Nho giáo

Posted on
  • Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • I. Định nghĩa.
    II. Nguồn gốc của Nho giáo.
    III. Tôn chỉ của Nho giáo.
    IV. Học thuyết của Nho giáo :
    A. Hình Nhi Hạ học.
    B. Hình Nhi Thượng học.
    V. Triết lý của Nho giáo :
    1.  Nhơn Sanh quan.
    2. Vũ Trụ quan.
    VI. Kinh điển.
    VII. Tiểu sử của Đức Khổng Tử.
    VIII. Các Chi phái.
    IX. Sự Giáo dục.
    X. Nho giáo VN qua các triều đại.
    XI. Phần kết.
    I. Định nghĩa :
    NHO : . . .  theo Hán tự, do chữ Nhơn . . và chữ Nhu . . .        ghép lại. Nhơn là người, Nhu là cần dùng.
    Nho là hạng người luôn luôn được cần dùng đến để giúp ích cho nhơn quần xã hội biết cách ăn ở sao cho hợp với lòng người và lẽ Trời.
    Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời.
    Như vậy, Nho là những hạng người học thông đạo lý của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp với lòng người.
    Sách Pháp Ngôn có câu : “Thông Thiên định Địa viết Nho”. Nghĩa là : Người biết rõ cả Thiên văn, Địa lý,  thì  mới gọi là Nho.
    Phàm những người Nho học thì chuyên về mặt áp dụng thực tế, chớ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ  Phật giáo hay Lão giáo, chỉ biết xuất thế, lo tu độc thiện kỳ thân.
    GIÁO : Dạy, tôn giáo, một mối đạo.
    NHO GIÁO là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về Nhơn đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội.
    Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa : “ Thiên Địa Vạn vật đồng nhứt thể” , nghĩa là : Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau.
     Phương pháp của Nho giáo là  phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản.
    Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :
    Về Tín ngưỡng : Luôn luôn tin rằng : Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là : Trời và Người tương quan với nhau.
    Về Thực hành : Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.
    Về Trí thức : Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
    Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn giáo rất cao minh của nhơn loại, đã phát huy ra từ xưa tới nay. Tuy rằng người ta đem ra thi hành không được hoàn toàn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc cái tinh thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quí trọng đặc biệt.
    II. Nguồn gốc của Nho giáo :
    Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở nước Tàu. Thuở đó, vua Phục Hy, là một Thánh Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh. Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết được lẽ Âm Dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái, cắt nghĩa sự biến hóa của Trời Đất để làm nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối của văn tự  về sau nầy.
    Vua Phục Hy lại còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm lấy tơ làm quần áo, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó  mới có danh từ gia tộc.
    Sau, đến đời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế),  mới chế ra áo mão, và sai Ông Thương Hiệt chế ra chữ viết.
    Đó là khởi thủy của Nho giáo, thành hình do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất.
    Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời thì phải chết.
    Nho giáo đã giúp nước Tàu thời Thượng cổ được hòa bình, dân chúng trên thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc.
    Tiếp theo đến đời nhà Châu, vua Văn Vương và con của Ngài là Châu Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho giáo, diễn giải Kinh Dịch do Phục Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự. Đó là Nho giáo thuộc  Nhứt Kỳ Phổ Độ.
    Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, có Đức Khổng Tử  ra đời. Đức Khổng Tử chỉnh đốn và san định  kinh sách, phục hưng Nho giáo, tạo thành một giáo thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng đáng đứng ngang hàng với Lão giáo và Phật giáo.
    Đó là Nho giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ, mà Đức Khổng Tử được xem là Giáo Chủ Nho giáo.
    Kể từ năm Bính Dần (1926), mở đầu một kỷ nguyên  mới, với trình độ tiến hóa rất cao của nhơn sanh, chấm dứt thời Nhị Kỳ Phổ Độ, để bước qua thời Tam Kỳ Phổ Độ.
    Đạo Nho, kể từ khi Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau được các vị Thánh nhân như Tử Tư, Mạnh Tử, phát huy đến độ rực rỡ, rồi sau đó dần dần suy tàn theo thời gian, vì không có bực tài giỏi nối tiếp xiển dương, cuối cùng trở thành một môn học từ chương dành cho sĩ tử leo lên đường hoạn lộ. Cái tinh túy của Nho giáo đã bị vùi lấp và Nho giáo được sử dụng một cách lệch lạc theo ý riêng của kẻ phàm trần.
    Ngày nay, Đấng Thượng Đế mở ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để chấn hưng và hợp nhứt 3 nền tôn giáo lớn ở Á Đông là : Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, để tạo ra một nền Tân Tôn giáo, gọi là Đạo Cao Đài, dung hợp các nền tôn giáo xưa, có một Giáo lý và Triết lý thuần nhất, đầy đủ từ thấp đến cao, thích hợp với trình độ tiến hóa rất cao của  nhơn sanh hiện nay,  mới có thể kềm giữ được tâm lý của  nhơn sanh, hướng dẫn  nhơn sanh vào đường Thánh đức.
     III. Tôn chỉ của Nho giáo :
    Tôn chỉ của Nho giáo gồm :
    -         Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể.
    -         Trung Dung.
    1.     Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể :
    Con người sanh ra đã bẩm thụ cái Lý và cái Khí của Trời Đất, tức là cùng với Trời Đất có thể tương liên tương cảm và tương ứng nhau được.
    Sự tương  cảm ấy lúc nào cũng có, nhưng khi ta để cho lòng tư dục dấy lên mạnh mẽ, chỉ biết tính toán để làm lợi riêng cho mình thì cái tinh thần bị rối loạn đi, cái trực giác trở nên ám muội, nên cái cảm ứng ta không biết được.
    Nhưng nếu ta biết đè nén lòng tư dục, giữ cho lúc nào cũng có thái độ điều hòa, thì  trực giác trở nên mẫn huệ, biết được các điều sâu xa bí ẩn, tức là tương  cảm được với Trời.  
    Trời sanh ra con người và vạn vật, nên Trời có gì thì con người có nấy, nên gọi Trời là Đại Thiên Địa, và con người là Tiểu Thiên Địa. Trời và người đồng thể nên tương  liên tương  cảm với nhau là điều dĩ nhiên.
     2.  Trung Dung :
    Trung là không lệch về phía nào, Dung là không thay đổi. Trung  là đường chánh trong thiên hạ, Dung là nhất định trong thiên hạ. Vậy, Trung Dung là không lệch về phía nào,  luôn luôn giữ thái độ dung hòa, không thái quá, cũng không bật cập, trong quan hệ đối với người hay xử lý các việc.
    Vũ trụ và vạn vật luôn luôn biến hóa theo lẽ điều hòa và tương  đối, lưu hành mãi mãi không lúc nào ngừng nghỉ. Thiên đạo đã không cố định thì việc đời có gì là cố định ?
    Vậy ta cứ tùy thời mà hành động, miễn sao giữ được sự điều hòa và trung chánh.
    Làm việc gì cũng phải lấy Trung Dung làm căn bản, tức là không thái quá, cũng không bất cập, luôn luôn thích hợp với Đạo Trung hòa của Trời Đất.
    Đức Khổng Tử đem cái tôn chỉ ấy lập thành một Nhân sinh triết học, tức là một nền luân lý rất hòa nhã, êm ái, làm cho người ta sống thư thái vui vẻ, không buồn bã lo sợ. Những điều : Hiếu, Nghĩa, Trung, Tín, cũng đều do đó mà ra cả.
     IV.  Học thuyết của Nho giáo :
              Học thuyết của Nho giáo tóm gọn trong 3 điều sau đây :
    ·        Sự biến hóa của vũ trụ quan hệ đến vận mạng của nhơn loại.
    ·         Luân thường đạo lý trong đời sống xã hội.
    ·        Lễ Nhạc trong việc tế Trời Đất, Quỉ Thần và Tổ Tiên.
    Đó là những điều căn bản xác định Nhân sinh quan và Vũ trụ quan  của một nền tôn giáo.
    Do đó, ta có thể nói rằng, trước thời Đức Khổng Tử, chỉ là Nho học, nhưng sau thời Đức Khổng Tử, Nho học được Ngài hoàn chỉnh, trở thành một tôn giáo hẳn hoi, gọi là Nho giáo, giống như Phật giáo, Lão giáo, hay Thiên Chúa Giáo.
    Đứng về phương diện tôn giáo, học thuyết của Nho giáo được chia làm 2 phần rõ rệt :
    A.     Hình Nhi Hạ học.
    B.     Hình Nhi Thượng học.
    A.    Hình Nhi Hạ học :
    Hình Nhi Hạ học là cái học thuộc về Hạ thừa, làm căn bản  cho Thượng thừa, là cái học cụ thể về những điều quan hệ đến cuộc sống của con người một cách thiết thực.
    Chủ yếu Hình Nhi Hạ học là dạy về Nhơn đạo. Không có một nền tôn giáo nào dạy về Nhơn đạo một cách kỹ lưỡng và sâu sắc bằng Nho giáo. Sau đây là một số điểm chánh  :
    -         Quân tử, Tiểu nhân.
    -         Tu thân.
    -         Công bình, Bác ái.
    -         Tam Cang, Ngũ Thường, Tam Tùng, Tứ Đức.
    -         Lễ Nhạc.
    -         Chính danh định phận.
    1. Quân tử  - Tiểu nhân :
    Nho giáo chia những người trong xã hội làm 2 hạng : Quân tử và Tiểu nhân.
    *  Quân tử  là người có đức hạnh hoàn toàn, nhơn phẩm cao quí, chăm lo Đạo Thánh Hiền để sửa mình, dẫu nghèo khó cũng không làm điều trái đạo.                                             
    *  Tiểu nhân  thì hoàn toàn trái ngược, kẻ tiểu nhân có chí khí hèn hạ, tham danh cầu lợi, miệng nói nhân nghĩa mà trong lòng tính chuyện bất nhân, dù giàu có nhưng tinh thần vẫn đê tiện.
    Người Quân tử  bao giờ cũng tùng Thiên lý, cho nên tâm tánh quang minh, thích làm việc nghĩa, càng ngày càng cao thượng; kẻ Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhơn dục, chí khí thấp thỏi, nên luôn luôn bị vật dục khiến sai, chỉ biết cái lợi riêng cho mình, càng ngày càng thêm hèn hạ.
    Quân tử thì trung dung vì hiểu được cái thấp cái cao, Tiểu nhân thì phản trung dung vì chỉ biết tư lợi.
    Quân tử  chỉ cầu ở mình, nên cái đức càng ngày càng sáng thêm; Tiểu nhân thì mong cầu ở người, nên cái lòng dục càng lúc càng buông xổng thêm ra.
    Học làm Quân tử thì phải thành thật, không bao giờ tự dối mình mà làm hại cái biết của mình.
    Muốn học cho đạt cái đạo của người Quân tử thì phải theo đúng như lời Đức Khổng Tử dạy : “ Dốc lòng tin, ham sự học, giữ cho vững, dẫu chết cũng không thay đổi, làm cho cái Đạo hay hơn lên. Không vào nước đã nguy, không ở nước có loạn. Đời có Đạo thì ra làm mọi việc, đời không Đạo thì ẩn mà sửa mình. Nước có Đạo mà mình nghèo và hèn là xấu hổ; nước không Đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ.”
    2. Tu thân :
    Người Quân tử cần phải học hỏi luôn luôn để biết mà sửa mình. Muốn sửa mình (Tu thân), trước hết phải giữ cái Tâm cho chánh, cái Ý cho thành, rồi  mới Cách Vật, Trí Tri được. Do đó, Nho giáo đưa ra Bát Điều Mục, tức là 8 bước thực hành theo thứ tự sau đây :
    -         Cách vật : Cách ly sự vật để quan sát cho rõ ràng.
    -         Trí tri : Nghiên cứu để biết tận gốc rễ của sự vật.
    -         Thành ý : Rèn luyện ý chí thành thật dũng mãnh.
    -         Chánh tâm : Thanh lọc tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm của vật dục.
    -         Tu thân : Sửa đổi những điều sai lầm của mình.
    -         Tề gia : Sắp đặt các việc gia đình cho đúng phép.
    -         Trị quốc : Cai trị dân theo đường lối chơn chánh.
    -         Bình Thiên hạ : Đem lại thanh bình và hạnh phúc cho toàn dân.
    3.     Tam Cang - Ngũ Thường,
         Tam Tùng - Tứ Đức :
    Đức Khổng Tử dạy về Nhơn đạo  :
    ·        Nam thì giữ Tam Cang và Ngũ Thường.
    ·        Nữ  thì  giữ  Tam Tùng và Tứ Đức.
    a)      Tam Cang : Ba Giềng mối gồm : Quân thần cang,    Phụ tử cang, Phu thê cang.
    Quân thần cang : Giềng mối vua tôi, tức là Trung : Trung với nước, trung với dân. Không nên quan niệm hẹp hòi là trung với một cá nhân ông vua hay một dòng họ vua, vì đó là ngu trung. Chỉ trung với vua khi nào gặp được vị vua sáng suốt (Quân minh thần trung), chúa Thánh tôi hiền.
    Phụ tử cang : Giềng mối cha con, cha mẹ phải hiền, hết dạ thương con và con phải hiếu thảo với cha mẹ.
    Phu thê cang : Giềng mối vợ chồng.
    b)     Ngũ Thường : Năm điều thường có : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
    Nhân : Lòng thương người mến vật.
    Nghĩa : Việc đối xử theo lẽ phải, biết đền ơn đáp nghĩa đối với người và vật.
    Lễ : Thể hiện sự tôn kính và trật tự trong ý nghĩ, lời nói và việc làm.
    Trí : Sự hiểu biết sáng suốt, phân biệt phải quấy.
    Tín : Không gian dối, gạt gẫm.
    c) Tam Tùng : Ba điều phải theo của người phụ nữ : Tại gia tùng phụ, Xuất giá tùng phu, Phu tử tùng tử.
    Tại gia tùng phụ : Ở nhà thì nghe theo lời của cha mẹ.
    Xuất giá tùng phu : Có chồng thì phải tùng theo chồng.
