Hải Âu dịch và giới thiệu
I.
Một vài nét khái quát hoạt động
của trí thức Nhật Bản giữa thế kỷ 19 – Minh Lục Xã và phong trào khai
sáng ở Nhật Bản
Tinh thần Đông Kinh Nghĩa Thục mà các tiền
bối của chúng ta đưa vào Việt Nam chính là từ Fukuzawa và các cộng sự từ
Đại học Keio Tokyo (Tokyo Keio Gijyuku Daigaku = Đông Kinh Khánh Ứng
Nghĩa Thục Đại Học). Đây chính là tinh thần khai sáng, truyền bá văn minh,
được bao gồm trong các tác phẩm của Fukuzawa:
Khuyến học
Văn Minh Khái Lược Chi Luận
Dân gian kinh tế luận
Thông tục dân quyền luận
Sự ra đời của Meirokusha (Minh Lục Xã, hội những người khai sáng/trí thức Nhật sáu năm kể từ năm Minh Trị thứ nhất 1868, tức là hội được thành lập năm 1874). Mục đích chính của hội Meirokusha là truyền bá văn minh và khai sáng, giới thiệu nền văn minh phương tây vào Nhật Bản từ những người trí thức Nhật đã từng đi nước ngoài hoặc du học nước ngoài. Hội có trên 10 thành viên sáng lập. Sau khi hội được thành lập đã tổ chức những cuộc họp và những buổi hội thảo, kết quả là nội dung cuộc họp và thảo luận được ghi lại thành tuyển tập Tạp chí Meiroku (Meiroku Zasshi). Tạp chí Meirokusha ra đời và tồn tại trong thời gian 2 năm và sau đó bị đóng cửa bởi Quy định xuất bản và Luật phỉ báng của Nhật năm 1875 (Press Ordinance and the Libel Law in 1875). Tuy nhiên sau khi tạp chí ngưng xuất bản, hội Meirokusha còn hoạt động cho đến năm 1900. Vai trò củaMeirokusha có thể đi xa hơn nếu Nhật Bản có luật báo chí cởi mở hơn và tạp chí Meiroku Zasshi có thể tồn tại lâu hơn.
Khuyến học
Văn Minh Khái Lược Chi Luận
Dân gian kinh tế luận
Thông tục dân quyền luận
Sự ra đời của Meirokusha (Minh Lục Xã, hội những người khai sáng/trí thức Nhật sáu năm kể từ năm Minh Trị thứ nhất 1868, tức là hội được thành lập năm 1874). Mục đích chính của hội Meirokusha là truyền bá văn minh và khai sáng, giới thiệu nền văn minh phương tây vào Nhật Bản từ những người trí thức Nhật đã từng đi nước ngoài hoặc du học nước ngoài. Hội có trên 10 thành viên sáng lập. Sau khi hội được thành lập đã tổ chức những cuộc họp và những buổi hội thảo, kết quả là nội dung cuộc họp và thảo luận được ghi lại thành tuyển tập Tạp chí Meiroku (Meiroku Zasshi). Tạp chí Meirokusha ra đời và tồn tại trong thời gian 2 năm và sau đó bị đóng cửa bởi Quy định xuất bản và Luật phỉ báng của Nhật năm 1875 (Press Ordinance and the Libel Law in 1875). Tuy nhiên sau khi tạp chí ngưng xuất bản, hội Meirokusha còn hoạt động cho đến năm 1900. Vai trò củaMeirokusha có thể đi xa hơn nếu Nhật Bản có luật báo chí cởi mở hơn và tạp chí Meiroku Zasshi có thể tồn tại lâu hơn.
Lời phát biểu cho sự ra đời tạp chí “Meiroku
Zasshi” của nhóm Meirokusha “Chúng ta những người cùng chí hướng
tập trung lại trong thời gian gần đây thi thoảng thảo luận lý do và
thi thoảng thuyết trình về tin tức ngoại quốc. Một mặt chúng ta đang mài
rũa trí tuệ học vấn mặt khác chúng ta đang rèn luyện trí óc. Việc
ghi lại những thảo luận này được gộp lại thành một tuyển tập (tạp
chí) chúng ta sẽ in ra và phân phát cho những người có cùng quan tâm. Chúng ta
sẽ thấy hạnh phúc nếu như tuyển tập tạp chí dù nhỏ bé này góp phần đẩy mạnh
được sự khai sáng trong nhân dân chúng ta.”
