Phạm Nguyên Trường dịch
Con người ta có tri thức đến mức nào?
Câu hỏi ngắn này lại là câu hỏi phức
tạp. Dĩ nhiên là tri thức tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Một thiên tài toán
học có thể tin vào khả năng dự toán của những quân bài Tarot, một nhà văn vĩ đại
có thể lúng túng trước một cách lập luận đơn giản nhất, một nhà quản lí hàng đầu
có thể mù tịt về văn chương.
Đó là vấn đề thú
vị, nhưng không phải là mối quan tâm của tôi ở đây. Tôi muốn làm rõ vấn đề sâu
sắc hơn: mỗi người chúng ta, khi đứng một mình, đều những người tối tăm đến
kinh ngạc và thường làm những việc ngu xuẩn.
Lời khẳng định này có thể là một cú sốc
xuất phát từ một người cá nhân chủ nghĩa thâm căn cố đế như tôi. Nhưng cú sốc lại
xuất phát từ việc không hiểu được chủ nghĩa cá nhân. Như vậy là, muốn tìm hiểu
vấn đề trí tuệ của con người, trước hết chúng ta phải hiểu chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân, được sử dụng ở
đây, là một triết lí chính trị. Nó là một tập hợp những chân lí nói về bản chất
của xã hội và tập hợp những luật lệ về quan hệ phù hợp giữa chính phủ và các cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân phủ nhận quan điểm cho rằng xã hội tách biệt với
những cá nhân hợp thành xã hội đó. Nó phủ nhận sự tồn tại của “ý chí chung”. Nó
công nhận rằng những tập hợp được sử dụng nhằm thảo luận về xã hội – như “GDP”,
“nhân dân Mĩ” hay “thành phố Chicago” – chỉ là kết quả của ảnh hưởng qua lại của
những sự lựa chọn và hành động của rất nhiều cá nhân riêng biệt mà thôi. Những
tập hợp này chỉ là sản phẩm được tạo tác bởi từng cá nhân trong hàng triệu cá
nhân tương tác với nhau theo những cách rất phức tạp, không thể nào mô tả bằng
lời được.
Chủ nghĩa cá nhân phủ nhận tuyên bố
cho rằng chính phủ phản ảnh một cách chính xác ước muốn của “nhân dân” – vì chủ
nghĩa cá nhân không công nhận nhân dân, như một nhóm người, là thực thể có ý thức,
có ước muốn. Tôi có ước muốn, vợ tôi có ước muốn, người hàng xóm của tôi có ước
muốn. Một số ước muốn có thể được toàn thế giới chia sẻ. Một số ước muốn khác
có thể xung đột kịch liệt với nhau. Nhưng ngay cả thậm chí ước muốn được mọi
người chia sẻ cũg vẫn chỉ là ước muốn của từng cá nhân riêng biệt mà thôi. Tách
khỏi những cá nhân như thế thì không tạo vật nào có ước muốn hết.
Một trong những hậu quả của quan niệm
này là sự nghi ngờ của người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa về việc sử dụng
chính phủ để buộc một số người phải tuân lệnh một số người khác. Người theo
thuyết cá nhân chủ nghĩa bác bỏ huyền thoại đầy thơ mộng rằng một số người được
nhà nước chuyển hóa một cách thần kì thành tương tự như thánh thần, tức là
thành những người có thể phân biệt và tập hợp được biết bao nhiêu kiến thức nằm
rải rác trong hàng triệu người. Kết quả là, người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa
thù địch với mọi cố gắng nhằm buộc bất cứ người nào phải khuất phục cái thực thể
được cho là “cao hơn” đó.
Chủ nghĩa cá nhân không phải là
niềm tin rằng mỗi người là hay tìm cách trở thành cách biệt, giống như một hòn
đảo, với những người khác. Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa công nhận sự kiện
đáng mừng là mỗi người chúng ta đều phụ thuộc vào vô số người khác – gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp và nói một cách văn hoa là phụ thuộc vào hàng trăm triệu
người mà ta không hề quen biết trên khắp thế giới, sự sáng tạo và cố gắng của họ
thể hiện trong những món hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng chính là sự thịnh vượng của
chúng ta.
Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa
hiểu rằng xã hội chỉ có thể phát triển từ ảnh hưởng qua lại của những sự lựa chọn
và hành động của từng con người với sự lựa chọn và hành động của hàng triệu người
khác, và rằng sự cưỡng chế của chính quyền trung ương ngăn cản sự phát triển
đó.