    Phu tử tùng tử : Chồng chết thì ở vậy nuôi con cho nên người, không nên tái giá.
    d)     Tứ Đức : Bốn Đức của người phụ nữ : Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
    Công : Chăm lo làm công việc gia đình.
    Dung : Chăm sóc thân thể cho tốt đẹp, sạch sẽ.
    Ngôn : Lời nói dịu dàng, đoan chánh.
    Hạnh : Ngay thẳng, nhân ái trong mọi việc.
    4.     Công bình - Bác ái :
    Người ta sanh ra ở đời, ai cũng bẩm thụ cái Lý và Khí của Trời Đất như nhau, nên đều chịu mệnh Trời như nhau. Như vậy, mọi người đều bình đẳng và là anh em với nhau.
    Một hôm, Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử :
    - Có lời nào khả dĩ thi hành được chung thân không ?
    Đức Khổng Tử đáp :
    Kỳ thứ hồ ! Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. (Chữ Thứ chăng ! Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.)            Đó là Công bình và Bác ái. Nó nằm trong cái Đạo Nhất Quán của Đức Khổng Tử : Đạo Nhân.
     5.     Lễ Nhạc :
    A.     LỄ :
    Nho giáo dùng Lễ cốt để tạo thành một tạp quán Lễ Nghĩa, khiến cho người ta làm điều lành điều phải một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ.
    Dùng Lễ có cái hay là ngăn cản những việc xấu không  cho  xảy ra, còn dùng pháp luật là để trị những cái xấu đã xảy ra. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ chớ không trọng Hình phạt.
    Chữ Lễ, trước tiên dùng với ý nghĩa là các hình thức cúng tế cầu Thần linh ban phước và cúng tế Tổ tiên. Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hạp với phong tục và tạp quán của dân chúng trong việc Quan, Hôn, Tang, Tế. Sau nữa, chữ Lễ còn có nghĩa thật rộng, gồm cả cái quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của dân chúng cho thích hợp với cái lẽ tự  nhiên của Trời Đất.
    Cho nên Kinh Lễ của Nho giáo nói rằng :  Lễ giả, Thiên chi tự.” Nghĩa là : Lễ là cái trật tự của Trời. Do đó, Nho giáo rất chú trọng về Lễ, và dùng Lễ vào 4 mục đích  :
    1. Dùng Lễ để hàm dưỡng tánh tình của con người.
    Dùng Lễ để tạo thành một không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tạp quán tốt, khiến người ta làm điều phải điều lành một cách tự nhiên mà không biết.
    Vào chỗ đền chùa, thấy khung cảnh tế lễ trang nghiêm, tự nhiên sanh lòng tôn kính. Vào nơi đám tang, thấy  không khí ảm đạm thê lương, tự nhiên sanh lòng bi ai trắc ẩn.
    Vậy nhờ Lễ mà con người được khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao thượng.
    2. Dùng Lễ để giữ thích hợp với đạo Trung Dung, không cho thái quá, mà cũng không cho bất cập. Nhờ vậy, thể xác và tinh thần của con người được quân bình, hành động lúc nào cũng được sáng suốt và chừng mực.
    Đức Khổng Tử  bảo thầy Nhan Uyên (Nhan Hồi) là người đã hiểu rõ đạo Nhân hơn người là vì do Lễ. “Phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn, phi Lễ vật động.” Nghĩa là : Không phải Lễ thì chớ nhìn, không phải Lễ thì chớ nghe, không phải Lễ thì đừng nói, không phải Lễ thì chớ làm.
    3. Dùng Lễ để định lẽ phải trái, tình thân sơ, và trật tự trên dưới phân minh.                                                                          Nhờ Lễ mà phân biệt được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui định sự đối xử khác nhau một cách rõ rệt. Do đó không còn chỗ hiềm nghi, định rõ lẽ phải trái.
    Nhờ Lễ mà định được cái Chánh danh. Có Chánh danh  mới định cái phận cho thích hợp. Do đó mà có tôn ti trật tự, phép tắc luân lý, từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự  thái bình.
    4. Dùng Lễ để tiết chế lòng dục.                             
    Dục vọng của con người thì không cùng và lúc nào cũng đòi hỏi để được thỏa mãn. Nếu không dùng Lễ để chế giảm, tất dục vọng sẽ làm con người hư  hỏng. Dùng  Lễ  để chế giảm mà còn hướng dẫn dục vọng vào con đường cao thượng nữa.
    Lễ và Pháp luật đều có mục đích ngăn chận sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có ưu điểm là nó có thể ngăn cản được những việc chưa xảy ra; còn dùng pháp luật là để trừng trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Pháp luật, tuy phải đặt ra, nhưng dùng sự giáo hóa về lễ mà ngăn ngừa  sự phạm tội thì  mới ưu việt.
    Tóm lại, chữ Lễ trong nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về mặt giáo hóa và ngăn ngừa sự hư hỏng; còn luật pháp thì chú trọng sự trừng phạt những điều hư hỏng và phạm tội.
    Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì, không nên làm điều gì, và tại sao như thế. Còn pháp luật thì cấm không cho làm việc nầy việc nọ, mà hễ vi phạm thì bị trừng phạt. Người làm trái Lễ thì bị chê cười, có tính cách trừng phạt về phương diện  tinh thần; người làm trái pháp luật thì bị trừng phạt về  thể xác.
                Thánh giáo :           Lễ  là  hạnh  nết   của   Thần  Tiên,
                            Phải   giữ   Lễ  nghi  vững thật bền.
                            Trước mắt phàm tuy trông chẳng thấy,
                            Chín từng lồng lộng Đấng Bề Trên.
    B.     NHẠC :
    Nhạc là sự hòa hợp các thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm của lòng người  đứng trước ngoại vật. Hay nói khác đi, chính sự rung động trong lòng người  mới tạo thành tiếng nhạc.
    Khi người buồn thì tiếng nhạc có âm điệu bi ai; khi người vui vẻ phấn chấn trong lòng thì tiếng nhạc nhanh gọn, dồn dập, vui tươi; khi ngoại cảnh sanh lòng yêu mến thì tiếng nhạc hòa nhã dịu dàng. Ngược lại, tiếng nhạc có thể cảm hóa được lòng người, khiến người nghe rung động theo nó. Như khi nhạc réo rắt thanh tao thì con người có ý nghĩ cao thượng; khi nghe nhạc giựt gân dâm ô, con người có ý nghĩ thấp hèn.
    Nhạc có thế lực quan trọng như thế nên bực Đế vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để cảm hóa dân chúng, khiến dân trở nên lương thiện.
    Sách Nhạc có viết rằng : “ Nhạc là cái vui của Thánh nhân, mà có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và làm phong tục dời đổi được. Cho nên Tiên vương  mới đặt ra việc dạy Nhạc.”
    Nhạc cũng phải giữ cái đạo Trung Dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất cái chánh, mà buồn cách mấy cũng không làm mất cái hòa. Như thế, Nhạc  mới có thể điều hòa được cái tánh tình của con người.
    C.  SỰ PHỐI HỢP của NHẠC và LỄ :                             
    Nhạc và Lễ đều có cái chủ đích chung là sửa đổi tâm tánh con người cho ngay chánh, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu, nhưng  mỗi bên có cách thức riêng biệt. Lễ cốt ở sự cung kính để giữ cho trật tự phân minh, Nhạc cốt ở sự điều hòa khiến cho tâm tánh được tao nhã.
    Do đó, Lễ và Nhạc phối hợp với nhau thì  mới thành tựu cái mục đích tốt đẹp được. Nếu có Lễ mà không có Nhạc, tức nhiên có Kính mà không có Hòa, thì nhơn quần ở với nhau thành ra phân biệt thái quá, nhân tình bất thông, chia rẽ xa cách. Nếu có Nhạc mà không có Lễ, tức là có Hòa mà không có Kính thì thành ra dễ dãi khinh lờn.
    Vậy nên  có Lễ phải có Nhạc, có Nhạc phải có Lễ, để cho cái nầy bổ khuyết cho cái kia thì  mới tạo được sự điều hòa tốt đẹp và một trật tự  ổn định trong xã hội.
    Lễ và Nhạc có ý nghĩa rất sâu xa và tác dụng mạnh mẽ về đường đạo đức, vì một đàng khiến cho cái tâm tánh ở bên trong, và một đàng khiến sự hành động ở bên ngoài, cốt cho trong ngoài hòa thuận. Trong hòa là làm cho tâm tánh được điều hòa, ngoài thuận là làm cho hành vi cử chỉ thuận theo đạo lý, hợp lòng người. Trong và ngoài được như thế thì cái tà tâm và dục vọng không có cơ hội phát ra, để dần dần tà tâm biến mất, nhường chỗ cho Thánh tâm và dục vọng thấp hèn biến mất, nhường chỗ cho dục vọng thanh cao.
    Nhưng Đức Khổng Tử  lại nói : “ Nhơn nhi bất nhơn như Lễ hà ?  Nhơn nhi bất nhơn như Nhạc hà ? “ Nghĩa là :  Người mà không nhơn đức thì làm sao dùng Lễ được ? Người mà không nhơn đức thì làm sao dùng Nhạc được ?
    Ý của Đức Khổng Tử muốn nói rằng : Dầu Lễ và Nhạc có hay đến bực nào đi nữa mà người dùng Lễ và Nhạc không có lòng nhơn đức thì cũng không có hiệu quả gì ! Có nhơn tức là có tình cảm dồi dào cao thượng, có trực giác mẫn huệ, rồi lấy Lễ Nhạc mà khiến thì công dụng của Lễ Nhạc rất hay; còn nếu không có lòng nhơn đức mà đem dùng Lễ Nhạc thì chỉ là cái hư văn kiểu cách bên ngoài mà thôi, không có tác dụng gì !
    Đức Khổng Tử  còn chủ trương không nghiêng về bên Lễ, cũng không nghiêng về bên Nhạc :  Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp tánh tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc.”
    Lễ Nhạc có địa vị rất trọng yếu trong đạo trị nước và đặt ngang hàng với Hành chánh và Hình pháp.
    “ Lễ để chỉ đạo ý chí, Nhạc để điều hòa thanh âm, Hành chánh để thống nhứt hành động, Hình pháp để ngăn ngừa tội ác. Lễ, Nhạc, Hành chánh, Hình pháp, có mục đích cuối cùng là một, tức là thống nhất lòng dân để thực hiện một nền thạnh trị.”
    Ý của Đức Khổng Tử  và các bậc Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần lần, từ đời nọ truyền qua đời kia, Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sái hết.
    Lễ thì biến ra thêm phiền toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ đủ loại mà không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc và Lễ hướng dẫn và kềm chế nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố sâu vực thẳm.
    May mắn thay cho nhơn loại, nhứt là hữu hạnh cho dân tộc Việt Nam ! Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại nước Việt Nam, Đức Chí Tôn rất chú trọng Lễ Nhạc, nên Đức Chí Tôn đến để chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Đức Chí Tôn dạy về Lễ Nhạc rất kỹ, đôi khi Đức Chí Tôn phải nhập xác vào Đức Cao Thượng Phẩm mà biểu diễn về Lễ để cho các môn đệ nhìn thấy mà học tập, bắt chước làm theo.
    Lễ và Nhạc do Đức Chí Tôn chế ra hoàn toàn mới mẻ, nhưng lại dung hợp được cái cũ là Cổ Lễ và Cổ Nhạc của Nho giáo, khiến cho Nhạc và Lễ trong  Đạo Cao Đài đạt được những hiệu quả tốt đẹp nhất, đưa nhơn loại trở về con đường đạo đức chơn chánh.
    Hai câu liễn về Lễ Nhạc nơi Văn phòng Lễ Nhạc Đường :
    Lễ  dĩ  Địa  trần  minh  định  nhân gian  tôn  trật  tự,
    Nhạc do Thiên tác tuyên thông thế giới chủ điều hòa.
    Nghĩa là :
    . Lễ lấy sự sắp bày trên mặt đất mà chế thành, định rõ phẩm bực con người, đề cao trật tự,
    . Nhạc do Trời làm ra, bày tỏ cho thế giới  thông hiểu nhau, chủ yếu là sự điều hòa.
    6.     Chính danh Định phận :
    “ Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc  sự bất thành.”  Nghĩa là : Danh không chánh đáng thì lời nói không xuôi, lời nói không xuôi thì việc không thành.
    Danh đã chánh thì việc gì cũng có nghĩa lý rõ ràng của việc ấy, những điều tà thuyết không che khuất được chơn lý.
    Danh và Phận đã được định rõ thì  mỗi người đều có địa vị và bổn phận chánh đáng của mình, trật tự  phân minh.
     B.   Hình Nhi Thượng học:
    Hình Nhi Thượng học thuộc về Đại thừa hay Thượng thừa, là cái học về những lẽ mầu nhiệm vô hình, rất uyên áo cao viễn mà Đức Khổng Tử có nhiều điều nói rõ trong Kinh Dịch (sách căn bản  về Lý học của Nho giáo) và trong sách Trung Dung (sách Triết học bàn về Thiên đạo và Nhân đạo rất sâu xa).
    Sau đây là một số điểm tiêu biểu :
    -         Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý.
    -         Thiên mệnh.
    -         Quỉ Thần.
    -         Hồn phách.
    -         Đạo của Đức Khổng Tử.
     1.     Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý :
    Khởi đầu của Vũ trụ là một khối mờ mịt hỗn độn. Trong cái Hỗn độn ấy có một cái Lý rất linh diệu cương kiện gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, ta không thể biết rõ được, nhưng khi xem xét sự biến hóa của vạn vật thì ta có thể đoán biết được cái động và tịnh của Thái Cực. Động là Dương, tịnh là Âm. Dương lên đến cực độ lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ lại biến ra Dương. Hai cái Âm Dương ấy cứ xoay chuyển tương đối, điều hòa nhau mà biến hóa sanh ra Trời Đất và vạn vật.
    Đó là điểm cốt yếu của Kinh Dịch, bởi vì Dịch là biến đổi. Trong Trời Đất, không có cái gì là không biến đổi, không có cái gì là nhứt định. Tất cả đều biến đổi, xoay chuyển, lưu hành khắp nơi, nhưng đều phát sinh từ một Lý duy nhứt là Thái Cực. Chỉ có Thái Cực là tuyệt đối, còn tất cả đều là tương đối.