Càng tìm hiểu về Nhật Bản càng thấy sự khác biệt
rất lớn giữa trí thức Nhật và trí thức Việt Nam. Những vấn đề mà trí thức
Nhật Bản trao đổi thời gian đầu thời kỳ Meiji được tóm tắt trong 43 số
của Tạp chí Meiroku (Meiroku Zasshi) – Tạp chí khai sáng Nhật Bản. Tôi cho
rằng sự phát triển Nhật Bản là sự đồng thuận của chính phủ Nhật Bản và trí
thức Nhật Bản.
So với nước ta, chúng ta mất/thiếu sự đồng thuận
giữa quan chức chính phủ và trí thức cho nên mấy ngàn năm nay chưa có
được sự phát triển vượt trội so với các nước trong khu vực, chiến tranh liên
miên chống ngoại xâm, nội chuyến liên miên… rồi từ sau 1975 cho đến tận bây giờ
lòng người Việt Nam còn ly tán, chưa có được cuộc hòa giải dân tộc,
cho nên Việt Nam khó có thể phát triển mạnh trở thành con rồng
Châu Á được. Việt Nam chỉ cần làm sao đuổi kịp và vượt một số nước
như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và China đã là một kỳ tích.
Những nét đại cương chính trong sự phát triển
của Nhật Bản thế kỷ 19: tiếp thu làn sóng văn minh và khai sáng phương
tây, thay đổi tư duy từ đóng cửa sang mở cửa đất nước, cải
cách giáo dục, tiếp thu khoa học kỹ thuật phương tây, cải cách chính trị và hệ
thống luật pháp, phát triển hải quân và kinh tế biển, tăng cường vai trò phát
triển kinh tế tư nhân và vai trò của phụ nữ. Vai trò của trí thức
Nhật Bản và giai cấp lãnh đạo đồng hành với nhau.
Sự tiếp thu văn minh phương tây và làn sóng khai
sáng của trí thức Nhật trong thế kỷ 19 được Fukuzawa Yukichi thể hiện qua
tác phẩm “Khái quát lý thuyết văn minh” của mình là tri thức quan
trọng hơn đạo đức, đạo đức công (tinh thần vì quốc gia) quan trọng hơn đạo
đức riêng, tri thức công (dân trí, thước đo mặt bằng tri thức
của quốc gia tức là của nhiều người trong một nước) quan trọng
hơn tri thức riêng (tri thức của cá nhân dù có cao siêu nhưng thiếu
sức mạnh cho sự phát triển quốc gia). Nghĩa là sự phát triển của đất
nước được dựa trên tinh thần đại đoàn kết, tập thể vì lợi ích quốc gia,
trong việc tiếp thu văn minh, khai sáng và truyền bá văn minh trong dân chúng
của cả trí thức và lãnh đạo, có thể ví như tinh thần “một cây làm chẳng
nên non, ba cây chụm lại lên hòn núi cao” trong mọi lĩnh vực.
Những gì về văn minh phương tây mà Fukuzawa
Yukichi nhận được từ những người Âu Mỹ thể hiện trong nhận xét của ông
(1875) khi so sánh với những gì của Nhật có:
“Sau khi Perry đến và chính quyền Tokugawa
ký hiệp định với các cường quốc người ta quan sát sự sắp xếp của chính phủ
và nhận thấy lần đầu tiên sự sắp xếp đó mới ngu xuẩn và yếu kém nhường nào.
Cũng khi tiếp xúc với người nước ngoài, lắng nghe họ nói, đọc các sách phương
Tây và dịch sách mới thấy kiến thức rộng mênh mông nhường nào, lúc đó người ta
[người Nhật] mới nhận thấy rằng ngay cả chính phủ “ma quỷ hay thánh thần” gì
nữa cũng có thể bị sụp đổ bởi nỗ lực của loài người. Có lẽ đó là lúc
mà người điếc và người mù mới vểnh tai và mắt lên để có thể nghe và nhận thấy
những âm thanh và màu sắc… Cuộc tiếp xúc với người phương Tây lần đầu tiên
trong lịch sử [Nhật Bản], và đó là những gì ví như người Nhật bước ra từ trong
sự câm lặng tăm tối của đêm đen sâu thẳm vào một trạng thái vui mừng
reo hò dưới ánh sáng chói lòa của một ngày đẹp trời. Những gì mà
họ [người Nhật] nhìn thấy hoàn toàn khác lạ và không giống với những
gì trong tiềm thức của họ [người Nhật].” (Theo bản dịch của Albert M.
