Chủ nghĩa bảo thủ mới ở
Hoa Kỳ được khởi nguồn từ một số trí thức Do Thái đã gia nhập nhóm Đại học
Thành phố New York (C.C.N.Y) vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ
trước. Đến những năm 90, nó được tiếp sức bởi một số dòng học thuật khác, như
nhóm của L.Strauss, nhóm của A. Wohlstetter… Chủ nghĩa bảo thủ mới đã làm cho quan
hệ giữa Hoa Kỳ và thế giới có sự thay đổi và ngày càng phức tạp hơn. Theo tác
giả, đã đến lúc chủ nghĩa bảo thủ mới phải bị vượt qua và Hoa Kỳ cần hoạch định
lại chính sách ngoại giao của mình theo nhiều đường hướng cơ bản; phải chuyển
sự chú ý sang việc cải tổ, tái cơ cấu và đầu tư một cách chính xác cho những
thiết chế của Chính phủ Hoa Kỳ.
Khi chúng ta tiến tới kỷ
niệm lần thứ ba cuộc tấn công vào Irắc, dường như không phải là lịch sử sẽ phán
xét bản thân sự can sự thiệp cũng như những ý tưởng cổ vũ cho sự can thiệp đó
một cách thiện ý. Bằng việc xâm lược Irắc, chính quyền Bush đã tiên đoán đầy đủ
về chính nó: giờ đây, thay cho Ápganixtan, Irắc trở thành một lực hấp dẫn, một
cơ sở huấn luyện và một căn cứ tác chiến của bọn khủng bố Hồi giáo với rất
nhiều mục tiêu để nhắm bắn là người Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vẫn có cơ hội tạo dựng một
Irắc dân chủ do người Shiite điều hành, nhưng chính quyền mới sẽ rất non nớt
trong nhiều năm; hậu quả là khoảng trống quyền lực đó sẽ thu hút những thế lực
bên ngoài từ các nước láng giềng của Irắc, kể cả Iran. Với nhân dân Irắc, việc
loại trừ chế độ độc tài của Saddam Hussein rõ ràng có lợi cho họ, và có lẽ
những tín hiệu tích cực cũng tác động tới cả Libăng và Syria. Song, thật khó để
đánh giá bản thân những tiến triển này sẽ biện hộ như thế nào cho máu và của
cải mà Hoa Kỳ đã phải trả giá cho dự án này tới lúc đó. Cái gọi là học
thuyết Bush, đã tạo cơ sở cho chính quyền đó trong nhiệm kỳ thứ nhất, giờ đây
đang lung lay. Học thuyết đó (đã được trình bày tỉ mỉ ở nhiều chỗ khác, trong
Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ năm 2002) lập luận rằng, sau sự thức tỉnh
bởi các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, nước này sẽ phải dấn thân vào những cuộc
chiến ngăn chặn có kỳ hạn để tự vệ chống lại những nhà nước ma quỷ và bọn khủng
bố với vũ khí huỷ diệt hàng loạt (W.M.D.); rằng, nếu cần, một mình Hoa Kỳ sẽ
làm việc đó; sẽ hành động để dân chủ hoá hơn vùng Trung Đông như một giải pháp
lâu dài cho vấn đề khủng bố. Tuy nhiên, muốn thành công, việc “ngăn ngừa trước”
phải phụ thuộc vào khả năng dự báo chính xác và tin tức tình báo đúng đắn,
nhưng điều này lại chưa sẵn sàng; trong khi đó, thuyết đơn phương của Hoa Kỳ đã
cô lập nó hơn bao giờ hết. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trong nhiệm kỳ thứ
hai, chính quyền Bush đang tự mình tách khỏi những chính sách này và đang trong
quá trình soạn thảo lại văn kiện chiến lược an ninh quốc gia.
Song, chính cái nỗ lực
duy tâm muốn sử dụng sức mạnh kiểu Hoa Kỳ hòng thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở
khắp nơi là điều có thể gây nên sự tụt hậu lớn nhất. Chính thất bại mà Hoa Kỳ
phải gánh chịu ở Irắc đã làm phục hồi thẩm quyền của chính sách ngoại giao “duy
thực”[1] trong truyền thống của H.Kítxingiơ.