    Do đó, Đức Khổng Tử lấy chủ nghĩa “ Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể “ làm căn bản cho học thuyết của Nho giáo.
     2.     Thiên mệnh :
    Trời là Chủ tể của cả Càn khôn Vũ trụ và vạn vật nên có cái sức mạnh bí mật điều khiển tất cả sự biến hóa và xoay chuyển trong Vũ trụ cho được điều hòa. Đó là Thiên mệnh, tức là Mệnh Trời.
    Làm người phải biết mệnh Trời để nương theo đó mà sanh hoạt cho phải đạo. Nhưng con người cũng có cái tự chủ riêng để tự cường kiện lấy mình, khiến cho cái tâm linh của ta luôn luôn mẫn huệ, để hành động của ta lúc nào cũng phù hợp mệnh Trời, chớ không, chúng ta cứ hèn yếu nhu nhược đợi chờ số mạng.
    Sách Trung Dung viết : “ Trời sanh ra muôn vật, nhân cái tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào. Cho nên, vật nào có thể vun đắp được thì vun đắp vào cho tốt lên, vật nào nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi.”
    3.     Quỉ Thần :
    Nho giáo dạy người ta tin ở Trời, tin ở Thiên mệnh, tất nhiên tin có Quỉ Thần.
    Sự cúng tế Quỉ Thần là để mình tỏ lòng thành kính, chớ không phải để cầu phúc riêng cho mình. Quỉ Thần đều sáng suốt và chánh trực, nên chẳng hề tư vị ai. Người đời cứ  theo điều công chánh mà làm thì ắt có Quỉ Thần chứng giám hộ trì cho.
    Nếu ai bất nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, phải tội với Trời, thì dẫu có cầu nguyện cúng tế quanh năm cũng không ích gì. “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo daõ.” (Phải tội với Trời thì còn cầu nguyện vào đâu được.)
    Chúng ta là người đang sống, chúng ta tin và biết có Quỉ Thần, nhưng chúng ta không thể biết các việc của Quỉ Thần, cho nên chúng ta không nên nói điều huyễn hoặc mà gây thành mối mê tín dị đoan. “Vụ dân chi nghĩa, kính nhi viễn chi.” Nghĩa là : Vụ lấy làm việc nghĩa của người, còn Quỉ Thần thì nên kính trọng mà xa ra.
     4.     Hồn phách :
    Đức Khổng Tử nói : “Nhân sinh hữu khí, hữu hồn, hữu phách. Khí, Hồn, Phách hội chi vị sinh.” Nghĩa là : Người sanh ra có Khí, có Hồn, có Phách. Khí, Hồn, Phách hội lại gọi là sống.
    Con người có sanh ắt phải có tử. Chết rồi thì hài cốt dần dần tan rã vào đất, còn cái Khí tinh anh thì lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ. Vậy, chết không phải là hết, chỉ hết cái hình hài, còn cái Khí tinh anh vẫn còn và đi lên chỗ sáng rõ trong vũ trụ.
    Cái Khí tinh anh ấy ở trong con người thì gọi là Tâm. Tâm là cái thần minh, là cái tia sáng mà Trời phú cho con người để hiểu biết các sự vật. Khi ta chết, cái tia sáng ấy trở về Trời, còn cái thể xác vật chất thì bị hủy hoại đi. Bởi cái tư tưởng ấy nên  mới nói : Sinh ký tử qui (Sống gởi thác về).
              5. Đạo của Đức Khổng Tử :
                Đức Khổng Tử  căn cứ trên lẽ biến hóa mà điều hòa của Trời Đất và đem những tư tưởng và hành vi của bậc Thánh nhân đời trước mà lập thành Đạo để dạy thiên hạ.
                Ở trong cái Đạo ấy, muôn vật đều hóa dục mà không hại lẫn nhau, các Đạo đều được thi hành mà không trái nhau. Đức nhỏ thì phân minh như nước sông chảy, đức lớn thì đôn hậu mà sanh hóa vô cùng. Đức Khổng Tử nói : “ Công kích Đạo khác chỉ hại mà thôi.”
                Đạo của Đức Khổng Tử là theo lẽ thường, việc phải thì làm, việc trái thì bỏ, cốt giữ cái Tâm cho sáng suốt, đừng để tư dục làm cho ám muội.
                Đạo của Đức Khổng Tử không lấy việc Quỉ Thần mà đặt ra điều mê tín, không lấy sự sống chết mà huyễn hoặc lòng người. Ngài chỉ cốt lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Kính làm đạo thường.
                Đạo của Ngài tùng theo Thiên lý, làm cho sáng cái đức sáng, khiến người ta càng lúc càng mẫn huệ đến chí thiện  mới thôi (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện). Đạo không xa cái bổn tánh con người, nếu người theo Đạo để cho xa cái bổn tánh con người thì đó không phải là Đạo. (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo).
                Tóm lại, Đạo của Đức Khổng Tử  dạy rất kỹ về Nhơn đạo. Nhơn đạo xong thì  mới có thể đến gần được Thiên đạo.

              V. Triết lý của Nho giáo :
              Triết lý của Nho giáo thuộc về phần Hình Nhi Thượng học. Sau đây, chúng ta sẽ xem quan niệm của Nho giáo về Vũ trụ và Nhân sinh, về Thượng Đế và con người.
    1.     Vũ trụ quan của Nho giáo :
    Quan niệm về Vũ trụ của Nho giáo được nói rõ trong Kinh Dịch, giải thích Vũ trụ căn cứ trên thuyết Âm Dương và Ngũ Hành.
    “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái.” Đạo Dịch có Thái Cực, Thái Cực sanh ra Hai Nghi : Nghi Âm và Nghi Dương; Hai Nghi sanh ra Bốn Tượng là : Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương; Bốn Tượng sanh ra Tám Quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
    “ Thoạt đầu tiên, Vũ trụ ra thế nào ? Cứ như những ý tưởng của người xưa thì lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối mờ mịt hỗn độn, tức là đời Hỗn mang. Trong cuộc Hỗn mang ấy, có cái Lý vô hình rất linh diệu, rất cương kiện, gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, không thể biết được bản thể của Lý ấy như thế nào. Ta tuy không biết rõ cái chân tánh và cái chân tướng của Lý ấy, song ta có thể xem sự biến hóa của vạn vật mà biết được cái động thể của Lý ấy. Cái động thể của Lý ấy phát hiện ra bởi 2 cái thể khác nhau là : Động và Tĩnh. Động là Dương, Tĩnh là Âm. Dương đến cực độ thì lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai thể ấy cứ theo liền nhau, rồi tương  đối điều hòa với nhau để biến hóa mà sanh ra Trời Đất và vạn vật.
    Vậy, khởi điểm của Tạo Hóa là do 2 cái tương  đối Âm và Dương mà Đạo Trời Đất cũng khởi đầu bởi sự biến hóa của 2 tương  đối ấy.
    Trước 2 cái tương  đối ấy thì dẫu có gì cũng như không, vì không sao mà biết được. Khi 2 cái tương  đối ấy đã phát hiện ra thì cái gì cũng hiển nhiên, không thể nói là không có được.” (Trích Nho giáo của Trần trọng Kim).
     Theo quan niệm nầy thì Đạo Trời Đất lúc đầu rất giản dị, sau  mới biến hóa dần dần đến chỗ phức tạp, càng biến hóa thì càng phức tạp, thiên hình vạn trạng. Đó là “Nhứt bổn tán vạn thù”, cái Nhứt bổn ấy là Thái Cực, nhưng dầu phức tạp đến đâu, rồi cuối cùng cũng qui về một, ấy là “Vạn thù qui nhứt bổn”.
    Đức Khổng Tử cho rằng cái Lý Thái Cực rất huyền vi mầu nhiệm, mà tri thức con người thời đó khó đạt tới, nên Ngài không chú trọng xét tới, mà chỉ chú trọng cái động thể của nó, tức là Luật Biến hóa của Trời Đất, tức Luật DỊCH. Ngài thấy Đạo Dịch chi phối vạn vật, phù hợp với hiện thực. “Dịch không xa sự thật, mà đạo Dịch biến đổi luôn, không ở nhất định chỗ nào, lưu truyền khắp cả vũ trụ.”
    Bỏ cái bản thể mà nghiên cứu cái động thể của Lý Thái Cực là một quan niệm rất thực tiễn, và đó cũng là khởi điểm cho thuyết tùy thời của Đạo Nho.
     2.     Nhân sinh quan của Nho giáo :
    Người là con cưng của Trời. Sách Thượng Thư viết : Chỉ có Trời Đất là cha mẹ của vạn vật, trong vạn vật Người là linh hơn cả.
    Người là con của Trời mà cũng là dân của Trời, vua là người thay mặt Trời để cai trị muôn dân. Cho nên, trong các sách của Nho giáo, chữ dân thường dùng để thay cho chữ Nhơn là Người.
    Người và Trời đều đồng một thể. (Thiên Địa Nhơn đồng nhứt thể.)
    Đổng Trọng Thư  có viết rằng :
    “ Không gì tinh vi hơn khí Âm Dương, phong phú hơn Địa, thần linh hơn Thiên, cái tinh của Trời Đất để sanh ra muôn vật không gì là quí hơn Người.
    Người nhận lấy mệnh Trời, cho nên siêu nhiên hơn muôn vật. Muôn vật lo sợ tai vạ và không thể thi hành được lòng nhân nghĩa, chỉ riêng có Người  mới có khả năng làm được điều nhân nghĩa. Muôn vật lo sợ tai vạ nên không thể sánh vai với Trời Đất, chỉ riêng con Nguời  mới có thể sánh vai với Trời Đất.
    Người có 360 tiết sánh với số Trời, hình thể xương thịt sánh với Đất. Ở trên có tai mắt thông minh, là hình tượng của nhựt nguyệt. Thân thể có cửa mở, có mạch lạc, tượng hình sông ngòi và thung lũng. Tâm có thương vui, mừng giận, cùng loại với Thần khí.
    Xét thân thể của Người sao mà cao quí hơn muôn vật  thế, và cùng loại với Trời. Muôn vật nương dựa lấy khí Âm Dương của Trời để sinh hoạt, chỉ có Người lại sáng tỏ rực rỡ với văn vẻ của Trời.
    Thế nên, phàm vật hiện hình ra chẳng cái nào không tuân theo mệnh Trời mà thi hành, ở địa vị nương tựa, chỉ riêng Người đứng lên trực tiếp với Trời nên xứng đáng với Trời. Cho nên, tiếp nhận  ít của Trời Đất thì ở địa vị nương tựa, tiếp nhận nhiều của Trời Đất thì ở địa vị chính đáng. Ở đây thấy loài người biệt lập với muôn vật mà tham hợp với Trời Đất.
    Cho nên, thân thể của Người có đầu rộng mà tròn, tượng hình nội dung của Trời; lông tóc tượng hình các vì sao; tai mắt lanh lợi tượng hình mặt trăng mặt trời; mũi mồm hô hấp tượng trưng gió và không khí; trong bụng đạt đến hiểu biết tượng hình Thần minh, bụng ruột đầy rổng tượng hình muôn vật.
    Tượng trưng của Trời Đất, tương quan của khí Âm Dương thường thấy thiết dụng ở thân Người. Thân Người cũng như Trời, tương  tham hợp với số Trời, nên cùng liên hệ với Trời bằng sinh mệnh.
    Trời lấy số ngày trong một năm để lập nên thân thể của Người, cho nên 360 tiết nhỏ để tương  hợp với số ngày, tiết lớn 12 phần tham hợp với số tháng. Ở trong có 5 tạng tham hợp với số Ngũ Hành. Ở ngoài có Tứ Chi (2 tay và 2 chân) tham hợp với 4 mùa. Chợt thấy chợt mở tham hợp với ngày đêm, chợt rắn chợt mềm tham hợp với mùa đông mùa hạ. Chợt thương đau, chợt vui mừng tham hợp với khí Âm Dương. Tâm có tính toán suy nghĩ, tham hợp với độ số . . .  Ở đâu đếm được thì tham hợp với số, ở đâu không đếm được thì tham hợp với loài. Ở đây có sự đồng nhất ở cả 2 bên, và chỉ có một sự  tham hợp của Người với Trời.” (Trích trong Nhân phó Thiên số, Phồn lộ, Quyển 13, Đổng Trọng Thư)
    Cho nên Trời Đất là Đại Thiên Địa thì Người là Tiểu Thiên Địa; Trời Đất là Đại Vũ trụ thì Người là Tiểu Vũ trụ.
    Vũ trụ mà không có Người là vũ trụ không hoàn toàn, bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu của Tam Tài (Thiên, Địa, Nhơn), mà thiếu đi một yếu tố thì sự hòa điệu không còn.
    Trời và Người quan hệ mật thiết với nhau, bởi thế  mới lấy phép tắc tự nhiên  của Trời làm mô phạm của Người, lấy Thiên luân làm Nhơn luân, lấy Thiên đạo làm Nhơn đạo.
    Nho giáo lấy ý dân làm ý Trời, sự sáng suốt của Trời hiện ra ở trong sự sáng suốt của dân, dân muốn chính là Trời muốn. Sự sáng suốt của Người thường bị mất đi là do lòng vật dục che khuất,  do đó mà không cảm ứng được với Trời.
    Con người có 2 phần : Một phần là thân thể vật chất hữu hình , và một phần vô hình phú bẩm nơi Trời Đất. Cái phần vô hình ấy là  Lý Thái Cực, cũng gọi là Thần minh, Tâm hay cái tia sáng linh diệu (Linh quang).
    Khi chết rồi, thân xác chôn xuống đất, thúi rã tan nát trở thành đất (Địa), còn cái phần tinh anh linh diệu thì bay lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ. Vậy chết không phải là hết, chỉ hết cái hình hài xác thịt mà thôi, còn cái Khí tinh anh tức là Tinh thần thì lại về chỗ sáng rõ ở trong vũ trụ.
