoạt động), Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội, tr. 106-110.
[9] Trong một số phán quyết của mình, Hội đồng Hiến pháp đã
xác định hai văn kiện này cũng như các nguyên tắc cơ bản khác được các đạo luật
của Nhà nước thừa nhận là những bộ phận của Hiến pháp.
[10] Xem thêm: Viện Khoa học pháp lý (2005), Thể chế
chính trị và bộ máy nhà nước một số nước trên thế giới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
tr. 19-25.
[11] Dẫn theo: http://www.daibieunhandan.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/38/ContentID/56026/Default.aspx
[12] Trước cuộc cải cách Thượng nghị viện năm 2003, số thành
viên là 321. Từ năm 2004, số thành viên là 331. Từ năm 2008, số
thành viên là 343. Từ năm 2011, số thành viên là
348.
(Nguồn: http://www.senat.fr/lng/en/election_senateurs.html)
[13] Xem thêm: Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước và
pháp luật tư sản đương đại – Lý luận và thực tiễn(Sách chuyên khảo), Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, tr. 174-218.
[14] Các cuộc trưng cầu ý dân nhằm sửa đổi Hiến pháp năm 1958
đã được tổ chức ngày 28/10/1962, 24/9/2000.
[15] Do lo ngại rằng các nghị sỹ có thể phá hoại bản Hiến
pháp và hiểu được tâm lý ngại đưa ra trưng cầu dân ý của các nghị sỹ nên Tướng
De Gaulle đã đưa ra quy định này trong Hiến pháp.
[16] “No amendment procedure shall be commenced or
continued where the integrity of national territory is placed in jeopardy.”
[17] “The republican form of government shall not be the
object of any amendment.”
[18] Về điểm này, có thể tham khảo kinh nghiệm của các nhà lập
hiến Liên bang Nga tại mục 3 – chương II.
nguồn:https://cungviethienphap.wordpress.com/2013/02/02/hien-phap-cong-hoa-phap/