Đã có một loạt sách và bài báo công khai chỉ trích chủ nghĩa Uynxơn của Hoa Kỳ
là khờ khạo và công kích ý đồ cố gắng dân chủ hoá thế giới. Những nỗ lực trong
nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền này nhằm thúc đẩy nền dân chủ rộng rãi hơn ở
Trung Đông, được giới thiệu trong diễn văn nhậm chức lần thứ hai với những lời
hùng biện bay bổng của Bush, đã gây ra những hậu quả đáng tranh cãi. Hồi tháng
11 và 12, Hội Ái hữu những người Hồi giáo đã làm nên một bằng chứng hùng hồn
trong cuộc bầu cử quốc hội ở Ai Cập[2]. Trong
khi việc tiến hành các cuộc bầu cử ở Irắc vào tháng 12 vừa qua, tự thân chúng
đã là một thành công thì số phiếu bầu lại dẫn đến uy thế của cộng đồng người
Shiite có quan hệ gần gũi với Iran (tiếp sau cuộc bầu chọn ông M.Ahmadinejad,
một người theo phái bảo thủ, làm tổng thống Iran hồi tháng 6). Song, điều đáng
nói nhất chính là thắng lợi có ý nghĩa quyết định của nhóm Hamas trong cuộc bầu
cử của người Palétxtin tháng trước đã đem lại sức mạnh cho một phong trào công
khai hiến mình trong việc diệt trừ Ixraen. Trong lễ nhậm chức lần thứ hai của
mình, ông Bush đã nói: “Giờ đây, những lợi ích sống còn của Hoa Kỳ và những
niềm tin sâu sắc nhất của chúng ta là một”. Nhưng, ngày càng có nhiều lời buộc
tội rằng, chính quyền Bush đã mắc sai lầm lớn khi khuấy động cái ao tù; rằng,
Hoa Kỳ lẽ ra phải làm tốt hơn để gắn kết với những người bạn độc tài truyền
thống ở Trung Đông. Quả thực, cái nỗ lực thúc đẩy dân chủ trên toàn thế
giới ấy đã bị chỉ trích là một hành động bất hợp pháp bởi cả người cánh tả, như
J.Sachs, lẫn người bảo thủ truyền thống, như P.Buchanan.
Phản ứng chống lại việc
tăng cường dân chủ và chính sách ngoại giao chủ động có lẽ không dừng lại ở đó.
Những người mà W.R.Mead gọi là những người bảo thủ kiểu Jackson - tức là những
người Hoa Kỳ cực hữu, mà con cái họ đang chiến đấu và tử trận ở Trung Đông đã
ủng hộ cuộc chiến chống Irắc; bởi, họ tin rằng con cái mình đang chiến đấu để
bảo vệ Hoa Kỳ trước chủ nghĩa khủng bố hạt nhân, chứ không phải để tăng cường
dân chủ. Họ không muốn bỏ rơi tổng thống nửa chừng trong một cuộc chiến ác
nghiệt, nhưng rốt cuộc, sự thất bại được báo trước của cuộc can thiệp vào Irắc
có thể đẩy họ đến chỗ chấp nhận một chính sách ngoại giao biệt lập hơn, mà với
họ, đó là một quan điểm chính trị tự nhiên hơn. Một cuộc thăm dò mới đây cho
thấy trong công luận có xu hướng nghiêng về chủ nghĩa biệt lập; tỉ lệ người Hoa
Kỳ cho rằng nước này “trước hết nên lo cho chính mình” chưa bao giờ cao hơn
thế, kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Hơn bất cứ nhóm nào
khác, chính những người bảo thủ mới, cả trong lẫn ngoài chính quyền Bush, đã
đẩy mạnh việc dân chủ hoá Irắc và làm rộng thêm vấn đề Trung Đông. Họ được thừa
nhận (hay bị buộc tội) một cách rộng rãi là có những tiếng nói quyết định thúc
đẩy sự thay đổi chế độ ở Irắc. Tuy nhiên, trong những năm tháng sắp tới, chính
chương trình nghị sự duy tâm ấy của họ sẽ bị đe doạ trực tiếp nhất. (…).
Di
sản của chủ nghĩa bảo thủ mới
Làm thế nào mà những
người bảo thủ mới đã theo đuổi những đích quá xa, tới mức mạo hiểm huỷ cả những
mục đích của chính họ? Chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ thứ nhất của chính
quyền Bush đã không xuất phát từ quan điểm của những thế hệ đi trước, những
người tự coi mình là bảo thủ mới, bởi vì bản thân những quan điểm ấy rất phức
tạp và là chủ đề cho những cách giải thích khác nhau. Kể từ khi kết thúc chiến
tranh lạnh, có bốn nguyên tắc hay đường hướng xuyên suốt quan điểm này: sự quan
tâm đến dân chủ, nhân quyền và một cách chung hơn, đến đời sống chính trị nội
bộ của các quốc gia; một niềm tin rằng sức mạnh Hoa Kỳ có thể được sử dụng cho
những mục đích đạo đức; một quan điểm hoài nghi đối với khả năng của luật pháp
và những thiết chế quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề an ninh nghiêm
trọng; và cuối cùng là quan điểm cho rằng, chương trình xã hội đầy tham vọng sẽ
dẫn đến những hậu quả không mong muốn, do đó sẽ phá huỷ những mục đích của
chính nó.