    Cái phần chiêu minh ấy ở trong người gọi là Tâm. Tâm là cái Thần minh ở trong vạn vật, là cái tia sáng linh diệu của Trời phú cho ta để hiểu biết sự vật. Vũ trụ sở dĩ có là bởi có tia sáng ấy, chứ không thì dẫu có cũng như không. Vạn vật nhờ có cái tia sáng ấy mà biết là có và biết có Trời. Người ta có cái phẩm giá tôn quí là cũng nhờ bởi cái Tâm. Có cái Tâm thì Trời Đất rõ ràng, vạn vật linh hoạt.
    Đến khi người ta mệnh chung thì cái tia sáng ấy trở về Trời, còn cái thân vật chất thì hẩm nát đi.
    Bởi  lý tưởng ấy, cổ nhân nói rằng : “Sinh ký dã, tử qui daõ”. Nghĩa là : Sống là gởi vậy, chết là về vậy. Trong câu nói ấy hàm chứa sự Luân hồi. (Theo Nho giáo  Trần trọng Kim)
     3.     Quan niệm về Thượng Đế :
    Nho giáo gọi Thượng Đế là Thiên, tức là Trời.
    “Nhưng ta phải biết rằng quan niệm của Đức Khổng Tử về Trời hay Thượng Đế không giống như quan niệm của phần nhiều người thường tưởng tượng là Trời hay Thượng Đế là một Đấng có hình dáng, có tình cảm, có tư dục như người ta. Trời hay Thượng Đế chỉ là cái Lý vô hình, rất linh diệu, rất cương kiện, mà khi đã định sự biến động ra thế nào thì dẫu làm sao cũng không cưỡng lại được.” (Nho giáo Trần tr. Kim).
    Thượng Đế là vua của Càn Khôn Vũ trụ, thống ngự vạn vật và loài người.
    Hoàng hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám qua Tứ phương, cầu dân chi mạc.” Đấng Thượng Đế rất lớn, soi xuống rất rõ ràng, xem xét 4 phương để tìm nỗi thống khổ của dân mà cứu giúp.
    Trong Nho giáo, Thượng Đế chính là Thái Cực, là Đấng Tạo Hóa duy nhứt, hóa sinh vạn vật.
    Thiên giả vạn vật chi tổ, vạn vật phi Thiên bất sinh. Độc Âm bất sinh, độc Dương bất sinh. Âm Dương dữ Thiên Địa tham, nhiên hậu sinh.” Trời là tổ của muôn vật, muôn vật không có Trời không sanh ra được. Một mình khí Âm không sanh, một mình khí Dương không sanh. Âm Dương cùng với Trời Đất tham hợp, rồi sau  mới sanh.
    Nho giáo quan niệm vua (Nhân quân) là người thay mặt cho Trời mà cai trị dân chúng và mưu cầu hạnh phúc cho dân chúng, nên gọi vua là Thiên tử (con của Trời).
     VI.  Kinh điển của Nho giáo :
    Trước thời Đức Khổng Tử, Đạo của Thánh Hiền được chép trong các sách : Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc.
    Đức Khổng Tử nghiên cứu các sách ấy, rồi Ngài chú giải Kinh Dịch, chỉnh đốn Kinh Lễ và Nhạc, san định Kinh Thi Kinh Thư, và cuối cùng Đức Khổng Tử trước tác Kinh Xuân Thu.
    Sau khi Đức Khổng Tử mất, các sách ấy bị mất mát ít nhiều. Đến đời Tần Thủy Hoàng, có cuộc đốt sách và chôn học trò (Phần thư khanh Nho), thành ra kinh sách của Nho giáo không còn được bao nhiêu.
    Đến đời nhà Hán, Đạo Nho mới được phục hưng. Hán Cao Tổ sai người tìm nhặt các sách thì không tìm được quyển nào còn nguyên vẹn, nhứt là Kinh Nhạc mất gần hết, chỉ còn lại một thiên, phải đem ghép vào Kinh Lễ.
    Hiện nay, những sách ấy tuy có sai lạc đi ít nhiều, nhưng các hậu Nho đã góp nhặt và phụ họa thành Ngũ Kinh, kể ra sau đây :
    1. Kinh Dịch.              2. Kinh Thi.
                     3. Kinh Thư.               4. Kinh Lễ Nhạc.
    5. Kinh Xuân Thu.
    Những sách do các môn đệ của Đức Khổng Tử làm ra sau thời Đức Khổng Tử gồm 4 quyển, gọi là Tứ Thư, kể ra :
    1.      Luận Ngữ của Tăng Tử.
    2.      Đại Học    của Tăng Tử.
    3.      Trung Dung của Tử Tư.
    4.      Mạnh Tử của Mạnh Tử.
     A.   NGŨ  KINH :
    1.     Kinh Dịch :
    Dịch là sách mà người xưa thường dùng để bói toán, xem xét cát hung, và lại là bộ sách Lý học rất cao siêu, giải thích lẽ biến hóa của Trời Đất và sự hành động của vạn vật.     Nguyên người Tàu về thời Thượng cổ đều tin rằng ở trong Trời Đất có lẽ Âm lẽ Dương, lúc ẩn lúc hiện, biến hóa không lường.
    Vua Phục Hy, nhân được Hà đồ,  biết được lẽ Âm Dương mới vạch ra thành 8 quẻ gọi là Tiên Thiên Bát Quái, rồi sau đó lấy 8 quẻ ấy chồng lên nhau, tạo ra được 64 quẻ,  mỗi quẻ có 6 hào.
    Đến đời vua Hạ Võ, nhờ được Lạc thư mà đặt ra Cửu Trù để làm biểu lý với Bát Quái của Phục Hy. Những quẻ của Phục Hy là để vẽ các tượng Âm Dương, còn những trù của vua Hạ Võ là để tính các số Ngũ Hành.
    Những quẻ Dịch từ thời vua Phục Hy truyền lại chỉ vẽ thành các quẻ mà không có văn tự giải thích.
    Đến đời vua Văn Vương nhà Châu, khi Ngài bị giam nơi Dũ Lý, Ngài  mới nghiên cứu diễn lại các quẻ Dịch, và đặt ra Hậu Thiên Bát Quái. Ngài đặt ra  Thoán từ để giải    thích  ý nghĩa của  mỗi quẻ.
    Sau đó con của vua Văn Vương là Châu Công Đán nghiên cứu Kinh Dịch, rồi viết ra Hào từ để cắt nghĩa mỗi Hào trong  mỗi quẻ.
    Song sự học Dịch là sự học Tâm truyền, chỉ để cho người nọ truyền cho người kia mà thôi, cho nên những lời Thoán từ  của Văn Vương và Hào từ của Châu Công cắt nghĩa rất vắn tắt, có lắm câu, ý nghĩa xa xôi lơ lửng, thật khó hiểu. Đó là Kinh Dịch trước thời Đức Khổng Tử chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
    Đến đời Đức Khổng Tử, Ngài  mới theo những Thoán từ  của Văn Vương và Hào từ  của Châu Công, rồi lấy cái kinh nghiệm hiểu biết của Ngài về nhân sự thiết thực mà cắt nghĩa thêm ra cho rõ, tức là Ngài làm ra Thoán Truyện và Tượng Truyện. Giải cái Tượng của cả quẻ thì gọi là Đại Tượng,  giải cái Tượng của một Hào thì gọi là Tiểu Tượng.
    Đức Khổng Tử sợ cắt nghĩa như thế chưa đủ, Ngài lại làm thêm những thiên : Hệ Từ Truyện, Văn Ngôn Truyện, Thuyết Quái Truyện, Tự Quái Truyện, Tạp Quái Truyện, gồm tất cả 10 thiên, gọi chung là Thập Dực hay là Truyện.
    Ngài lại lấy nghĩa lý mà phân Kinh Dịch ra làm 2 phần gọi là Thuợng Kinh  Hạ Kinh.
    - Thượng Kinh để quẻ Càn, quẻ Khôn lên đầu, bởi vì Càn Khôn là bản thỉ của Âm Dương, tông tổ của vạn vật.
    - Hạ Kinh thì để quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, bởi vì 2 quẻ nầy là mối đầu của Nam Nữ tạo thành đạo vợ chồng. Nhơn đạo do đó mà hưng thịnh lên.
    Từ đó, Kinh Dịch có 2 thiên Kinh (Thượng Kinh, Hạ Kinh) và 10 thiên Truyện, cả thảy là 12 thiên. Trong những thiên Truyện, Đức Khổng Tử giải thích rõ ràng các ý nghĩa sâu xa ở Kinh Dịch  và phát huy những tư tưởng uyên áo về Tạo Hóa, những quan niệm đặc biệt về vũ trụ và vạn vật. Ngài thành lập một nền Lý học rất cao siêu của Nho giáo.
    Đức Khổng Tử học Dịch mất rất nhiều công phu. Khi Ngài đã già, Ngài đã xem Kinh Dịch đến 3 lần đứt lề,  mới làm ra được các thiên Truyện, thế mà Ngài còn nói : “ Gia Ngã sổ niên tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hỹ.” Nghĩa là : Giá cho ta thêm được mấy năm nữa để ta học Dịch cho trọn vẹn thì khả dĩ không có điều lầm lớn vậy.
    Một bộ sách mà Thánh nhơn đã phải dụng tâm nhiều đến như thế và cho là khó hiểu như thế, tất là có bao nhiêu tư tưởng kỳ diệu trong đó.
    Vậy bộ Kinh Dịch mà chúng ta đang có hiện nay đã trải qua sự đóng góp của 4 vị Thánh nhân : Vua Phục Hy, Vua Văn Vương, Châu Công Đán và Đức Khổng Tử.
     2.     Kinh Thư :
    Kinh Thư là bộ sách chép những Điển, Mô, Huấn, Cáo, Thệ, Mệnh của vua tôi dạy bảo khuyên răn nhau, từ đời vua Nghiêu vua Thuấn cho tới đời Đông Châu.
    Sách ấy là một bộ sử rất có giá trị, khiến cho hậu thế có thể biết được tư tưởng của cổ nhân về đạo lý, chế độ và phép tắc từ  đời nọ qua đời kia và hiểu được sự tiến hóa của dân tộc Tàu.
    Nhưng vì Kinh Thư bị nhà Tần đốt mất, đến đời nhà Hán  mới có quan Bác sĩ của nhà Tần tên là Phục Sinh (có người nói là con gái của ông ấy) nhớ thuộc lòng, đọc cho chép lại được 29 thiên.
    Sau, ở nước Lỗ, lại tìm được trong vách nhà Khổng Tử một tập gồm 25 thiên viết bằng chữ cổ.
     Những thiên của Phục Sinh đọc chép lại, được gọi là Kim văn; những thiên tìm được nơi vách nhà của Đức Khổng Tử  thì gọi là Cổ văn. Về sau, Khổng An Quốc đời Đông Hán, xếp cả Kim văn và Cổ văn làm thành Kinh Thư  truyền đến ngày nay.
    Xem Kinh Thư thì biết cái tánh chất phác và lối văn chương của cổ nhân. Những hành vi và tư tưởng chép trong Kinh Thư đều lấy hai chữ  CHẤP TRUNG làm cốt.
     3.     Kinh Thi :
    Kinh Thi là bộ sách chép những bài ca, bài dao, từ thời Thượng cổ đến đời vua Bình Vương nhà Châu. Ca là bài hát có điệu có vần, dùng vào lúc tế tự hay khi có việc hỷ việc hiếu. Dao là lời hát truyền khẩu của dân gian thôn dã.
    Xem Kinh Thi thì biết những tánh tình, phong tục và chánh trị qua các đời vua và các nước chư Hầu của nước Tàu. Như  Mân phong nói về cái tục cần kiệm của người nước Mân; Vệ phong thì nói về cái tục dâm mỹ của người nước Vệ; Tần phong là nói về cái sự hối quá của người Tần. Đại Nhã và Tiểu Nhã nói về việc chánh trị thịnh suy đời nhà Châu.
    Học Kinh Thi là để di dưỡng tánh tình và để mở rộng tri thức của con người. Kinh Thi có nhiều ý tứ, nhưng khi xem sách nầy, phải giữ cái Tâm cho chánh thì sự  học  mới có lợi.
    Đức Khổng Tử nói : “ Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi : Tư vô tà.” Nghĩa là : 300 bài trong Kinh Thi, lấy một lời mà nói trùm cả là : Không nghĩ bậy.
     4.     Kinh Lễ :
    Kinh Lễ là bộ sách chép những lễ nghi để hàm dưỡng những tình cảm tốt, để giữ trật tự  lớn nhỏ phân minh và để tiết chế tình dục. Phàm những tình cảm của con người mà không có cái gì để bồi dưỡng luôn luôn thì dần dần nó biến đổi hay hóa dở được.
    Dùng Lễ là có ý để gây nuôi những tình cảm tốt. Người ta ở trong xã hội có những việc quan hệ đến phong tục, đến tôn giáo. Nếu không có phép tắc rõ ràng thì việc tế tự, việc hiếu, việc hỷ, cách ăn uống ở làng, ở nước thành ra hồ đồ hỗn độn; việc thù tiếp thành ra khó xử.
    Dùng Lễ là để phân biệt tôn ti, thân sơ, và để giải quyết những sự hiềm nghi.
    Người ở đời, ai cũng có lòng tư dục, nếu không có qui củ để phòng giữ trước thì nó hay khiến người ta làm những điều bất nhân bất nghĩa. Dùng Lễ là để tài chế các hành vi cho hợp với lẽ phải.
    Học Lễ thì cần phải hiểu chữ  “Vô bất kính”, nghĩa là không có điều gì là không kính. Đối với mình, cũng như đối với người, bao giờ cũng lấy sự kính làm chủ. Không có kính thì bao nhiêu Lễ thành ra hư văn vô ích. (Theo Nho giáo của Trần trọng Kim).
     5.     Kinh Xuân Thu :
    Sau khi Đức Khổng Tử san định các Kinh, Ngài bắt đầu  sáng tác Kinh Xuân Thu để bày tỏ hết cái Đạo của Ngài.