Craig, Civilization and Enlightenment – The Early Thought of Fukuzawa Yukichi).
II.
Thoát Á Luận
Fukuzawa Yukichi
Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để
làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ
cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này. Thử nghĩ mà xem, những người
phương Tây từ thời cổ kim đến nay đều có cùng dòng dõi giống nhau và họ không
khác nhau nhiều lắm. Nếu ngày xưa họ chậm chạp thì ngày nay họ di chuyển hoạt
bát và nhanh chóng hơn chính là vì họ lợi dụng được thế mạnh của phương tiện
giao thông đó mà thôi. Đối với chúng ta, những người sống ở phương Đông, trừ
khi chúng ta có quyết tâm vững chắc muốn chống lại xu thế văn minh phương Tây
thì chúng ta mới có thể chống đỡ được, còn nếu không tốt nhất là chúng ta hãy
cùng chia sẻ chung số mệnh với nền văn minh ấy. Nếu chúng ta quan sát kĩ lưỡng
tình hình thế giới hiện nay, chúng ta sẽ nhận thấy được rằng chúng ta không thể
nào chống lại được sự tấn công dữ dội của nền văn minh ấy. Vậy tại sao chúng ta
không cùng nhau bơi nổi trên biển văn minh ấy, cùng nhau tạo ra một làn sóng
văn minh ấy, cùng nhau nỗ lực xây dựng và hưởng lạc những thành quả của nền văn
minh ấy?
Làn gió văn minh như là sự lan truyền của dịch
bệnh sởi. Hiện giờ dịch bệnh sởi khởi phát từ vùng miền tây ở Nagasaki đang lan
truyền về phía đông tới vùng Tokyô nhờ tiết trời ấm áp của mùa xuân. Thời điểm
này chúng ta sợ sự lan truyền của dịch bệnh này thì phải tìm phương thuốc,
nhưng liệu có phương thuốc nào có thể ngăn chặn sự lây lan này không? Tôi có
thể chứng minh rằng chúng ta không có một phương thuốc nào ngăn chặn được dịch
bệnh cả. Cho dù chúng ta có ngăn chặn được dịch bệnh có thể lây lan này thì hậu
quả là con người chúng ta sẽ chỉ có hư hỏng mà thôi. Trong nền văn minh ấy có
cả lợi lẫn hại song song, nhưng lợi luôn nhiều hơn hại, sức mạnh của những điều
lợi đó không gì có thể ngăn cản được. Đó chính là điểm mà tôi muốn nói rằng
chúng ta không nên tìm cách ngăn cản lại sự lan truyền của nền văn minh ấy. Là
những người trí thức, chúng ta hãy góp sức giúp cho sự lan truyền của làn sóng
văn minh đó tới toàn dân trong nước để họ thấy được và làm quen với nền văn
minh ấy càng sớm càng tốt. Làm được như vậy chính là sự nghiệp của những người
trí thức.
Nền văn minh phương Tây đang xâm nhập vào Nhật
Bản và có thể tính bắt đầu từ chính sách mở cửa của nước nhà vào thời Gia Vĩnh
(Kaei, 1848-1854). Người dân trong nước bắt đầu biết đến những giá trị hữu ích
của nền văn minh ấy, và đang dần dần tích cực hướng tới tiếp nhận nền văn minh
ấy. Nhưng con đường tiến bộ tiếp cận nền văn minh đang bị cản trở bởi chính phủ
già nua lỗi thời. Cho nên đó là vấn đề không thể giải quyết được. Nếu chúng ta
duy trì chính phủ hiện nay thì nền văn minh chắc chắn không thể xâm nhập vào
được. Đó là vì nền văn minh hiện đại không thể song song tồn tại được cùng với
những truyền thống Nhật Bản. Nếu chúng ta tìm cách thoát ra khỏi những truyền
thống cũ kĩ đó thì đồng nghĩa với việc phải hủy bỏ chính phủ đương thời đi. Thế
thì đương nhiên nếu chúng ta ngăn cản lại nền văn minh đang xâm nhập vào Nhật
Bản thì chúng ta không thể giữ gìn được nền độc lập của chúng ta. Dù thế nào đi
chăng nữa thì sự náo động mãnh liệt của nền văn minh thế giới không cho phép
vùng Đảo Đông Á cứ tiếp tục ngủ trong sự cô độc nữa.