Vấn đề là ở chỗ, hai
trong số những nguyên tắc đó chứa đựng sự xung đột tiềm tàng. Thái độ hoài nghi
đối với chương trình xã hội đầy tham vọng – những năm trước đây chương trình
như vậy phần lớn được áp dụng cho những chính sách đối nội – đã nêu ra cách
tiếp cận thận trọng đối với việc tái thiết thế giới và một nhận thức rằng những
sáng kiến đầy tham vọng luôn dẫn đến những hậu quả không lường trước được. Mặt
khác, niềm tin vào tiềm năng đạo đức của sức mạnh Hoa Kỳ lại hàm ý rằng chủ
nghĩa tích cực kiểu Hoa Kỳ có thể định hình lại cơ cấu chính trị toàn cầu. Vào
thời điểm diễn ra chiến tranh Irắc, niềm tin vào việc sử dụng cái sức mạnh cải
biến ấy đã vượt qua được những hoài nghi đối với chương trình xã hội.
Ngẫm lại thì sự việc đã
không tiến triển theo cách đó. Nguồn gốc của chủ nghĩa bảo thủ mới nằm trong
một nhóm những trí thức Do Thái có tầm cỡ, những người đã gia nhập nhóm Đại học
Thành phố New York (C.C.N.Y) hồi nửa cuối những năm 30 và đầu những năm 40.
Nhóm này gồm I.Kristol, D.Bell, I.Howe, N.Glazer và muộn hơn là D.P.Moynihan.
Lịch sử của nhóm này đã từng được nhắc đến trong một số tài liệu, đáng chú ý
nhất là trong bộ phim tài liệu của J.Dorman có tên là “Luận bàn về thế giới”.
Di sản quan trọng nhất của C.C.N.Y là một niềm tin duy tâm vào tiến bộ xã hội,
vào tính phổ quát của quyền lợi cùng với chủ nghĩa chống cộng mãnh liệt.
Không phải ngẫu nhiên mà
nhiều người trong C.C.N.Y đã xuất phát từ quan điểm Trốtxkit. (…). Trái với
cánh hữu truyền thống của Hoa Kỳ, những người cánh tả chống cộng đã từng có
thiện cảm với các mục tiêu kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản. (…). Trong
khi không phải tất cả các nhà tư tưởng của C.C.N.Y đều trở thành các nhà bảo
thủ mới thì vấn đề nguy cơ của những mục đích đúng đắn bị đẩy đến cực đoan
chính là chủ đề cho sự nghiệp của nhiều thành viên trong nhóm này.
Nếu như có một chủ đề
duy nhất bao quát toàn bộ những phê phán đối với chính sách xã hội đối nội,
được đưa ra bởi những người viết cho tạp chí Lợi ích cộng đồng của
phái bảo thủ mới, do I.Kritol, N.Glazer và D.Bell sáng lập năm 1965, thì đó là
vấn đề những hạn chế của chương trình xã hội. Các tác giả, như Glazer, Moynihan
và sau này là G.Loury, cho rằng những nỗ lực đầy tham vọng muốn tìm kiếm công
bằng xã hội thường khiến cho các xã hội tồi tệ hơn trước đó; bởi vì, chúng đòi
hỏi hoặc là sự can thiệp nhà nước với quy mô lớn làm đảo lộn những quan hệ xã
hội có từ trước hoặc sẽ sinh ra những hậu quả không lường trước được (chẳng
hạn, sự gia tăng những gia đình chỉ có cha, hoặc mẹ là hậu quả của vấn đề phúc
lợi). Chủ đề chính xuyên suốt những tác phẩm bao quát của J.Q.Wilson khi bàn về
tội phạm là tư tưởng cho rằng, không thể giảm tỉ lệ tội phạm bằng cách cố gắng
giải quyết những vấn đề ẩn sâu như đói nghèo và phân biệt chủng tộc; các chính
sách xã hội hiệu quả cần tập trung vào những biện pháp ngắn hạn ngay khi có
những triệu chứng của sự bức bách xã hội (như việc xuất hiện các hình vẽ
grafitô ở đường xe điện ngầm hay nạn ăn xin) hơn là giải quyết căn nguyên.