    “ Kinh Xuân Thu là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép chuyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ân Công đến Lỗ Ai Công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu và việc các nước chư Hầu.
    Xem hình thể bề ngoài thì nó là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắt tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì thật là một bộ sách triết lý về đường chánh trị.”
    Mạnh Tử là người đã hiểu rõ Kinh Xuân Thu, nên nói rằng : “ Kinh Thi hết, nhiên hậu  mới làm ra Kinh Xuân Thu. Việc ở trong sách Xuân Thu là việc Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, văn trong sách là văn sử, nghĩa thì Khổng Tử nói rằng : Khâu nầy trộm lấy đó vậy. Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Lỗ mà biểu thị cái ý nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân Thu bấy giờ, xã hội Tàu loạn lạc, vua các nước chư Hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền Thiên tử nhà Châu. Ngài không muốn để sự phê bình phán đoán của Ngài động chạm đến những người quyền thế đương thời, vả lại cái học sâu xa của Ngài là cái học tâm truyền, nên Ngài mượn lối văn làm sử nói việc đã qua để ngụ cái vi ý của Ngài.
    Sách Trang Tử cũng có nói ở thiên Thiên hạ rằng : Xuân Thu dĩ đạo danh phận. (Sách Xuân Thu là để nói cái đạo danh và phận).
    Vậy cứ theo ý kiến của các nhà hiền triết thời Chiến Quốc thì sách Xuân Thu  là sách để Tâm truyền cái đại nghĩa Danh và Phận về đường luân lý và chánh trị, chớ không phải là sách chép sử như người ta thường vẫn hiểu lầm.
    Sách Xuân Thu có 3 chủ nghĩa là :
    -         Chính danh tự,
    -         Định danh phận,
    -         Ngụ bao biếm.
    Chủ ý của Đức Khổng Tử là tôn vua nhà Châu, dẫu đời bấy giờ các nước chư Hầu có nhiều người không biết đến vua Nhà Châu đi nữa, nhưng Ngài chép ngay đầu sách là : “Xuân Vương Chính nguyệt”, nghĩa là : Mùa Xuân, tháng Giêng, vua nhà Châu, để tỏ cái ý vẫn nhận nhà Châu làm chủ thiên hạ. . . .
     Xem Kinh Xuân Thu thì phải biết cái ý nghĩa và vị trí của từng chữ. Mỗi chữ là để định rõ người tà người chánh, như Thiên tử chết thì chép là băng, vua chư Hầu chết thì chép là hoăng, ông vua cướp ngôi làm sự tiếm đoạt mà chết thì chép là toà, người làm quan ngay chánh chết thì chép chữ tốt, làm quan gian nịnh chết thì chép chữ tử. Người nào có danh phận chánh đáng thì chép rõ chức phẩm và tên tự, người nào mà danh phận không chánh đáng thì dầu có chức phẩm gì cũng chỉ chép có một tên tục mà thôi.
    Sự khen chê của Ngài cốt ở những chữ Ngài dùng. Có khi chỉ vì một chữ chê mà thành ra tiếng xấu muôn đời, một chữ khen mà được tiếng thơm thiên cổ.
    Bởi thế, người đời sau bàn Kinh Xuân Thu nói rằng : “Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư phủ việt.” Nghĩa là : Một chữ khen thì vinh như cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục như bị tội rìu búa.
    Đức Khổng Tử thấy đời suy, đạo mờ, các tà thuyết dấy lên, những sự hung bạo rất nhiều, con giết cha, tôi giết vua, cho nên Ngài lấy làm lo sợ mà làm ra Kinh Xuân Thu để định cái Chánh thể, chủ ở sự Chính danh Định phận cho hợp Đạo lý và cho rõ sự thưởng phạt.
    Sách Xuân Thu là sách định chế độ quân chủ. Đức Khổng Tử biết rằng trong một nước không thể không có quyền quân chủ, song Ngài lại sợ rằng những người giữ quyền quân chủ thường hay lạm dụng thế lực của mình mà làm nhiều điều tàn bạo. Vậy nên Ngài  mới lấy cái nguyên của dương khí mà thống trị việc Trời, lấy Trời mà thống trị các vua chúa, và bày tỏ một cách đặc biệt ở sách Xuân Thu để hạn chế cái quyền của vị nhân quân. Nhưng những người làm vua làm chúa đã dễ mấy người hiểu được cái lẽ thâm viễn siêu việt ấy, cho nên Ngài  mới lấy những điều tai dị như :
    Nhựt thực, Nguyệt thực, sao chổi, việc động đất, vv . . . là những điều hiển nhiên để cảnh giới những bậc nhân quân. Ngài muốn những bậc ấy phải lấy những điềm lạ ấy  mà kinh sợ, tự  mình  tu  tỉnh và làm những điều nhân nghĩa.
    Đó là cái vi yù của Đức Khổng Tử trong sách Xuân Thu.
    Đức Khổng Tử còn sợ người ta không hiểu rõ cái ý ấy, nên Ngài nói : “ Tri Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội Ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ.” Nghĩa là : Người biết Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội Ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu.
    Biết Ngài là biết tấm lòng của Ngài sợ những Tà thuyết, những bạo hành càng ngày càng nhiều ra, nên Ngài tỏ cái  phương pháp chánh trị để đổi loạn ra trị, trừng trị những kẻ tàn bạo gian ác. Trách tội Ngài là vì không hiểu cái ý của Ngài mà cho là Ngài tiếm làm việc của Thiên tử, hoặc là ngờ Ngài dùng những điều tai dị để làm mê hoặc người đời.
    Học giả nên chú ý mà hiểu cái thâm ý và cái khổ tâm của Ngài trong sách Xuân Thu.
     Về sau, Hán Nho thường không hiểu rõ cái phần uyên thâm ấy, chỉ chú trong vào cái thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, gây thành mối mê tín, thật là sai cái ý nghĩa trong sách Xuân Thu vậy. (Theo Nho giáo của Trần trọng Kim).
     B.    Tứ Thư :
    Sự học của Nho giáo có nhiều lý tưởng cao siêu, nhưng có thể nói một câu vắn tắt là cái học chú trọng ở luân thường đạo lý. Sự học chủ trương biến hóa và tùy thời, vụ sự thực tại, còn những viển vông ngoài việc sinh hoạt trần thế thì không bàn đến. Muốn biết những điều dạy về sự học ấy ra sao, chúng ta phải xem Tứ Thư, là 4 quyển sách do các môn đệ của Đức Khổng Tử đặt hết tâm trí vào đó.
    1.     Đại học :
    Sách Đại Học là sách dạy những người lớn, từ 15 tuổi trở lên, khi đã vào được bậc Đại học, dạy cho biết cách ở đời để ra gánh vác việc dân việc nước.
    Theo các Nho gia thì sách Đại học do Tăng Tử (Tăng Sâm) làm ra để diễn giải các lời nói của Đức Khổng Tử.
    Nội dung của sách chia ra 2 phần :
    -         Phần trên có một thiên, gọi là Kinh, gồm những lời nói của Đức Khổng Tử.
    -         Phần dưới có tất cả 9 thiên, gồm những lời giảng giải của Tăng Tử.
    Mục đích và tôn chỉ của sách nầy là nói về cái đạo của người quân tử, trước hết phải sửa cái Đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao đến chỗ Chí thiện. Muốn được vậy, trước hết phảiCách vật (hiểu lẽ sự vật), phải Trí tri (thông suốt vấn đề), phải Thành ý (ý chí thành thật), phải Chánh tâm (lòng phải ngay thẳng). Làm được 4 điều ấy theo thứ tự trước sau thì sẽ sửa được mình (Tu thân), yên được nhà (Tề gia), trị được nước (Trị quốc), và bình được thiên hạ (Bình thiên hạ). Như thế  mới là cái đạo của người quân tử.
    Cái gốc của đạo người quân tử là sự Tu thân. Đó là điều cốt yếu của sách Đại học.
     2. Trung Dung :
    Sách Trung Dung do Ông Tử Tư làm ra. Tử Tư là cháu nội của Đức Khổng Tử, học trò của Tăng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
    Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Đức Khổng Tử nói về thuyết Trung Dung, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và lời nói, cũng như việc làm đều ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập, và phải cố gắng ở đời theo Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, cho thành người quân tử, theo bực Thánh nhân.
    Sách Trung Dung chia làm 2 phần :
    Phần 1 : Từ chương thứ 1 cho đến chương thứ 20, là phần chánh, gồm những lời của Đức Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý Trung dung, phải làm sao cho Tâm được : Tồn, Dưỡng, Tĩnh, Sát; mức ở gồm đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, cho hòa với vạn vật, hợp với lòng Trời, để trở thành người quân tử.
    Phần 2 : Từ chương 21 đến chương 33, tức chương cuối là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng  ý nghĩa và giá trị của 2 chữ  Trung Dung.
    Cả 2 quyển Đại học và Trung dung trên đây, nguyên khi trước là những thiên trong Kinh Lễ Ký, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm 2 quyển, để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
    “ Hai chữ Trung Dung bao gồm hết cái uyên áo của Triết lý Nho giáo, phát dương được cái đạo lý biến hóa của vũ trụ và nhân sinh một cách có hệ thống.
    Trung Dung là cái Đạo tâm đắc của Đức Khổng Tử, được truyền thụ bằng Tâm, nghĩa là dùng Tâm mà lãnh hội, chớ không phải dùng lời nói mà giảng giải cho đủ lẽ được, vì ý tứ siêu việt và nghĩa lý rất  u  ẩn.
    Đức Khổng Tử quan sát những bí ẩn của Trời Đất, thấy rõ lẽ vận hành biến hóa tự nhiên của vũ trụ, tức Ngài hiểu được Thiên đạo, rồi Ngài dựa theo chơn lý ấy mà phát minh những phép tắc dùng cho con người và cho xã hội.
    Trong Thiên đạo, chữ TRUNG là yếu điểm, vì sự vận hành của vũ trụ bao giờ cũng điều hòa, bình hành, nên Trời Đất  mới định vị, vạn vật  mới sanh sanh hóa hóa vô cùng.
    Nhơn đạo phải theo cái TRUNG thì hành động  mới trúng tiết và hợp lẽ phải.
    Vậy Trung Dung là đạo lý làm người, là chơn lý của nhơn sinh. Nhưng theo đạo Trung Dung rất khó, phải giữ cái Tâm cho công chánh, cố gắng bỏ hết tư tâm, khắc phục tư dục, phát triển cái Thiên lý bản nhiên của Trời phú cho, tìm đạo ở trong Tâm mình mà tự hiểu lấy, rồi tin theo thì tư tưởng và hành vi  mới thuần nhiên như  Thiên lý.”
    Trong phần Tử Tư  dẫn giải những lời của Đức Khổng Tử  nói về đạo Trung Dung, Ông nói : “Trung hòa là cái tính tự nhiên của Trời Đất, mà Trung Dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, không thiên lệch bên nào, Dung là thường, nghĩa là dùng đạo Trung Dung làm đạo thường.”
    Đạo Trung Dung thì ai cũng có thể theo được, thế mà không mấy người chịu theo, khác nào như ai cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn mà biết rõ mùi vị vậy. Chỉ có Thánh nhân  mới học được mà thôi, vì theo đạo ấy cốt phải có 3 cái đạt đức là : Trí, Nhân, DũngTrí là để biết rõ các sự lý; Nhân là để hiểu điều lành mà làm; Dũng là để có cái chí khí cương kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng. Ba cái đạt đức ấy  là 3 cái cửa đi vào Đạo.
    Cho nên nói rằng : Hiếu học cận hồ Trí, lực hành cận hồ Nhân, tri sỉ cận hồ Dũng. Nghĩa là : Thích học là gần có Trí, cố sức mà làm là gần có Nhân, biết thẹn là  gần có Dũng.
    Có 3 điều ấy  mới sửa được mình, trị được người, và trị được  quốc gia thiên hạ.
    “Sách Trung Dung nói cái đạo của Thánh nhân căn bản ở Trời, rồi diễn giải ra hết mọi lẽ khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và cả khi im lặng một mình. Suy cái lý ấy ra cho đến sự Nhân Nghĩa, để khiến cho  thiên hạ được bình trị, và lại tán dương cái công hiệu linh diệu của Đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thanh vô sắc  mới thôi.
    Thật là một quyển sách Triết lý rất cao, tưởng các sách đời cổ truyền lại, chưa có sách nào bàn đến cái Lý học siêu việt như thế. (Theo Nho giáo của Trần trọng Kim).
    Qua sách Trung Dung, người ta thấy rõ nhận thức và quan niệm của Nho giáo về Vũ trụ , về sự biến hóa của vạn vật, về lẽ “Thiên Địa vạn vật đồng nhứt thể” và “Thiên Nhơn tương  dữ”, tức là đã đem Thiên đạo vào Nhơn đạo, cũng nói rõ sự tương  quan giữa Tâm và Vật, tức là giữa Tinh thần và Vật chất, giữa Tri và Hành.
    Đó là những vấn đề rất quan trọng của Triết học từ ngàn xưa cho đến ngày nay.
     3.Luận Ngữ :
    Luận Ngữ là sách ghi chép những lời của Đức Khổng Tử  dạy học trò và những lời nói với người đương thời.
    Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên,  mỗi thiên đều lấy chữ đầu đặt tên, và các thiên không có liên hệ gì với nhau cả.
    Đọc sách nầy, người ta hiểu được phẩm cách và tánh tình của Đức Khổng Tử, nhứt là về giáo dục. Ngài tỏ ra là một vị thầy hiểu thấu tâm lý học trò, khéo đem lời giảng dạy cho thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi  cùng một câu hỏi mà Ngài trả lời cho  mỗi người  mỗi khác.
    Trình Y Xuyên đời nhà Tống nói : Có người đọc xong sách Luận Ngữ mà không thấy gì cả; có người đọc xong rồi lại thấy thích thú một vài câu; có người đọc xong cảm thấy rất thích thú đến độ múa tay múa chân mà không hay biết.
     Bởi vậy, đọc sách Luận Ngữ thì phải đọc chậm rãi, suy nghĩ cho tường tận, càng suy nghĩ càng phát hiện được nhiều điều hay.