Trong thời điểm hiện nay, những sĩ phu Nhật Bản
chúng ta hãy dựa trên cơ sở đại nghĩa “coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính
phủ”, thêm nữa chúng ta có cơ may được dựa trên thánh chỉ tôn nghiêm của Thiên
Hoàng, nhất định chúng ta phải từ bỏ chính phủ cũ, thành lập chính phủ mới,
không phân biệt quan lại triều đình và thần dân, toàn dân trong nước tiếp thu
nền văn minh hiện đại phương Tây. Nếu chúng ta làm được như vậy, chúng ta không
những có thể thoát ra khỏi sự trì trệ lạc hậu cũ kĩ của nước Nhật Bản mà còn có
thể đặt lại được một trật tự mới trên toàn Châu Á. Chủ trương của tôi chỉ gói
gọn trong hai chữ “Thoát Á”.
Nước Nhật Bản chúng ta nằm tại miền cực đông Châu
Á, giá như chúng ta có tinh thần dân tộc thoát ra khỏi những thói quen cổ hủ
của Châu Á mà tiếp cận tới nền văn minh phương Tây thì chúng ta đã có thể hoà
nhập với nền văn minh phương Tây rồi. Tuy nhiên, thật không may cho Nhật Bản
chúng ta, bên cạnh nước chúng ta có hai nước láng giềng, một nước gọi là Chi Na
(Trung Quốc), một nước gọi là Triều Tiên. Cả hai dân tộc của hai nước này giống
như dân tộc Nhật Bản chúng ta đều được nuôi dưỡng theo phong tục tập quán, tinh
thần và nền giáo dục chính trị kiểu Châu Á cổ lai hi. Tuy nhiên, có lẽ do nhân
chủng khác nhau, hoặc do quá trình di truyền khác nhau, hoặc do nền giáo dục
khác nhau nên có sự khác biệt đáng kể giữa ba dân tộc. Dân tộc Trung Quốc và
Triều Tiên giống nhau nhiều hơn và không có nhiều điểm giống với dân tộc Nhật
Bản. Cả hai dân tộc này đều không biết đường lối phát triển quốc gia tự lập.
Ngày nay trong thời đại phương tiện giao thông
tiện lợi, cả hai dân tộc không thể không nhìn thấy được sự hiện hữu của nền văn
minh phương Tây. Nhưng họ lại cho rằng những điều mắt thấy tai nghe về nền văn
minh phương Tây như vậy cũng không làm họ động tâm động não. Suốt hàng nghìn
năm họ không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ
bảo thủ. Giữa thời buổi văn minh mới mẻ và đầy khí thế ngày nay mà khi bàn luận
về giáo dục thì họ thường lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học (Hán học), bàn
về giáo lý của trường học thì họ chỉ trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí”, và chỉ phô trương coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo, thực
chất họ coi thường chân lí và nguyên tắc, còn đạo đức thì hung hăng tàn bạo và
vô liêm xỉ không lời nào tả xiết, đã vậy họ lại còn kiêu căng tự phụ.
Theo đánh giá của tôi, trong tình hình lan truyền
mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây sang phương Đông như hiện nay, hai nước ấy
không thể giữ gìn được nền độc lập. Nếu trong hai nước ấy, xuất hiện những nhân
tài kiệt xuất mở đầu bằng công cuộc khai quốc, tiến hành cuộc đại cải cách
chính phủ của họ theo quy mô như phong trào Duy Tân (Minh Trị Duy Tân) của
chúng ta, rồi cải cách chính trị, đặc biệt là tiến hành các hoạt động đổi mới
nhân tâm và cách suy nghĩ thì may ra họ mới giữ vững được nền độc lập, còn nếu
không làm được như vậy thì chắc chắn chỉ trong vòng vài năm tới hai nước sẽ mất,
đất đai của các hai nước ấy sẽ bị phân chia thành thuộc địa của các nước văn
minh khác trên thế giới. Vậy lý do tại sao? Đơn giản thôi, vì tại thời điểm mà
sự lan truyền của nền văn minh và phong trào khai sáng (bunmei kaika) giống như
sự lan truyền bệnh sởi, hai nước Trung Quốc và Triều Tiên đã chống lại quy luật
lan truyền tự nhiên ấy của nền văn minh. Họ quyết liệt tìm cách chống lại sự
lan truyền nền văn minh ấy ví như họ tự đóng chặt cửa sống trong phòng khép kín
không có không khí lưu thông thì sẽ bị chết ngạt.