Vậy, làm thế nào mà một
nhóm có dòng dõi như vậy lại đi đến kết luận rằng, “nguyên nhân sâu xa” của chủ
nghĩa khủng bố nằm trong tình trạng thiếu dân chủ ở Trung Đông; rằng, Hoa Kỳ có
cả sự khôn ngoan lẫn năng lực giải quyết vấn đề này; rằng, dân chủ sẽ đến với
Irắc một cách nhanh chóng và không đau đớn? Những người bảo thủ mới lẽ ra đã
không tiến tới bước ngoặt này nếu không có sự kiện cuộc chiến tranh lạnh đã kết
thúc một cách khác thường. R.Rigân đã bị những kẻ thạo đời cánh tả ở Hoa Kỳ và
châu Âu chế nhạo về việc gọi Liên bang Xôviết và những đồng minh của nó là “đế
chế tội ác”, cũng như việc buộc M.Gorbachev không chỉ cải tổ hệ thống của ông
ta, mà còn “làm cho thành trì đó sụp đổ”. R.Perle, trợ lý của Rigân về vấn đề
chính sách an ninh quốc tế, đã bị lên án như là “vua bóng tối” vì quan
điểm không khoan nhượng; đề xuất của ông ta về “hai không” trong các cuộc đàm
phán về vũ khí hạt nhân tầm trung (tức là giải trừ toàn bộ những tên lửa tầm
trung) đã bị các chuyên gia chính sách ngoại giao ôn hoà thuộc Ủy ban Quan hệ
quốc tế và Bộ Ngoại giao chỉ trích là không khả thi. Chính nhóm này đã cho
rằng, những người theo chủ trương của Reagan mắc chứng không tưởng nghiêm trọng
khi hy vọng vào thắng lợi thực sự, khi phản đối sự kiềm chế, trong chiến tranh
lạnh.
Tuy thế, thắng lợi tuyệt
đối trong chiến tranh lạnh thực sự đã diễn ra trong những năm 1989 – 1991.
Gorbachev không những đã chấp nhận “hai không”, mà còn chấp nhận cả việc cắt
giảm mạnh các lực lượng thông thường và đã không ngăn chặn được Ba Lan,
Hunggary và Đông Đức ly khai khỏi đế chế. Cùng với sự thay đổi chế độ ở Đông Âu
cũng như Liên bang Xôviết cũ, Hiệp ước Vácsava, mối đe doạ đối với phương Tây,
cũng tiêu tan.
Cái cách mà chiến tranh
lạnh kết thúc đã định hình tư duy của những người ủng hộ chiến tranh Irắc, bao
gồm những người bảo thủ trẻ tuổi như W.Kristol và R.Kagan theo hai kiểu. Trước
hết, dường như nó đã tạo nên được một điều mong đợi là tất cả những chế độ
chuyên chế đều trống rỗng từ nhân lõi và sẽ sụp đổ chỉ bằng một cú hích nhẹ từ
bên ngoài. Kiểu mẫu cho trường hợp này là Rumani dưới chế độ Ceausescus: một
khi mụ phù thuỷ xấu xa chết đi, các chú tí hon sẽ thức dậy và bắt đầu hát lên
một cách vui vẻ vì được giải phóng. Trong cuốn Những nguy cơ hiện tại xuất
bản năm 2000, Kristol và Kagan viết: “Đối với nhiều người thì tư tưởng về việc
Hoa Kỳ sử dụng sức mạnh của mình để thúc đẩy những thay đổi chế độ ở các quốc
gia bị điều khiển bởi nhóm những kẻ độc tài theo chủ nghĩa không tưởng. Song
trên thực tế, rõ ràng đó là kiểu của chủ nghĩa hiện thực. Có điều gì đó quá
đáng trong tuyên bố về tính bất khả thi của việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi
dân chủ ở khắp nơi khi như những gì đã xảy ra trong ba thập kỷ vừa qua”.
Chủ nghĩa lạc quan thái
quá về thời quá độ từ hậu chiến sang dân chủ này giúp ta lý giải sự thất bại
khó hiểu của chính quyền Bush trong việc giải quyết một cách thoả đáng tình
trạng nổi loạn thường xuyên ở Irắc. Những người ủng hộ chiến tranh dường như đã
nghĩ rằng, dân chủ là một loại điều kiện mặc định mà các xã hội sẽ quay trở lại
khi xẩy ra những đổ vỡ nặng nề do thay đổi chế độ, chứ không hẳn là một quá
trình cải cách và xây dựng thể chế lâu dài. Giờ đây, họ quả quyết là đã biết
trước sự chuyển hoá dân chủ của Irắc sẽ còn lâu dài và khó khăn, nhưng rõ ràng
họ đã bị sửng sốt.
Vào những năm 90, chủ
nghĩa bảo thủ mới lại được tiếp sức bởi một số dòng học thuật khác. Một trong
số đó là nhóm sinh viên của L.Strauss, nhà lý luận chính trị người Đức gốc Do
Thái. Là một độc giả nghiêm túc của các giáo trình triết học, ông thường không
bộc lộ ý kiến về các vấn đề chính sách và đời sống chính trị đương thời. Thật
ra, L.Strauss chỉ quan tâm đến vấn đề “sự khủng hoảng của tính hiện đại”, được
đặt ra trong thuyết tương đối của Nítsê và Haiđơgơ, và vấn đề cả những tín điều
tôn giáo, lẫn những định kiến sâu sắc về bản chất của cuộc sống tốt đẹp đều
không thể bị loại bỏ khỏi đời sống chính trị, giống như hy vọng của các nhà tư
tưởng châu Âu thời Khai sáng. Một dòng khác khởi nguồn từ A.Whohlstetter, chiến
lược gia của tập đoàn Rand, từng là thầy của R.Perle, Z.Khalizad (đại sứ Hoa Kỳ
tại Irắc) và P.Wolfowitz (nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng), cùng một số người
khác. Wohlstetter đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển hạt nhân và kẽ hở đủ
rộng mà Hiệp ước hạn chế vũ khí huỷ diệt hàng loạt năm 1968 đã tạo ra, để những
nước như Irắc và Iran lách qua, nhằm ủng hộ năng lượng hạt nhân “hoà bình”.