    Trình Y Xuyên còn nói : Ai đọc xong sách Luận Ngữ mà vẫn còn những tánh nết như  trước khi chưa đọc thì người ấy chưa hiểu được sách Luận Ngữ vậy.
    Tóm lại, sách Luận Ngữ dạy cho biết cái đạo của người quân tử một cách thực tiễn, mô tả tánh tình, đức độ của Đức Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời noi theo.
     4. Mạnh Tử :
    Sách Mạnh Tử là bộ sách do Ông Mạnh Tử hợp cùng các môn đệ của Ông : Nhạch Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương, làm ra để ghi chép lại những điều đối đáp giữa Mạnh Tử và các vua chư Hầu, giữa Mạnh Tử và các môn đệ, cùng với những lời phê bình các học thuyết khác như của Mặc Địch, Dương Chu.
    Sách Mạnh Tử có 7 thiên chia làm 2 phần : Phần Tâm học và phần Chánh trị học.
    a)  Tâm học :
    Mạnh Tử cho rằng,  mỗi người có cái Tánh thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy cái Tánh thiện đó làm căn bản, giữ cho nó không mờ tối, và trau giồi cho nó phát triển để thành người lương thiện.
    Tâm là cái Thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, Tâm của ta với Trời đều cùng một thể.
    Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tánh, biết rõ lẽ Trời mà theo chánh mệnh.
    Nhân và Nghĩa vốn có sẵn trong cái lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối đi, thành ra phải bỏ mất Nhân Nghĩa.
    Mạnh Tử đề cập đến Khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhứt với Trời.
    Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả, dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quí.
    b)  Chánh trị học :
    Mạnh Tử chủ trương : “ Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi  khinh ”. Đây là một tư tưởng rất  mới mẻ và táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế thạnh hành.
    Ông nhìn nhận chánh thể quân chủ, nhưng ông vua không được quyền lấy nhân dân làm của riêng mình. Phải Duy dân và Vì dân. Muốn vậy phải có Luật pháp công bằng. Dẫu vua, quan, cũng không có quyền vượt ra ngoài pháp luật đó được. Người trị dân trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, để cho đời sống của dân được sung túc, rồi phải lo giáo dục dân để dân hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy Nhân Nghĩa làm căn bản để thi hành.
    Chủ trương chánh trị của Mạnh Tử thật vô cùng  mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ chuyên chế thời đó không thể bắt bẻ được.
    Phải chăng, đây là lý thuyết khởi đầu hình thành chế độ Quân chủ Lập hiến  sau nầy ?
    Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị. Phần Tâm học trong sách nầy là đỉnh cao nhất trong học thuyết của Nho giáo. Nho gia đời Tống Trình Y Xuyên nói : “ Kẻ đi học nên lấy sách Luận Ngữ và sách Mạnh Tử làm cốt. Đã học được 2 bộ sách nầy thì không cần phải học Ngũ Kinh, cũng thông rõ được Đạo của Thánh Hiền.”
     Tóm lại, bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đời cách nay hơn hai ngàn năm, đã trải qua bao lần sóng gió theo những giai đoạn thăng trầm của lịch sử Trung hoa, lần thì bị bạo chúa Tần Thủy Hoàng gom hết các sách đốt đi, lần thì bị tiêu tan trong những cuộc nội chiến triền miên của Trung quốc, do đó không tránh khỏi cái nạn tam sao thất bổn.
    Đến đời nhà Tống, bộ Tứ Thư  mới được các danh Nho tu chỉnh lại. Trước nhất là 2 anh em họ Trình : Trình Hạo  (1032-1085) tự là Bá Thuần, Trình Di (1033-1107), tự là Chính Thúc, hiệu là Y Xuyên, nên thường gọi là Trình Y Xuyên, hai anh em nghiên cứu soạn tập và chú giải Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tiếp theo sau đó, Ông Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu, sắp đặt và phân ra chương cú cho có thứ tự minh bạch.
    Ngày nay có những bản sách Tứ Thư và Ngũ Kinh là do công lao của 2 anh em họ Trình và của ông Chu Hy trong thời nhà Tống.
     VII. Tiểu sử của Đức Khổng Tử :
    Đức Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sanh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất  (551 trước Tây lịch), đời vua Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương  ứng với đời vua Lỗ Tương Công năm thứ 22, tại làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, bây giờ là tỉnh Sơn Đông nước Tàu.
    Đức Khổng Tử là dòng dõi của Vi Tử Khải và Vi Tử Diễn, 2 người nầy đều là anh ruột của vua Trụ, con của vua Đế Ất nhà Thương (cũng còn gọi là nhà Ân).
    Sau khi Châu Võ Vương diệt vua Trụ, mở ra nhà Châu, Ông Châu Công Đán hợp cùng Khương Thượng, sắp đặt cho Vi Tử  Khải làm vua nước Tống, để trông nom việc tế tự các vua nhà Thương. Vi Tử Khải mất, em là Vi Tử Diễn lên thay.
                Cháu 13 đời của Vi Tử Diễn là Thúc Lương Ngột, làm quan Đại phu nước Lỗ, là thân phụ của Đức Khổng Tử.
                Ngài lấy họ Khổng, bởi vì Thúc Lương Ngột là dòng dõi của Khổng Phùng Thúc, biệt lập ra họ Khổng kể từ Khổng Phụ Gia, sau 5 đời Công Khanh thế tập ở nước Tống.
                Thúc Lương Ngột có người vợ cả họ Thi, sanh được 9 người con gái, một người vợ lẽ sanh được một con trai nhưng bị què một chân, tên là Mạnh Bì, tự là Bá Ni.
                Năm Thúc Lương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự,  mới sai người  đến  nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có 5 người con gái đều chưa gả chồng, có ý chê Thúc Lương Ngột quá già,  mớibảo với các con rằng :
        - Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan Đại phu  ở Châu Ấp đó không ?
    Bốn người con gái lớn đều làm thinh, người con gái út là Trưng Tại đứng dậy thưa rằng :
               - Phép làm con gái, khi còn ở nhà thì theo lời cha, cha đặt đâu con xin ngồi đó.
    Họ Nhan nghe con gái út nói thế thì lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột.
    Trưng Tại đã kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi không có con trai nối dõi, nên cùng nhau vào núi Ni Sơn cầu tự. Khi Trưng Tại trèo lên núi Ni sơn, bao nhiêu lá cây đều rung động lên cả. Khi làm lễ cầu tự xong, đi trở xuống thì lá cây lại rủ xuống như cũ.
    Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng :
    - Sau nầy, nàng sẽ sanh con Thánh, nhưng khi nào lâm sản thì nên vào ở trong hang núi Không Tang.
    Đến khi nàng thức giấc tỉnh dậy thì biết mình có thai.
    Một hôm khác, Trưng Tại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, chợt thấy một Ông già đến đứng ở sân, tự xưng là Ngũ Tinh, dắt theo một con thú giống như con trâu con mà lại có một sừng, mình có vằn. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục xuống và nhả ra một cái ngọc xích, trên đó có thấy đề chữ : “Con nhà Thủy Tinh, nối đời Suy Châu mà làm vua không ngôi”.
    Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy. Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói :
    - Con thú ấy là con kỳ lân.
    Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi Thúc Lương Ngột là hang núi Không Tang ở đâu ?
    Thúc Lương Ngột nói :
                - Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi là hang Không Tang.
        Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sanh đẻ trong hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sanh ra Khổng Tử, có 2 con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở 2 bên sườn núi và có 2 vị Thần  Nữ  đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong thì biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một suối nước nóng chảy ra để cho Trưng Tại tắm. Tắm xong thì suối cạn ngay.
        Thúc Lương Ngột nói :
        - Vì  ta cầu tự  nơi núi Ni sơn mà được đứa bé nầy, nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni.
        Trưng Tại biết đứa con nầy sẽ làm nên việc lớn, nên hết sức nuôi nấng và chăm sóc con.
        Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm : Môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng và cao, khi lớn, mình cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tánh ham học.
        Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ngài sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với trẻ hàng xóm, thích bày trò cúng tế.
        Năm 15 tuổi, lập chí học tập.
        Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là con của họ Thượng Quan nước Tống.
        Năm 20 tuổi, vợ Ngài sanh đặng một con trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lý ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lý tự là Bá Ngư, để tỏ lòng tôn trọng vật của vua ban tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử  Tư, sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.
            1.     Đức tánh của Đức Khổng Tử :
    Đức Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc gì, Ngài cũng để ý xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận  mới thôi.
    Tánh Ngài ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh.
    2.  Thời kỳ tham chánh và dạy học :
    Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gạt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.
    Năm Ngài 25 tuổi thì chịu tang mẹ.
    Năm 29 tuổi, Ngài học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ.
    Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng Đức Khổng Tử đã nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ, cho 2 người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Ngài học Lễ.
    Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà Châu,  để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng vì nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi. Học trò Ngài là Nam Cung Quát nghe vậy, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho Ngài một cổ xe song mã và vài tên quân hầu cận để đưa Ngài và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Đức Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ.
    Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì Ngài đến quan sát và hỏi han cho tường tận. 
    Ngài đến gặp Trành Hoành  để hỏi về Nhạc.
    Khi ở Lạc Dương, Đức Khổng Tử còn tìm đến gặp Đức Lão Tử để hỏi về Lễ. (Xem trở lại Tiểu sử của Đức Lão Tử trong phần  Lão giáo, để biết việc đối đáp giữa 2 vị Thánh nhân) .
    Đức Khổng Tử  ở Lạc Dương khảo sát các việc xong thì trở về nước  Lỗ.
    Từ đó, sự học của Ngài càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng Ngài vào việc nước.
    Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn. Ngài theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Ở đây Ngài học được Nhạc thiều. Tề Cảnh Công mời Ngài tới để hỏi việc Chánh trị. Vua Tề rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho Ngài, nhưng quan Tướng Quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản không cho.
    Năm sau, Ngài trở về nước Lỗ, thấy họ Quý dùng Dương Hổ để chuyên quyền, ý muốn tiếm đoạt. Ngài quay về quê lo việc dạy học, và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh Hiền. Lúc đó Ngài được 36 tuổi.
    Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Ngài được 51 tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, 4 phương lấy chính sự của Ngài làm khuôn mẫu.
    Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 năm trước Tây lịch), Ngài phò vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ 3 khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đã chiếm của Lỗ từ mấy năm trước.
    Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư Khấu (Hình Bộ Thượng Thơ) coi việc hình án. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không còn nữa, xã hội được an bình thạnh trị.
    Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong Ngài lên làm Nhiếp Tướng Sự  (Tướng Quốc), coi  việc Chánh trị trong nước.
    Ngài cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính.
    Đức Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão :
    Thiếu Chính Mão là một nịnh thần rất nguy hiểm dưới trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc nước Lỗ. Quý Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn hỏi ý kiến của Đức Khổng Tử  mỗi khi có một quyết định trong công việc trị nước. Nhưng phần Thiếu Chính Mão, khi Đức Khổng Tử nói ra câu gì thì liền gièm pha khiến cho người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc.
    Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công :
    - Nước Lỗ không cường thịnh lên được là vì trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn trồng lúa tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt (dùng vào việc hình) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng vào việc hình.
    Lỗ Định Công thuận cho.
    Sáng hôm sau, Lỗ Định Công truyền cho các quan triều đình hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi hại thế nào. Các quan người nói nên phá, người nói không nên phá.
    Thiếu Chính Mão đón  ý  Đức Khổng Tử, nói rằng :
    - Phá thành có 6 điều tiện :
    1. Để tôn trọng quyền vua không ai bằng.
    2. Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.
    3. Để ức quyền tư môn.
    4. Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không cho nương cậy.
    5. Để yên lòng 3 nhà : Mạnh, Thúc, Quý.
    6. Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta  làm mà phải kính phục.
    Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công :
    - Thành ấp nay đã thế cô còn làm gì được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với  vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu Chính Mão dùng lời nói khéo để làm loạn chánh trị, khiến vua tôi ly gián, cứ theo phép thì nên giết.
    Các quan trong triều tâu :
    - Thiếu Chính Mão là người danh giá ở nước Lỗ ta, dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.
    Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công :
    - Thiếu Chính Mão là người dối trá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì việc chánh trị không thi hành nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội.
    Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu Chính Mão đem đến  Lưỡng quán mà giết đi.
    Các quan trong triều đều sợ hãi, xám xanh cả mặt. Ba nhà : Mạnh, Thúc Quý, trông thấy cũng đều  kinh sợ.
    Từ khi giết xong Thiếu Chính Mão, Lỗ Định Công và 3 nhà Mạnh, Thúc, Quý  mới một lòng nghe theo lời của Đức Khổng Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không còn nhiễu loạn mà chánh trị  mỗi ngày một hay.
    Ba tháng sau, phong tục biến cải cả : Các nhà buôn gà và heo không dám nhồi cám vào để dối người mua; trong khi ra đường, trai gái đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường thì không ai lượm, người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đãi tử  tế, không để cho thiếu thốn.
    Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng công đức của Khổng Tử. Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề.
    Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng :
    - Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên nghiệp Bá, tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào ?
    Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng :
    - Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách ngăn đi.
    Tề Cảnh Công nói :
     - Nước Lỗ giao quyền chánh trị cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được ?
    Lê Di tâu:
    - Tánh con người ta, hễ được cường thịnh tất sanh lòng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Vua Lỗ mà nhận Bộ Nữ Nhạc tất sanh lười biếng mà chán  Khổng Khâu. Bấy giờ tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công  mới có thể ngồi yên được. 
    Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can gián của Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc thì mê say theo, bỏ bê việc triều chánh, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ Quí. Đức Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị hại vì lời gièm siễm của bọn gian thần.
    Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không nhìn đến, cũng không đem phần thịt tế  biếu cho các quan Đại Phu. Đức Khổng Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.
    3.     Thời kỳ soạn sách và dạy học trò :
    Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đã 68 tuổi. Ngài trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách.
    Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị Hiền.
    Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh Hiền đời trước như : Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch.
    Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, Ngài chú giải rất kỹ.
    Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu để bày tỏ cái Đạo của Ngài.
    Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng Ngài vẫn khiêm tốn không dám nhận mình là Thánh nhân.
    Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dãi. Hễ ai theo đúng lễ đến xin học thì Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học trò, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục bình dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có đức hạnh trong giới bình dân.
    Sự giáo hóa của Ngài chủ yếu là làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của người, chớ không gom vào trong sự truyền thụ kiến thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâmcủa con người vậy.
    5. Đức Khổng Tử tạ thế :
    Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què một chân bên trái phía trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng :“Ngô đạo cùng hỹ !” (Đạo của ta đến lúc cùng !).
    Sách Xuân Thu chép đến chuyện nầy thì hết, nên đời sau còn gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.
    Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 trước Tây lịch),  một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát : Thái sơn kỳ đồi hồ ! Lương mộc kỳ hoại hồ ! Triết nhân kỳ nuy hồ ! (Núi Thái sơn đổ ư ! Cây gỗ tốt hư hoại ư ! Triết nhân mòn mỏi ư  !)
    Học trò của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi thăm Ngài. Ngài nói : “ Ta biết mình sắp chết.”
    Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi.
    Mộ của Ngài ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.
    Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự  trong 3 năm, riêng Tử Cống ở đó hết 6năm  mới thôi.
    Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.
    6.     Các triều đại phong tặng Đức Khổng Tử :
    - Năm 739, vua Đường Huyền Tôn phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước : Công, Hầu, Bá.
    - Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Ngài là : Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho thân phụ Ngài là Lỗ Công, phong cho thân mẫu Ngài là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị  làmVân Phu Nhân, và ra lịnh cho các tỉnh lập miếu thờ Ngài.
    - Năm 1306, vua Minh Thế Tông phong tặng Ngài là  Chí Thánh Tiên Sư .
    - Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
    7.     Văn miếu :
    Văn miếu hay Văn Thánh miếu là tòa nhà dựng lên để làm Đền thờ Đức Khổng Tử và các môn đệ của Ngài cùng với các Tiên Hiền, Tiên Nho qua các thời đại gồm :
    a. Tứ Phối : Bốn vị Thánh cùng được phối hưởng cúng tế với Đức Khổng Tử.  Tứ Phối gồm :
    -         Phục Thánh Nhan Tử  (Nhan Hồi)
    -         Tông Thánh Tăng Tử  (Tăng Sâm)
    -         Thuật Thánh Tử Tư   (Khổng Cấp)
    -         Á Thánh Mạnh Tử   (Mạnh Kha)
    b. Thập Triết : Mười vị Hiền triết, học trò tài giỏi nhứt của Đức Khổng Tử. Thập Triết gồm :
    - Mẫn Tổn                (Mẫn Tử Khiên)
    - Bá Ngưu                (Nhiễm Canh)
    - Trọng Cung              (Nhiễm Ung)
    - Tể Dư                  (Tử Ngã)
    - Đoan Mộc Tứ            (Tử Cống)
    - Nhiễm Cầu              (Tử Hữu)
    - Trọng Do                                 (Tử Lộ)
    - Ngôn Yển                 (Tử Du)
    - Bốc Thương              (Tử Hạ)
    - Chuyên Tôn Sư            (Tử Trương).
    c. Thất thập nhị Hiền : 72 vị học trò giỏi của Đức Khổng Tử, nhưng ở dưới Thập Triết một bực.
    Nói là Thất thập nhị Hiền, chớ thật ra chỉ có 62 vị, vì trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết, nên phải trừ ra 10 vị.
    d. Tiên Hiền, Tiên Nho : gồm 120 vị, qua các triều đại từ xưa đến nay.
    8.     Đức Khổng Tử trong Đạo Cao Đài :
    Đức Khổng Tử là một Đấng Giáo chủ trong Tam giáo thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhờ Đức Khổng Tử mà Nho giáo  mới được hưng hạnh, và trở thành một học thuyết triết học nhân sinh  có hệ thống chặt chẽ và hoàn hảo, chủ yếu dạy về Nhơn Đạo (Đạo làm Người). Không có một giáo thuyết nào dạy Nhơn Đạo hoàn hảo bằng Nho giáo.
    Do đó, Đức Chí Tôn  mới có chủ trương NHO TÔNG CHUYỂN THẾ, tức là dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo để dạy dỗ người đời, tái lập trật tự  và đạo đức trong xã hội.
    Trong Kinh Cúng Tứ Thời của Đạo Cao Đài có Bài Kinh Nho giáo để xưng tụng công đức của Đức Khổng Tử.
    VIII. Các Chi phái của Nho giáo :
    Nho giáo kể từ thời của Đức Khổng Tử cho đến đời nhà Thanh bên Tàu kể có 2500 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Nho giáo có lúc thịnh lúc suy, nhưng bao giờ cũng có cái tinh thần mạnh mẽ để đối phó với thời cuộc mà sinh tồn, mà phát đạt. Nhờ cái tinh thần ấy, học thuật tuy có biến thiên nhiều lần, nhưng cái đặc tính của Nho giáo vẫn không mất, mà lúc nào cũng giữ được thái độ tôn nghiêm đủ làm cho người ta tín phục.
    Xét về sự biến thiên của học thuật, từ đời Hán trở đi, ta có thể chia Nho giáo làm 2 cái học : Cái học Nghĩa lyù và cái học Từ chương.
    1.     Cái học Nghĩa lý :
    Sau thời Đức Khổng Tử, Nho giáo có 2 phái lớn :  Mạnh Tử và Tuân Tử. Hai phái nầy đều xưng là theo cái học của  Khổng Tử, song  mỗi phái chủ trương một tôn chỉ riêng. 
    Từ cuối đời Chiến Quốc đến hết đời nhà Tần, sang đời nhà Hán, Nho giáo bị một trạng thái trung suy, rồi từ đời vua Hán Võ Đế trở đi, Nho giáo rất được thịnh hành, song cái học thuật trong thời đại từ đời Hán đến đời Đường, chỉ chú trọng ở sự tìm nghĩa lý trong các Kinh Truyện, thành ra một lối học gọi là Huấn Hỗ học.
    Kế đến đời nhà Tống, các Nho gia bỏ lối học Huấn Hỗ, tìm lấy những vi ngôn đại nghĩa của Thánh Hiền, lập ra phái Lý Học, đem cái tư tưởng lên đến cõi siêu việt và gây thành một nền  triết học rất cao minh.
    Phái Lý Học của Nho giáo đời Tống có 3 học thuyết :
    -         Tượng số học.
    -         Đạo học.
    -         Tâm học.
    Tượng số học  do Thiệu Khang Tiết lập ra, nhưng về sau không thạnh hành.
    Đạo học  Tâm học thì đời nhà Tống đến đời nhà Minh, đều cùng nhau đối lập. Đạo học lấy Trình Chu làm tiêu biểu, còn Tâm học thì lấy Lục Vương làm tiêu biểu.
    Nho giáo đến cuối nhà Thanh lại chia ra làm mấy phái nữa, như : Hán Học phái, Tống Học phái, và sau cùng là Tân Học phái.
    Hán Học phái lấy sự khảo cứu các Kinh Truyện làm tôn chỉ. Tống Học phái lấy học thuyết của Tống Nho làm tôn chỉ. Tân Học phái lấy việc chánh trị theo nghĩa trong Ngũ kinh làm tôn chỉ.
    Các Học phái ấy đều muốn sửa đổi cái lưu tệ để khiến cho sự học được thích hợp với sự ứng dụng ở đời.
    2.     Cái học Từ chương :
    Ngoài những Học phái chuyên về đường Nghĩa lý, còn có cái học Từ chương, chỉ chú trọng về mặt Khoa cử, để đem người học vào đường danh lợi.
    Cái học Khoa cử từ đời Hán đến đời Đường rất cực thịnh. Nho giáo nhờ cái học ấy mà lan rộng khắp thiên hạ, nhưng cũng vì cái học ấy mà thành ra cái học hư văn, làm mất chơn tướng sự học củaThánh Hiền.
    Hoàng Lê Châu đời nhà Thanh sơ nói rằng : “ Cử nghiệp thịnh nhi Thánh học vong.” Nghĩa là : Cái học Khoa cử thạnh thì cái học của Thánh Hiền mất. Đây là câu nói thật đúng cái bệnh của sự học Khoa cử vậy.
    Nho giáo sở dĩ có cái mãnh lực biến thiên và phát đạt như thế là bởi có cái học “phí nhi ẩn”, rộng mà sâu, thiết thực mà huyền bí, và bao giờ cũng theo đạo Trung Dung, nghĩa là cái tư tưởng thì lên đến chỗ cực cao xa, mà sự hành vi thì vẫn giữ có chừng mực, không thiên lệch về bên nào, khiến cho sự nhân sinh của các hạng người đều được an vui, (Theo Nho giáo của Trần trọng Kim)
    IX.  Sự Giáo dục của Nho giáo :
    Về phương diện giáo dục, Nho giáo cho cái Tánh bản nhiên của Trời phú cho  mỗi người là Chí thiện. Bởi có cái Tánh ấy, nên ai sanh ra cũng có sẵn Tứ Đoan, gồm : Trắc ẩn, Tu ố, Từ nhượng, Thị phi, tức là 4 cái mối đầu của : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
    Người ta sở dĩ  làm điều ác là tại để cái tư tâm tư dục che lấp mất Tứ Đoan ấy.
    Cho nên sự Giáo dục là cốt gây nuôi lấy cái Thiện đoan và tài chế các Ác đoan. Người nào thực hiện được 4 điều : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, thì đó là người quân tử có cái phẩm giá rất tôn quí.
    Việc giáo dục của Nho giáo lấy Đức dục làm gốc và lấy Trí dục làm ngọn. Cái gốc có bền chặt thì cái ngọn  mới tươi tốt. Có Đức dục thì nghĩa lý thấm thía vào lòng người ta, làm cho tự mình bỏ được cái bụng gian tà. Người có học hạnh thường phải bó mình trong cái phạm vi danh giáo, thành thử cái Tà tâm mà có sanh ra thì cũng không trưởng thành lên được. Ấy thật là cái công của Nho giáo , dẫu người ta không thực hành hoàn toàn được cái đạo của Thánh Hiền, nhưng cũng gây được cái phong khí rất hay ở trong xã hội vậy.
    Cái nền Đức dục của ta là Nho giáo, đã được xây đắp lên hằng mấy ngàn năm nay rồi, và đã có hiệu quả mỹ mãn, thì ta cứ giữ lấy mà lưu truyền để làm cái sản nghiệp riêng của dân tộc ta.
    Ta lại thu lấy những điều Trí dục mà ta còn khiếm khuyết, bồi bổ thêm vào cái sản nghiệp ấy, làm cho Tâm với Trí điều hòa với nhau mà tiến hóa.
    Như thế, cái học của ta có căn bản, nên dầu có thay đổi điều gì ắt cũng ít có sự lầm lỗi vậy.
    X.  Nho giáo Việt Nam :
    Việt Nam là một nước bé nhỏ bên cạnh một nước vĩ đại Trung Hoa, dân VN lại kém văn minh, nên VN bị Trung hoa đô hộ 4 lần kéo dài đến hơn 1000 năm.
    Trong khoảng thời gian bị đô hộ đó, người Tàu có ý đồng hóa dân VN với dân Tàu, biến VN thành một châu quận của nước Tàu. Người Tàu đã di dân sang VN, làm ăn buôn bán với người VN, cưới gả với người VN, truyền qua VN các phong tục tạp quán của Tàu, các nghề nghiệp và các tín ngưỡng. Tuy nhiên, người VN có một tinh thần dân tộc rất mạnh, luôn luôn quật khởi chống lại sự đồng hóa của người Tàu. VN lại có tinh thần cầu tiến, luôn luôn học hỏi cái hay của người để được khôn ngoan và tiến bộ cho bằng người Tàu, để đủ sức bảo tồn nói giống VN.
    Về phương diện tín ngưỡng tôn giáo, người Tàu truyền qua VN ba nền tôn giáo (Tam giáo) : Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo. Người VN thu nạp và tôn sùng 3 nền tôn giáo đó, đồng thời lại dung hợp 3 tôn giáo ấy thành một tín ngưỡng có sắc thái riêng biệt của người VN.
    Riêng về Nho giáo, người Tàu truyền qua VN sớm hơn Phật giáo và Lão giáo, qua các vị quan sang làm Thái Thú cai trị Việt Nam.
    Theo Sử Ký, vào thế kỷ thứ 1, đời nhà Tây Hán bên Tàu, Thái Thú cai trị Giao Chỉ (nước VN) là Tích Quang, hết lòng lo việc khai hóa dân Giao Chỉ, dạy dân điều Lễ Nghĩa, làm lễ Cưới Hỏi trong việc vợ chồng. Dân Giao Chỉ rất mang ơn và kính trọng.
    Đến đầu thế kỷ thứ 3, VN vẫn còn nội thuộc nhà Tây Hán, Giao Chỉ được đổi lại là Giao Châu, và Thái Thú cai trị là Sĩ  Nhiếp. Sĩ Nhiếp trị dân rất có phép tắc, chăm lo việc dạy dân học chữ Nho và các kinh sách của Nho giáo, tạo thành một nền đạo đức luân lý cho dân VN. Người VN cảm mộ cái công đức đó, tôn Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương và tôn là Học Tổ của VN.
    Trong hơn 1000 năm đô hộ của người Tàu, người VN chịu sự  cai trị và giáo hóa của người Tàu, nên sự học vấn, luân lý, phong tục, tín ngưỡng, đều hoàn toàn theo người Tàu. Tuy vậy, người Tàu không đồng hóa được người VN vì người VN có một đức tin mạnh mẽ về nguồn gốc thiêng liêng của nòi giống dân tộc mình là con Rồng cháu Tiên, nên luôn luôn quật khởi chống lại sự đô hộ của người Tàu.
    Sau đây, chúng ta xem sự biến thiên của Nho giáo VN kể từ thời Tự chủ, vua Ngô Quyền (939-965)  đến ngày nay.
