Nguyễn
Xuân Xanh
Không
có thú vui nào trên thế giới có thể so sánh được với thú vui đọc sách. Khi người
ta cảm nhận được sự đàm thoại riêng tư với thế giới người hiền, thì đó là thú
vui duy nhất không lệ thuộc vào người khác…
-
Kaibara Ekken (1630-1714)
Tóm
tắt: Những
lý do nào khiến dân tộc Nhật đã có một văn hoá đọc có thể nói vào bậc nhất thế
giới? Văn hoá đọc này không phải chỉ bỗng dưng bùng nổ vào thời Minh Trị Duy
Tân 1868 khi đất nước được mở cửa, hướng về phương Tây, mà có gốc rễ sâu xa từ
thời Tokugawa 1600-1868, từ lúc dân tộc chỉ có văn hoá võ sĩ trên chiến trường,
từ lúc thầy tu khoẻ mạnh cũng muốn ra trận để thi thố tài năng đi tìm hạnh
phúc. Cách đây 300 năm Nhật Bản đã có những con số “khủng” về giáo dục và văn
hoá đọc.
Những
lý do nào khiến cho một dân tộc võ sĩ lại trở thành mê đọc sách như thế? Và đọc
sách để làm gì? Tại sao không phải các dân tộc có truyền thống văn sâu đậm như
Trung Hoa hay Việt Nam mà lại một dân tộc có truyền thống võ như Nhật Bản? Hai
trăm sáu mươi năm tự đóng kín cửa như “hến” sau khi đuổi hết người truyền giáo
phương Tây khỏi nước (cùng thời với Việt Nam), nhưng tại sao mảnh đất Nhật Bản
lại “ngậm” được viên ngọc ‘Tây học’ (Western learning, thông qua ‘Lan học’,
Rangaku) hình thành bên trong, từ chất “nọc độc của người man di”, để rồi viên
ngọc khai minh đó biến thành quốc sách thời Minh Trị? Một sự lặp lại kỳ thú của
lịch sử: châu Âu đã từng có cuộc dịch thuật vĩ đại thế kỷ 11 và 12 lúc đại học
châu Âu ra đời để làm nền tảng phát triển khoa học và văn hoá, thì tương tự, ở
phương Đông, Nhật Bản cũng đã có cuộc dịch thuật vĩ đại của mình trong hai thế
kỷ thời đóng cửa, giúp chuyển hệ hình tư duy kiểu phong kiến Trung Hoa sang hệ
hình khoa học hiện đại phương Tây dù tầng lớp trí thức ở Nhật Bản chịu ảnh hưởng
rất sâu đậm của Khổng giáo, có thể sâu đậm hơn cả giới trí thức Việt Nam cùng
thời.
Cuộc
dịch thuật là khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, nhưng trí thức Nhật Bản đã
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ không
thể yêu nước trong sự vô minh. Đọc sách là việc làm của lòng yêu nước,
không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà để khai minh và khai sinh một thời đại mới
cho đất nước. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức. Họ
không sợ học của kẻ thù, chỉ sợ ngu muội vì không học. Và họ đã thành công.
Người
ta đã từng nghe nói về sự đọc sách khủng của người Nhật thời Minh Trị Duy Tân,
cách chúng ta hôm nay ngót một thế kỷ rưỡi. Thí dụ minh hoạ thường là quyển
sách Bàn về Tự do, On Liberty, của John Stuart Mill. Sách được xuất bản ở Anh
năm 1859, cùng năm với tác phẩm “Thuyết tiến hoá” của Charles Darwin. Bàn về Tự
do là một quyển sách rất có ảnh hưởng ở phương Tây, và ngày nay vẫn còn tiếp tục
được đọc. Khi được dịch sang tiếng Nhật quyển sách đã bán trên triệu bản.