Tôi có một số quan hệ
với các nhánh khác nhau của phong trào bảo thủ mới. Tôi đã từng là sinh viên
của A.Bloom, người bảo trợ của Strauss, đã viết cuốn sách Sự kết thúc
của tinh thần Hoa Kỳ ăn khách nhất, đã làm việc tại tập đoàn Rand cùng
với Wohlstetter về các vấn đề vịnh Pécxích và cũng đã hai lần làm việc với
Wolfowitz. Nhiều người hiểu cuốn Kết cục của lịch sử và con người cuối
cùng của tôi như là một tiểu luận mang tính bảo thủ mới, rằng nó ủng
hộ quan điểm cho là có một nỗi khao khát hướng đến tự do phổ biến trong tất cả
mọi người, nỗi khao khát đó sẽ dẫn họ một cách tất yếu tới dân chủ tự do; rằng,
chúng ta đang sống giữa một trào lưu xuyên quốc gia, ngày càng hướng mạnh mẽ
tới nền dân chủ tự do ấy. Đây là sự hiểu lầm về lập luận của tôi. Thật
ra, Kết cục của lịch sử là một luận chứng về hiện đại hoá. Cái
phổ quát ban đầu không phải là khao khát dân chủ tự do, mà là ước muốn sống
trong một xã hội hiện đại – tức là xã hội thịnh vượng và tiến bộ về công nghệ;
xã hội ấy, nếu được thoả mãn, sẽ hướng tới nhu cầu tham gia chính trị. Nền dân
chủ tự do chỉ là một trong những phụ phẩm của quá trình hiện đại hoá và sẽ trở
thành nguyện vọng phổ quát nhưng chỉ trong tiến trình lịch sử.
Nói cách khác, Kết
cục của lịch sử đưa ra một kiểu luận chứng mácxít cho sự tồn tại của
quá trình tiến hoá xã hội lâu dài, song đó là quá trình hoàn thành trong nền
dân chủ tự do. Với tư cách vừa là biểu tượng chính trị, vừa là một dòng tư
tưởng, chủ nghĩa bảo thủ mới đã tiến triển thành cái gì đó mà tôi không thể
tiếp tục ủng hộ. Chính quyền Bush và những người ủng hộ chủ nghĩa bảo thủ mới
không chỉ đánh giá thấp những khó khăn của việc gây ra các tác động chính trị
thích hợp ở những nơi như Irắc, mà còn hiểu sai cách thức phản ứng của thế giới
đối với việc sử dụng sức mạnh của Hoa Kỳ. Tất nhiên, thời chiến tranh lạnh từng
có đầy những thí dụ như nhà phân tích chính sách ngoại giao S.Sestanovich gọi
là tối đa luận kiểu Hoa Kỳ. Khi ấy, Washington đã ra tay trước và sau đó mới
tìm kiếm tính hợp pháp, cũng như sự ủng hộ từ các đồng minh của mình. Nhưng, trong
thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, thực trạng kết cấu đời sống chính trị thế giới đã
thay đổi theo nhiều hướng, khiến cho kiểu sử dụng sức mạnh trở nên có vấn đề
ngay cả dưới con mắt của những đồng minh thân cận. Sau sự sụp đổ của Liên bang
Xôviết, nhiều nhà bảo thủ mới, như C.Krauthammer, W.Kristol và R.Kagan, đã cho
rằng, Hoa Kỳ sẽ sử dụng sức mạnh dư thừa của nó để khẳng định “quyền bá chủ
nhân từ” đối với phần còn lại của thế giới, giải quyết những vấn đề như các nhà
nước ma quỷ có vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tình trạng lạm dụng nhân quyền, những
nguy cơ khủng bố khi chúng xuất hiện. Trước chiến tranh Irắc, Kristol và Kagan
đã từng xem xét liệu thái độ này có kích động sự đối kháng từ phần còn lại của
thế giới và kết luận: “Chính vì chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ được truyền
thêm tính đạo đức ở trình độ cao khác thường tới mức mà các quốc gia khác thấy
rằng họ không phải sợ hãi cái sức mạnh có tính đe doạ của nó”.