    1)  Nho giáo VN dưới thời : Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và nhà Lý :
    Trong các triều đại nầy, Tam giáo đều được thạnh hành cả. Nho giáo theo cái học của nhà Đường, và cái học của Nho giáo là cái học Khoa cử để tuyển lựa nhơn tài.
    Đến đời vua Lý Thánh Tông (1034-1072), Văn Miếu được lập ra để thờ Đức Khổng Tử, Châu Công Đán và Thất thập nhị Hiền.
    Lý Nhân Tông (1072-1127) mở khoa thi Tam Trường (1075) để tuyển người văn học Nho giáo ra làm quan, ông Lê văn Thịnh  đỗ đầu. Sau đó, vua Nhân Tông lập Quốc Tử Giám, là nhà dạy học, đào tạo nhân tài; mở Hàn Lâm Viện, có Nho gia là Mạc Hiển Tích  làm Hàn Lâm Học Sĩ.
    Nho giáo đời Nhà Lý thạnh hơn các triều đại trước, và nhờ vậy, sản xuất được nhiều vị hiền lương, trung nghĩa, tiết tháo. Những người Nho học có danh tiếng lớn dưới thời nhà Lý là : Lý Đạo Thành, Trương Bá Ngọc, Tô Hiến Thành. Những vị nầy, tuy  không phải là những học giả chuyên nghề luận đạo làm văn, nhưng biết dùng cái tinh hoa của Nho học mà thi thố trong  việc làm,  xứng đáng là những danh Nho.
    2)  Nho giáo VN dưới thời nhà Trần, nhà Hồ :
    Đến đời nhà Trần, Nho giáo thịnh hơn trước, có nhiều nhà Nho chân chính như : Mạc Đỉnh Chi, Trương Hán Siêu, Chu văn An, Lê văn Hưu, Nguyễn Phi Khanh, Hàn Thuyên, …
    Đặc biệt trong thời nhà Trần, ngoài Nho học còn có Lão học và Phật học cũng rất được tôn trọng. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Tam giáo, chọn những người tài giỏi về Nho học, hay Lão học,  Phật học. Ai theo cái học nào mà tinh thâm đạo lý thì được vua dùng, không nhất thiết phải là Nho học. Như thế, Tam giáo bấy giờ được xem trọng như nhau.
    Nhà Hồ soán ngôi nhà Trần. Nhà Minh bên Tàu có cớ đem quân sang đánh chiếm và đô hộ nước ta, đặt ra các học quan, đem cái học của Tống Nho dạy cho dân, lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư của họ Trình, họ Chu đã chú thích mà dạy. Cái học của Trình của Chu càng ngày càng thịnh.
    3)  Nho giáo  dưới thời nhà Lê, nhà Mạc :
    Vua Lê Thái Tổ (1428-1433) hết lòng mở mang việc học, đặt riêng các Học quan để lo việc giáo hóa. Vua bắt các quan từ Tứ phẩm trở xuống phải đi thi Minh Kinh, nghĩa là quan văn thì phải thi Kinh Sử, quan võ thì phải thi Võ Kinh.
    Đến đời Lê Thánh Tôn (1460-1497), văn học nước ta cực thạnh. Những người thi đậu Tiến Sĩ được khắc tên lên bia đá dựng trong Văn Miếu.
    Những danh Nho thời nhà Lê là : Nguyễn Trãi, Lương thế Vinh, Lương đắc Bằng, và thời Lê Trung Hưng là : Phùng khắc Khoan, Lương hữu Khánh, Phạm đình Trọng.
    Đặc biệt trong thời nhà Mạc, trước Lê Trung Hưng, xuất hiện một đại danh Nho là Nguyễn bỉnh Khiêm, tinh thông Lý số và Dịch Kinh, làm cho người Tàu phải kính phục.
    Trong thời nhà Lê nói chung, Nho giáo rất thạnh, nhưng các Nho gia chỉ chú trọng cái học khoa cử, vụ lấy văn chương cầu sự đỗ đạt ra làm quan, chớ không có ai đạt được chỗ uyên thâm của Nho giáo, tìm được đạo lý cao siêu mà đề xướng các học thuyết có giá trị như bên Tàu. Đó là chỗ yếu kém của Nho học nước ta.
    4)  Nho giáo dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn Gia Long :
    Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Nho học ít được các vua chúa quan tâm, mà chỉ lo việc võ bị để đánh nhau. Sự học hành thi cử đại khái giống như thời nhà Lê, luôn luôn lấy Nho học làm trọng.
    Một việc quan trọng là Chúa Trịnh Giang ra lịnh in sách. Trước đây, các sách Nho như Ngũ Kinh, Tứ Thư đều mua từ bên Tàu, nay Chúa Trịnh Giang ra lịnh khắc bản in tại Thăng Long và phát ra mọi nơi.
    Ở Bắc Hà có các danh Nho như : Lê Quí Đôn, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Du. Ở phía Nam, Chúa Nguyễn bận lo việc mở mang bờ cõi xuống phương Nam nên ít quan tâm đến Nho học, làm cho Nho học ở phía Nam kém xa phía Bắc, nhưng cũng sản xuất được một vài danh Nho tài kiêm văn võ như : Đào duy Từ, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn hữu Tiến, Nguyễn hữu Hào với truyện Song Tinh Bất Dạ.
    Thời nhà Tây Sơn (1788-1802) kéo dài 14 năm, bị chiến tranh  liên miên, nên Nho học không được chú trọng.
    Có một sự kiện đặc biệt, vua Quang Trung ra lịnh chánh thức dùng chữ Nôm trong văn tự, để gây thành một tinh thần dân tộc mạnh mẽ của người VN. Một nền văn học chữ Nôm đã được các Nho gia ủng hộ từ trước nhưng không được các vua chánh thức công nhận và phát huy, mãi đến đời vua Quang Trung  mới được mở ra thay thế nền văn học chữ Hán.
    Chữ Nôm đã được Hàn Thuyên chế ra từ đời nhà Trần, hình thức giống như chữ Hán, nhưng đọc thành tiếng nước Nam. Điều nầy chứng tỏ ý thức dân tộc của người VN muốn thoát khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào văn tự  Trung quốc.
    Những tác phẩm chữ Nôm rất có giá trị tiêu biểu nền văn học VN như : Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Hoa Tiên của Nguyễn huy Tự, Truyện Song Tinh Bất Dạ của Nguyễn hữu Hào, vv . . .
    Trong thời kỳ nầy có những bậc Nho học uyên thâm, khí tiết cao thượng, ẩn dật chốn sơn lâm, không chịu ra làm quan, như các ông : Ngô thế Lân, Đặng thái Phương, Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử), đặc biệt ông Đặng thái Phương đem sách Chu Dịch ra diễn Nôm theo lối văn vần, gọi là Chu Dịch Quốc Âm quyết.
    Vua Gia Long đánh đuổi Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, rất chú trọng việc học. Vua cho lập Văn miếu ở các Doanh, các Trấn để thờ Đức Khổng Tử, tỏ lòng tôn trọng Nho học, mở trường Quốc Tử Giámđể dạy Nho học. Văn chương chữ Nôm rất thịnh, nhưng nhà vua vẫn dùng chữ Hán làm chánh.
    Các vua triều Nguyễn rất tôn trọng Nho học, sửa sang việc thi cử để chọn những người Nho học tài giỏi ra giúp nước. Nhiều Nho sĩ nổi tiếng như : Lý văn Phức, Nguyễn công Trứ, Phan huy Chú, Nguyễn Khuyến, vv . . .
    Vua Gia Long phục quốc thành công nhờ sự viện trợ của nước Pháp ở Âu Châu, nên phải cho các Giáo sĩ người Pháp vào VN truyền đạo Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo đã làm cho Nho học lung lay mạnh mẽ.
    Vua Minh Mạng nói : “Đạo phương Tây là Tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, nên phải nghiêm cấm để khiến cho dân  theo Chánh đạo.”
    Việc cấm đạo Thiên Chúa bắt đầu  từ thời vua Minh Mạng. Đây chính là nguyên do để người Pháp xâm chiếm nước ta, đặt nền thống trị lên dân tộc ta gần một thế kỷ.
    Thiên Chúa giáo và Triết học Tây phương du nhập vào VN làm cho Nho giáo mất hẳn  độc tôn trong xã hội VN.
    5)  Nho giáo dưới thời Pháp thuộc : Sự suy tàn của Nho giáo VN :
    Tầng lớp Nho sĩ đang lãnh đạo xã hội VN, khi phải đương đầu với nền văn hóa Âu Tây, thấy người ta hùng mạnh văn minh, còn mình thì yếu hèn hủ lậu, nên tưởng lầm cái nguyên nhân gây ra sự hùng mạnh  kia là do máy móc cùng đầu óc khoa học  cơ giới. Thế rồi một số sĩ phu chủ trương rủ sạch quá khứ, bài bác Đạo học cổ truyền, cho đó là nguyên nhân gây ra yếu hèn và thất bại. Họ chủ trươnghoàn toàn theo Tân học.
    Người Pháp đem đạo Thiên Chúa truyền bá trong nước VN, dành cho người theo đạo nhiều quyền lợi vật chất. Các Giáo sĩ  Thiên Chúa giáo, vì nhu cầu truyền đạo, nên phiên âm tiếng VN bằng cách dùng các mẫu tự của chữ  Pháp để tạo thành chữ quốc ngữ ngày nay.
    Đó là công trình của 2 Giáo sĩ : Alexandre de Rhode (Đắc Lộ) và Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc).
    Chữ quốc ngữ rất dễ học hơn chữ Hán hay chữ Nôm, nên được phái Tân học ủng hộ triệt để và dần dần thay thế hoàn toàn chữ Hán trong việc giáo dục.
    Năm 1918, triều đình Huế, dưới sự bảo hộ của nước Pháp, đã ra lịnh bãi bỏ việc thi cử bằng chữ Hán. Nhờ vậy, chữ quốc ngữ  mới trở nên quan trọng và thiết yếu cho sự tiến hóa của VN.
    Chữ Hán là một lợi khí của Nho giáo, mà ngày nay đã bị bãi bỏ thì Nho học cũng không còn được trọng dụng và tồn tại nữa. Cái học từ chương, xa rời thực tế của Nho giáo thực sự chấm dứt, nhường chỗ cho Tân học với chữ quốc ngữ.
    Tóm lại, đường lối học thuật và tư tưởng của Nho giáo VN từng thời kỳ đều biến đổi giống như Nho giáo Trung hoa.
    Những Nho gia VN cho rằng những tư tưởng mà Thánh Hiền đã nói trong các Kinh, Thư, Truyện. đều đầy đủ hết cả, không còn ai biết hơn được nữa, nên Nho gia chỉ chăm chăm học cho làu thuộc những điều ấy và cố gắng đem ra thực hành. Do đó, không có Nho gia nào đạt được cái uyên thâm cao viễn của Nho giáo mà phát minh ra một học thuyết  mới mẻ nào.  Nho giáo VN chỉ nằm trong phạm vi Hình Nhi Hạ học mà thôi.
    XI. Phần Kết :
    Xin trích ra sau đây lời nhận xét của Ông Phan Kế Bính, viết trong quyển Việt Nam Phong Tục, về Nho giáo VN, để làm phần kết của bài khảo luận về Nho giáo nầy.
    “ Đạo Nho là một đạo bình thường giản dị, thuận theo lẽ tự nhiên của Tạo Hóa, hợp với tánh tình đương nhiên của người ta, ai cũng có thể noi theo được.
    Người mà có Nho học thì nên một người  nết na, có phép tắc, có lòng nhân  ái. Nước mà dùng đạo Nho thì nên một nước có kỷ cương, có thể thống,  dễ cho việc cai trị, mà nhân dân cũng được hưởng phước hòa bình.
    Duy có một điều : Triết lý thì nhiều điểm viển vông, khiến người ta khó hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc khiến người ta khó theo. Tánh tình thì chuộng êm ái hòa nhã khiến cho dân khí nhu nhược, không hùng dũng hoạt động như tánh người Âu Châu, nhu dụng thì chuộng cách tiết kiệm tầm thường, khiến cho kỹ nghệ thô sơ, không được tinh xảo phát đạt như các nước Âu Châu.
    Nói rút lại, đạo Nho là một đạo tự trị rất hay, mà đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh.
    Còn như các thói hủ bại, phần nhiều là bởi tự người làm nên tệ, chớ không nên đổ cho tại Nho giáo.
    Tuy vậy, nước ta cũng nhờ có Nho học  mới theo được các văn minh của nước Tàu, mà nên một nước có văn chương, có chánh trị, có luân thường, có học thức.
    Nếu trước khi chưa có Âu học, mà lại không có Nho học, thì nước ta chẳng qua cũng là một nơi mọi rợ mà thôi.
    Vậy thì cái công của Nho giáo truyền sang nước ta rất to, dẫu khi nào nhờ Âu học mà nên một nước thạnh vượng hơn trước, ta cũng không nên quên cái công ấy. Vì cái công ấy đã mở mắt cho ta, ví như đứa trẻ thơ, trước nhờ một ông thầy dạy bảo cho mở một đôi chút trí khôn, về sau dẫu có nhờ được ông thầy khác, học được thêm khôn thêm khéo, thì cũng không nên quên cái công của ông thầy trước.
    Và cứ theo Đạo Nho mà dùng cho khéo, bỏ những điều câu  thúc hủ bại, đem cách trí, tư  tưởng  mới để  bổ vào những nơi khuyết điểm thì cũng nên được một nước phú cường thạnh vượng, mà có lẽ lại hay hơn nữa.
    Tôi thấy gần nay, các ông cựu Nho thở vắn than dài riêng với nhau rằng đạo Nho ta suy đồi, sắp đến ngày tiêu diệt. Tôi thiết tưởng, vật gì lâu ngày cũng phải mục nát, mà đạo nào cũng có lúc thạnh lúc suy. Huống chi, một thời biến đổi, là một cơ hội của Tạo Hóa xây vần, cái nền cũ có đổ nát thì  mới gây nên được cái nền  mới.
    Vậy hội nầy chính là dịp tấn hóa của nước ta đó.”
    Nguồn: http://www.daotam.info/booksv/nvhdcdvctgII.htm
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org