Tục ngữ có câu “môi hở răng lạnh”, nghĩa là các
nước láng giềng không thể tách rời được nhau và giúp đỡ lẫn nhau, nhưng hai
nước Trung Quốc và Triều Tiên trong thời điểm hiện nay không đóng vai trò giúp
đỡ một chút nào cho nước Nhật chúng ta cả. Dưới nhãn quan của người phương Tây
văn minh, họ nhìn vào những gì có ở hai nước Trung Quốc và Triều Tiên thì sẽ
đánh giá nước Nhật chúng ta cũng giống hai nước ấy, có nghĩa là họ đánh giá ba
nước Trung Hàn Nhật giống nhau vì ba nước cùng chung biên giới. Lấy ví dụ,
chính phủ Trung Quốc và Triều Tiên chuyên chế cổ phong và không có hệ thống
pháp luật nên người phương Tây cũng nghĩ rằng Nhật Bản chúng ta cũng là một
nước chuyên chế và không có luật pháp. Các sĩ phu hai nước Trung Quốc và Triều
Tiên mê tín hủ lậu không biết đến khoa học là gì thì học giả phương Tây nghĩ
Nhật Bản chúng ta cũng chỉ là một nước âm dương ngũ hành. Nếu người Trung Quốc
hèn hạ không biết xấu hổ thì nghĩa hiệp của người Nhật cũng bị hiểu nhầm. Nếu ở
Triều Tiên có hình phạt thảm khốc thì người Nhật cũng bị người phương Tây coi
là không có lòng nhân ái.
Chúng ta có thể nêu ra biết bao nhiêu ví dụ cũng
không hết được. Lấy những ví dụ này, tôi ví trường hợp nước Nhật Bản bên cạnh
các nước Trung Quốc và Triều Tiên không khác gì trường hợp trong một làng có
một người sống bên cạnh toàn những người ngu đần, vô trật tự, hung bạo và nhẫn
tâm thì dù người đó có là người đúng đắn lương thiện đến đâu đi chăng nữa cũng
bị nhiều người khác cho rằng là “cá mè một lứa”, cũng chẳng khác gì những người
hàng xóm. Khi những vụ việc rắc rối này sinh sôi nảy nở có thể gây ảnh hưởng
trở ngại lớn tới con đường ngoại giao của chúng ta. Thực tế này là một đại bất
hạnh cho nước Nhật Bản!
Vì vậy, nhằm thực hiện sách lược của chúng ta thì
chúng ta không còn thời gian chờ đợi sự khai sáng (enlightenment, bunmei
kaika) của các nước láng giềng Châu Á để cùng nhau phát triển được mà tốt
hơn hết chúng ta hãy tách ra khỏi hàng ngũ các nước Châu Á, đuổi kịp và đứng
vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây. Chúng ta không có tình cảm đối xử
đặc biệt gì với hai nước láng giềng Trung Quốc và Triều Tiên cả, chúng ta hãy
đối xử với hai nước như thái độ của người phương Tây đối xử. Tục ngữ có câu
“gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nghĩa là nếu chúng ta chơi với những người
bạn xấu, thì chúng ta cũng trở thành người xấu. Đơn giản là chúng ta đoạn tuyệt
kết giao với những người bạn xấu ở Châu Á!
Bản dịch sửa xong ngày 04/10/2005
Tài liệu tham khảo:
Bản tiếng Nhật: http://www.chukai.ne.jp/~masago/datuaron.html
Bản tiếng Nhật của Đại học
Keio:http://www.jca.apc.org/kyoukasyo_saiban/datua2.html
Bản dịch tiếng Anh: David Lu, ed., Japan: A
Documentary History (Amonk, New York: M.E. Sharpe, 1997), pp.351 353.http://www2.chass.ncsu.edu/ambaras/hi233/Readings/Fukuzawa1885.htm
Nguồn: hocthenao.vn