Thật khó để đọc những
dòng này mà không thấy mỉa mai trước sự phản ứng toàn cầu đối với chiến tranh
Irắc, sự phản ứng đã thành công trong việc đoàn kết phần lớn thế giới để chống
lại Hoa Kỳ. Hiện có những dấu hiệu cảnh báo rằng, đã có sự thay đổi trong mối
quan hệ của Hoa Kỳ đối với thế giới từ trước khi chiến tranh Irắc xảy ra. Sự
mất cân bằng về mặt kết cấu trong quyền lực toàn cầu đã trở nên rất lớn. Hoa Kỳ
vượt trội so với phần còn lại của thế giới trên phương diện sức mạnh với một số
dư thừa chưa từng thấy, chi phí quốc phòng của nó tương đương với chi phí của
toàn bộ phần còn lại của thế giới cộng lại. Những năm dưới thời Clinton, sự bá
chủ về kinh tế của Hoa Kỳ đã tạo nên sự thù địch ghê gớm đối với quá trình toàn
cầu hoá do Hoa Kỳ điều hành; dần dần, những đồng minh dân chủ thân cận của Hoa
Kỳ cũng nhận ra rằng, nước này đang cố gắng áp đặt mô hình xã hội phản thống kê
(antistatist) lên họ.
Còn có những lý do khác
để giải thích tại sao thế giới không chấp nhận kẻ bá chủ nhân từ Hoa Kỳ. Trước
hết, vấn đề nằm ngay trong thuyết ngoại lệ với tư tưởng cho rằng Hoa Kỳ có thể
sử dụng sức mạnh của nó trong trường hợp các nước khác không thể, bởi nó có đạo
đức hơn. Học thuyết về quyền ra tay trước nhằm chống lại những nguy cơ khủng
bố, được đưa ra trong Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2002, là thứ không đủ tin
cậy để được phổ biến trong hệ thống quốc tế. Hoa Kỳ sẽ là nước đầu tiên phản
đối nếu Nga, Trung Quốc, Ấn Độ hay Pháp tuyên bố một hành động đơn phương tương
tự. Hoa Kỳ cứ cố phán xét người khác, trong khi lại không sẵn sàng trả lời chất
vấn về tư cách của chính nó ở những nơi như toà án hình sự quốc tế.
Một vấn đề khác của
thuyết bá chủ nhân từ là tính bản địa của nó. Có những giới hạn rõ ràng trong
sự quan tâm của nhân dân Hoa Kỳ đối với các hoạt động ngoại giao, cũng như việc
sẵn sàng đóng góp tài chính cho những dự án hải ngoại không có lợi ích rõ ràng
đối với quyền lợi của người dân nước này. Sự kiện ngày 11 tháng 9 đã thay đổi
cách tính toán ấy theo hướng khích lệ sự ủng hộ rộng rãi đối với hai cuộc chiến
ở Trung Đông và sự gia tăng chi phí quốc phòng. Tuy nhiên, tính ổn định của
những ủng hộ đó là không chắc chắn: cho dù hầu hết người dân Hoa Kỳ muốn làm
những gì cần để dự án tái thiết Irắc thành công, song hậu quả của cuộc xâm lược
đã không làm tăng thêm sự ủng hộ trong công chúng đối với những cuộc can thiệp
tốn kém tiếp theo.(…).
Cuối cùng, kẻ bá chủ
nhân từ cho rằng, quyền bá chủ không chỉ có thiện ý, mà cần cả thẩm quyền.
Nhiều phê phán của người châu Âu và những nước khác về sự can thiệp của Hoa Kỳ
vào Irắc không căn cứ trên chuẩn mực là nước này đã không được sự cho phép của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Họ căn cứ trên niềm tin rằng, trước hết Hoa Kỳ
đã không đưa ra được cơ sở thích đáng cho việc xâm lược Irắc và không biết mình
đang làm gì khi cố gắng dân chủ hoá Irắc. Đáng tiếc là những người phê phán
cũng đã tiên liệu được điều này.
Đánh giá sai lầm căn bản
nhất là đề cao quá mức cái nguy cơ đến từ những kẻ Hồi giáo cực đoan mà Hoa Kỳ
phải đối mặt. Mặc dù cái khả năng những kẻ khủng bố mới không thể bị ngăn chặn
và đáng quan ngại là được trang bị vũ khí huỷ diệt hàng loạt đã hiện diện, song
những người ủng hộ chiến tranh đã đánh đồng một cách sai lầm điều này với cái
nguy cơ từ phía Irắc, cũng như với vấn đề nhà nước ma quỷ/gia tăng vũ khí hạt
nhân nói chung. Đánh giá sai lầm đó một phần dựa trên thất bại nghiêm trọng của
các cơ quan tình báo Hoa Kỳ trong việc xác định một cách chính xác trạng thái
những chương trình vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Irắc trước cuộc chiến. Song,
các cơ quan tình báo Hoa Kỳ chưa hề gieo rắc một cái nhìn sợ hãi về nguy cơ
khủng bố hay vũ khí huỷ diệt hàng loạt như những người ủng hộ chiến tranh đã
làm. Sự đánh giá thái quá về nguy cơ này đã được sử dụng sau đó để biện hộ cho
việc nâng tầm cuộc chiến ngăn chặn thành điểm trung tâm của chiến lược an ninh
mới, cũng như biện hộ cho hàng loạt biện pháp xâm phạm tự do công dân, từ chính
sách giam cầm đến việc nghe lén trong nước.
