Hoàng Anh Tuấn
Thành công của người Do Thái nhiều
người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là
người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những
thành công của Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức
thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc
gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau
giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết thêm nhiều
vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định kiến một chiều, phiến diện.
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong
suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của
dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn
các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của
người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch
IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn
nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do Thái có “gien”
thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời
khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa
học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại
“bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện,
hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích
nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy
thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do
Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ
của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là
Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách
đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi
Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra
nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới,
người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung,
nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc,
thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc.
Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập,
lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và
phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc
Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với
nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven
biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự
kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục
tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái,
Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ
tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại
“thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng
Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng
cách nào?
5. Tại sao người Do Thái lại có truyền
thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại
sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự
nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ
em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái
cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ
Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số.
Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh
vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành
khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do
Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam,
cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều
gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy
nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và
rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn
toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng có dân tộc
nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng
nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo
sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói
quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản
sắc và “nòi giống” Do Thái?
8. Tại sao mô hình Kibbudz của người
Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại
không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên
thành công của các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái được thực hiện
giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia
khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt
tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu
Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở
về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư,
nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số)
trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết
những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập
vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn
đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua
một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể
học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế,
đất nước…)?
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa
sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến
60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất
ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn
cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu
nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel
mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất,
dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân”
đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự
kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà
buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư,
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản
lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành
đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh
tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất
nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới
trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy
trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ
lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại
không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau
quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao
cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21,
Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất
nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân,
nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn
bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn
ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến
từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều
khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với
thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông
nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần
cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi
chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng
(cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được
lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu
sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như
vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch.
Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm
định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới
“trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế
về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản
xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta
cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với
Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự
nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất
ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang
trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực
tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ
con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ
sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề
nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”,
âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi
nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường
câu trả lời cho các bạn trẻ.
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và
tiếng Hebrew
Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy
khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong,
nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không
Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ
nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến
hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường
phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc
bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển
Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành
kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này
không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay
Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi
mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại
giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông
không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt
cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà
ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu
sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học.
Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động
tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc
với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy
phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi
cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi
thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy
rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc,
việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng
giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel
ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng
các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân
tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible),
(ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew.
Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học,
ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một
cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ
trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát
trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học
được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một:
Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất
trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc
Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo
Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách
đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy
nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần
(Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị
chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên
bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động
vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và
chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái
cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt
quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn
Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do
Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của
Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái
rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực
lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn
đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do
đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống
là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ
thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo
đuổi.
Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính
“Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều
được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc
nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất
gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn
nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah
ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại
không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác
nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng
với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày
Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các
điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí
tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.
Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn
Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo
điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi,
nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc
trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được
xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình
dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia
đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được
bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn
“đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các
cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu
hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một
từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc
đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái
các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải
ngày “đi làm”.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số
điều thú vị:
- Ngày
thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và
đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động
sau này;
- Lễ
Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng
ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi
hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
- Là
cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động
trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
- Vợ
chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ
sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.
Người Do Thái coi trọng chuyện học
hành
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện
học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm
đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm
lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người
Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một
phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái
cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện
đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh
người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà
vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc
dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều
phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy
vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên,
người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các
thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ
Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và
lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn
năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái
viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp,
dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn,
vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó
chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh
thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là
nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:
Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải
đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà
thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của
mình và được truyền từ đời này qua đời khác.
Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau,
ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ
vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ
khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã
nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.
Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người
Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do
Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những
người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn
hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không
chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật,
kinh tế và khoa học thông thường ở trong đó.
Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về
Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn
gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất
là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở
Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên
thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh
người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ
hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều
này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng
đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn
gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện
trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ
không bao giờ quên điều này khi tha hương.
Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong
tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và
nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc
khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa
lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái
giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu,
ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức
“khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc
có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát
triển” gien của mình:
Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các
Rabbis) là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là
người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị
“chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các
Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do
có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu
tiên chọn thường là con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con
các nhà buôn.
Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy,
kinh thánh Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm
cách cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích
người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn.
Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là
sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều
này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh
có trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối
với những người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua
hàng ngàn năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt
trong người Do Thái là điều dễ hiểu.
Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống,
và ngay tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại
Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại,
đàn ông dù bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều
hàng ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là
có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do
Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với
một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở
Isael), chứ không được coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người
Do Thái có một cô con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục”
của cả gia đình và dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả
coi như đứa con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện
tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ
cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện
này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ
tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá
trình phát triển, đó là:
- Duy
trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong
cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ,
sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni,
rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà
dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh
khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
- “Đồng
hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc
“cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận
các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
- Tránh
việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại
chính tôn giáo của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại
lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
- Ngay
khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau
sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri
Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người
thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả
năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến
việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo
cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước
Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực.
Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do Thái là các
giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
- Trong
hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như
luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng.
Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và
các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm
khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của
đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của
đời sống xã hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút
“Phép thông công” (excommunicate) – tương đương với một bản án tử hình –
và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình
phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
- Người
theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các
giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm
cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các
Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi,
họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những
người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại
là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên những dòng, nhánh
khác.
- Khác
với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên,
càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải
có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu
hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít
người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến
synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do Thái ngay được.
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời
kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt,
người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo
trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất
căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản
xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một
người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được
bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.
Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống
và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn
được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc
sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa
chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao
hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher
hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ
người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher
khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào?
Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có
một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
- Một
số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức
ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà.
Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy
ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
- Ăn
các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt
như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
- Ăn
các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con
cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các
loài bò sát, côn trùng.
- Các
thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật
ong, rượu vang, chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
- Chỉ
uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò,
dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng
thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ
chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
- Lúa
mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước
trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3
tuổi.
- Không
ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và
không ăn thịt, cá đồng thời.
- Khi
ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật
sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết.
Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi
chế biến để ra hết máu,
- Các
nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu
nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu
vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc
nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống.
Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng
thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn
kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA
HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói
chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được
“phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và
quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
- Theo
người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con
vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều
bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên
thiên đàng.
- Khi
con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi.
Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay
gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở
nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
- Thịt
ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau.
Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ
thể.
- Uống
sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm,
lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp
thụ nổi và dễ sinh bệnh.
- Trong
điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông,
việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc
nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn
người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn
Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà
còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua
ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt,
ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không
tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo
Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết”
càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát
triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ
trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi
ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời
răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều
sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm
thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái
không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với
dân tộc Do Thái!
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết
tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến
công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của
cơ quan nơi tác giả công tác.
Nguồn:http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/