Tri thức của con người
Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa
đánh giá một cách sâu sắc giới hạn của sự hiểu biết của mỗi cá nhân. Ngoài việc
nhận thức được tầm quan trọng của sự hợp tác xã hội, người theo thuyết cá nhân
chủ nghĩa còn nhận thức được rằng:
- Hợp
tác không thể là công việc ép buộc;
- Hợp
tác thường kéo theo sáng tạo (thí dụ như người sản xuất thiết kế ra cái bẫy
chuột tốt hơn để bán);
- Vì
có sự sáng tạo và vì mỗi người đều có một số kiến thức độc đáo nhưng giới
hạn, cho nên kết quả của sự hợp tác là không lường trước được;
- Mỗi
cá nhân đều là những người dốt nát, dễ hiểu sai và lầm lẫn cho nên việc
tìm ra chân lí – tức là phân biệt giữa những ý tưởng đúng và ý tưởng sai –
buộc người ta phải liên tục thực hiện quá trình thử và sai; và
- Khi
người ta tự do hợp tác, chỉ phải thuyết phục người khác hợp tác với mình
thì sẽ hình thành trật tự xã hội, trong đó mỗi người đều nhận được lợi ích
từ những mẩu kiến thức độc đáo mà mỗi người trong số hàng triệu người khác
đem vào trong quan hệ thị trường. Thông qua thị trường, tôi nhận được lợi
ích từ kiến thức độc đáo của anh hàng thịt, anh hàng bia và anh hàng bánh
mì, mặc dù tôi chẳng biết một tí gì về công việc của những người kia.
Như vậy là, người theo thuyết cá nhân
chủ nghĩa cho rằng kiến thức mỗi cá nhân sở hữu là vô cùng nhỏ bé, nhưng chỉ
tính những người phục vụ anh ta thôi thì kiến thức của họ đã là vô cùng to lớn
rồi. Anh ta nhận thức được rằng mình biết rất ít. Anh ta hiểu rằng một người
hay một nhóm người trong một ủy ban nào đó tưởng tượng là hắn ta hay bọn họ có
thể nắm được toàn bộ những chi tiết của những dàn xếp trên thương trường là sự
kiện cực kì khôi hài.
Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa
chỉ có thể chế nhạo vào sự giả dối của những kẻ tưởng tượng rằng họ có thể đoán
được hay lập kế hoạch cho thị trường vì đấy sẽ là dự đoán hay lập kế hoạch cho
hàng trăm triệu người, mà mỗi người trong số đó lại có một ít kiến thức độc
đáo.
Người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa biết
rằng một người hoàn toàn tách biệt với xã hội của những người đàn ông và đàn bà
tự do là người không chỉ nghèo một cách tuyệt vọng mà còn là người luôn luôn sợ
hãi và sai lầm một cách vô lí nữa.
Xin hãy suy nghĩ về một chút kiến thức
- thí dụ, trái đất tròn hay vi khuẩn có thể giết người. Đối với chúng ta, đây
là những sự kiện rõ ràng. Nhưng chúng không phải đã là những sự kiện rõ ràng.
Hàng bao nhiêu ngàn năm, đa số dân chúng không biết gì về những sự kiện như thế.
Và độc giả thân mến của tôi, bạn biết những sự kiện đó không phải vì bạn phát
hiện ra chúng mà bởi vì biết bao nhiêu người đã tư duy một cách sáng tạo và hữu
lí, và tìm cách chia sẻ ý tưởng của họ với những người khác, đem ý tưởng của
mình ra cho người khác đánh giá và chau chuốt thêm. Sự tương tác giữa những con
người tự do và hữu lí là tác nhân khám phá ra và khẳng định những sự kiện đó.
Tôi thấy trái đất phẳng, tôi chưa bao
giờ nhìn thấy con vi trùng nào. Nhưng tôi biết rằng trái hình tròn, rằng có những
con vi trùng và chúng rất nguy hiểm. Tôi được lợi từ kiến thức đó, mặc dù
đấy không phải là phát minh của cá nhân tôi. Và khi tôi nghĩ về những lợi ích
đó, tôi nhận thức được rằng hầu như mọi thứ tôi biết đều do những người khác
phát hiện ra. Đấy là kiến thức mà nếu ở một mình với chiếc máy tính mạnh nhất,
thì hàng tỉ năm tôi cũng không thể nào tự mình phát hiện ra được.
Một mình, tôi là người ngu dốt và tăm
tối; nhưng như một thành viên của xã hội thị trường, tôi là người có kiến thức
và được khai minh. Tôi có kiến thức và được khai minh là nhờ sự cố gắng mang
tính cá nhân của biết bao nhiêu người, họ là những người sử dụng một cách sáng
tạo quyền tự do và khả năng tư duy một cách hữu lí của mình.
Donald J. Boudreaux là giáo
sư kinh tế tại George Mason University, là cựu chủ tịch của Foundation of
Economic Education (FEE), là tác giả cuốn Tòan cầu hóa (Globalization).
Nguồn: http://phamnguyentruong.blogspot.com/2012/09/ban-ve-chu-nghia-ca-nhan-bai-3.html