Giờ đây là lúc mà chủ
nghĩa bảo thủ mới phải bị vượt qua, Hoa Kỳ cần phải hoạch định lại chính sách
ngoại giao của nó theo nhiều đường hướng cơ bản. Trước hết, cần phi quân sự hoá
cái mà chúng ta vẫn đang gọi là chiến tranh toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố
và chuyển sang những hình thức chính sách công cụ khác. “Chiến tranh” là một ẩn
dụ không đúng về cuộc đấu tranh rộng lớn, bởi vì các cuộc chiến là đánh nhau dữ
dội và có khởi đầu, kết cuộc rõ ràng. Việc đương đầu với thách thức của chiến
tranh Hồi giáo thật ra là một “cuộc chiến lâu dài, mờ mịt”. Cốt lõi của nó
không phải là một chiến dịch quân sự, mà là một trận chiến về mặt chính trị
chống lại những con tim và khối óc của những tín đồ Hồi giáo chân chính trên
khắp thế giới. Những sự kiện gần đây ở Pháp và Đan Mạch cho thấy châu Âu sẽ là
chiến trường trung tâm trong cuộc chiến này.
Hoa Kỳ cần phải đạt được
một điều gì đó tốt hơn “những liên minh tự nguyện” nhằm hợp pháp hoá những quan
hệ của nó với các nước khác. Thế giới ngày nay đang thiếu những thiết chế quốc
tế đủ hiệu lực để có thể đem lại tính hợp pháp cho hành động tập thể; việc
thiết lập những tổ chức mới có thể làm cân bằng hơn những đòi hỏi cả về tính
hợp pháp, lẫn tính hiệu quả sẽ là nhiệm vụ hàng đầu của thế hệ tiếp theo. Với
tính cách kết quả của hơn hai trăm năm tiến hoá về chính trị, chúng ta có được
sự hiểu biết khá đúng đắn về việc làm thế nào để tạo dựng những thiết chế có
ràng buộc với nhau, có trách nhiệm với nhau và có hiệu lực như trong bệ phóng
thẳng đứng mà chúng ta gọi là các nhà nước. Cái mà chúng ta thiếu là những cơ
chế tương xứng có hiệu lực, quan hệ chiều ngang giữa các nhà nước.
Những phê phán từ quan
điểm bảo thủ đối với Liên hợp quốc đều rất thuyết phục: trong khi hữu dụng cho
các hoạt động gìn giữ hoà bình và xây dựng đất nước thì Liên hợp quốc lại thiếu
cả tính hợp pháp dân chủ, lẫn tính hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề
an ninh nghiêm trọng. Giải pháp không phải là củng cố một cơ quan toàn cầu duy
nhất, mà là thúc đẩy vấn đề đang nổi lên ở bất cứ sự kiện nào, một “thế giới đa
phương” gồm những thiết chế quốc tế đan chéo lên nhau và đôi khi có cạnh tranh
với nhau, được tổ chức dựa trên tuyến vùng hay tuyến chức năng. Côsôvô năm 1999
là một mẫu hình: khi quyền phủ quyết của Nga ngăn không cho Hội đồng Bảo an
hành động, thì Hoa Kỳ và các đồng minh NATO chỉ cần chuyển việc xét xử sang
NATO; ở đó, Nga không thể gây trở ngại.
Vấn đề cuối cùng cần xem
xét lại, cũng là vấn đề sẽ được tranh luận nhiều nhất trong những năm tháng sắp
tới, là vị trí của vấn đề thúc đẩy dân chủ trong chính sách ngoại giao của Hoa
Kỳ. Di hại tồi tệ nhất có thể gây ra từ chiến tranh Irắc là phản ứng chống lại
quan điểm bảo thủ mới, cùng với sự chuyển biến đột ngột sang thái độ biệt lập
với một chính sách kiểu hiện thực yếm thế, đánh đồng Hoa Kỳ với những người bạn
độc tài. Việc cai trị đúng đắn, bao gồm không chỉ dân chủ, mà cả sự quản lý đối
với luật pháp và sự phát triển kinh tế, có tính cốt yếu đối với một loạt những
kết quả mà chúng ta muốn có, từ việc giảm bớt nghèo đói đến đối phó với dịch bệnh
và kiềm chế những xung đột bạo lực. (…).
Điều đầu tiên chúng ta
cần hiểu là, việc thúc đẩy dân chủ và hiện đại hoá ở Trung Đông không phải là
một giải pháp cho vấn đề chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo; rất có thể nó sẽ làm cho
vấn đề ngắn hạn trở nên tồi tệ hơn, như chúng ta đã thấy trong trường hợp cuộc
bầu cử ở Palétxtin đem lại quyền lực cho phong trào Hamas. Đạo Hồi cực đoan là
một sản phẩm phụ của chính hiện đại hoá, nẩy sinh từ việc đánh mất bản sắc,
cùng với sự chuyển đổi sang một xã hội hiện đại, đa nguyên. (…).
Song, sự tham dự ngày
càng nhiều hơn vào chính trị của những nhóm Hồi giáo cực đoan rất có khả năng
xẩy ra dù cho chúng ta làm gì đi nữa, và đó sẽ là cách duy nhất mà độc tố của
chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có thể xâm nhập vào những thể chế chính trị của các
cộng đồng Hồi giáo trên khắp thế giới. Những nhân tố xã hội mới đang phát triển
ở khắp nơi, từ Bôlivia và Vênêzuêla đến Nam Phi và vịnh Pécxích. Một nền hoà
bình lâu bền với cả Ixraen và Palétxtin không thể được xây dựng dựa trên lực
lượng Fatah thối nát, bất hợp pháp, luôn phải lo sợ về uy quyền của nhóm Hamas.
Hoà bình có lẽ sẽ xuất hiện, đôi khi ở cuối con đường, từ một nước Palétxtin
được điều hành bởi một nhóm khủng bố cực đoan trước đó, đã buộc phải giải quyết
những vấn đề thực tế của việc điều hành đất nước.
Nếu thực sự coi trọng
chương trình điều hành hợp lý thì chúng ta phải chuyển sự chú ý sang việc cải
tổ, tái cơ cấu và đầu tư một cách chính xác cho những thiết chế của chính phủ
Hoa Kỳ, cái đó thực sự thúc đẩy dân chủ, sự phát triển và sự kiểm soát luật
pháp trên toàn thế giới, chẳng hạn như những tổ chức như Bộ Ngoại giao, Tổ chức
vì sự phát triển quốc tế của Hoa Kỳ (U.S.A.I.D), Quỹ hỗ trợ dân chủ quốc gia.
(…).Tuy nhiên, bài học bao quát rút ra là Hoa Kỳ không thể quyết định dân
chủ sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Nói một cách chính xác, những kẻ bên ngoài
không thể “ấn định” dân chủ vào một đất nước mà nước đó không muốn; đòi hỏi dân
chủ và cải tổ phải là nhu cầu nội tại.(…). Hồi tháng 1, bà C.Rice đã có một bài
phát biểu nghiêm túc về vấn đề “ngoại giao chuyển hoá”, bắt đầu nỗ lực tổ chức
lại phương diện phi quân sự của hoạt động ngoại giao và viết lại những văn kiện
chiến lược an ninh quốc gia. Tất cả những điều này đều là những thay đổi đáng
hoan nghênh. Tuy nhiên, những di hại của chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ
thứ nhất của chính quyền Bush và những người ủng hộ thuộc phái bảo thủ mới đang
bị phân cực tới mức sẽ khó có được một cuộc tranh luận phải chăng về việc làm
thế nào để cân bằng một cách thoả đáng giữa lý tưởng với lợi ích của Hoa Kỳ
trong những năm tới. Phản ứng chống lại chính sách không hoàn thiện có thể gây
tác hại giống như bản thân chính sách ấy và một phản ứng như vậy là sự nuông
chiều mà chúng ta không thể chấp nhận được. Tạo ra được một phong trào phê phán
thì chúng ta đã tới được chính trị toàn cầu.
Chủ nghĩa bảo thủ mới,
bất kể nguồn gốc phức tạp của nó, gắn bó chặt chẽ với những khái niệm như sự
thay đổi chế độ mang tính cưỡng bức, chủ nghĩa đơn phương và quyền bá chủ kiểu
Hoa Kỳ. Hiện nay, điều cần thiết là những lý tưởng mới, trừ lý tưởng bảo thủ
mới hay duy thực, để làm thế nào để Hoa Kỳ liên hệ được với phần còn lại của
thế giới - những lý tưởng vẫn hàm chứa niềm tin bảo thủ mới về tính phổ quát
của nhân quyền, nhưng không còn những ảo tưởng về hiệu quả của sức mạnh và
quyền bá chủ của Hoa Kỳ có thể đem lại những mục đích như vậy./.
(*) FRANCIS
FUKUYAMA giảng dạy tại Trường Nghiên cứu quốc tế cao cấp thuộc Đại học Johns
Hopkins. Tiểu luận này trích từ cuốn Nước Mỹ tại thời điểm quyết định của
ông, sẽ được Nxb Đại học Yale xuất bản trong tháng 2.
[1] “Duy
thực” theo nghĩa là “có óc thực tế”, “hiện thực” chứ không theo
nghĩa đối lập với “duy danh” trong lịch sử triết học (người dịch).
Nguồn: triethoc.edu.vn