Một
quyển sách khác, có lẽ ít được biết hơn đối với độc giả Việt Nam, là Tự lo,
Self-Help của Samuel Smiles. Quyển sách này là best-seller ở phương Tây, đến cuối
thế kỷ 19 bán được số lượng 250.000 ở Anh Mỹ, nhưng khi được Nakamura Masanao,
một học giả Khổng giáo từng học bên Anh, dịch sang tiếng Nhật những năm đầu của
thời Minh Trị thì quyển sách bán đến một triệu bản! (Nakamura cũng là người dịch
quyển Bàn về Tự do) Một con số thật “khủng” nếu ta biết rằng thời đó dân số Nhật
Bản chỉ khoảng trên 30 triệu thôi. Self-Help là một trong ba quyển sách được gọi
là “Bộ kinh thánh Minh Trị” có sức hút mãnh liệt đối với người Nhật, nhất là giới
trẻ, trong giai đoạn đất nước đổi mới của Nhật Bản. Cuốn sách Tự lo thể hiện
tinh thần độc lập tự chủ của các cá nhân, và từ đó làm cho quốc gia độc lập và
tự chủ. Cuốn sách mượn lời của J.S. Mill ngay trang đầu: “Giá trị của nhà nước,
xét lâu dài, là giá trị của các cá nhân cấu thành.” Đó là tín hiệu mà quyển
sách muốn truyền đạt: Muốn có một đất nước mạnh, độc lập, phải có những cá nhân
mạnh và độc lập, thông qua tự rèn luyện, tự lo. Đó là điều kiện tiên quyết.
Nói
chung vào thời mở cửa Minh Trị Duy Tân, dân tộc Nhật lên cơn sốt đọc sách nước
ngoài để biết phương Tây đã làm gì và đang làm gì mà “nước giàu quân mạnh” như
thế. Họ muốn biết và muốn học, để xây dựng đất nước hùng mạnh như các cường quốc
phương Tây. Chỉ có được một nền văn hoá lớn, một xã hội phú cường, khi nào mọi
người được học như nhau, khi mọi người có quyền ao ước và có điều kiện vươn lên
khỏi chức phận cũ của mình. Tinh thần này, ethos, được diễn tả mạnh mẽ trong
tác phẩm “Khuyến học”, Gakumon no susume, của nhà khai minh Fukuzawa Yukichi
(1835-1901): “Con người không sinh ra cao quý hay thấp hèn, giàu sang hay nghèo
khó. Chính những ai lao động siêng năng ở những công việc tìm tòi của họ, và học
nhiều, sẽ trở thành cao quý và giàu có, trong khi những ai biếng nhác sẽ trở
thành nghèo khó, thấp hèn.”
Hai
sự kiện sau đây ở thế kỷ 20 minh hoạ thêm óc tò mò học hỏi đặc biệt của người
Nhật, điều mà các nhà truyền giáo phương Tây đã ghi nhận khi tiếp xúc với những
dân tộc này, so sánh với các dân Trung Hoa hay Hàn Quốc mà họ biết trước đó.
Năm 1922 khi Einstein thực hiện lời mời sang thăm và diễn thuyết khoa học tại
Nhật thì nước Nhật vừa có ngay một tuyển tập Einstein gồm bốn quyển. Lúc đó
không đâu ở châu Âu hay ở Mỹ có tuyển tập này. Tương tự, ba năm trước đó, 1919,
Nhật Bản cũng là nước đầu tiên xuất bản tuyển tập Các Mác, Ăng-Ghen. Cũng không
đâu trên thế giới, kể cả Nga, Đức là những nơi có phong trào xã hội chủ nghĩa mạnh
nhất thế giới có tuyển tập này. Người Nhật quả muốn biết hết những nghĩ gì thế
giới trước đó.
Công
ty ra đời đầu tiên thời Minh Trị Duy Tân kinh doanh gì? Được sách sử ghi lại,
đó là công ty nhập khẩu và kinh doanh sách Maruzen của Hayashi Yuteki. Năm 1869
ông Hayashi Yuteki mở công ty đầu tiên tại Yokohama có tên Maruya, và năm sau mở
thêm cửa hàng thứ hai tại Nihonbashi, khu phố cổ trung tâm sầm uất và thời
trang nhất của Tokyo lúc bấy giờ! Năm 1880 Hayashi chuyển doanh nghiệp chính thức
thành công ty TNHH Maruzen. Sách là mặt hàng đi đầu trong “cuộc chấn hưng dân
khí”. Phần lớn các học giả và nhà văn đều là khách hàng của Maruzen, trong đó
có hai nhà văn lớn Akutagawa Ryunosuke và Natsume Sōseki. Hayashi Yuteki vốn là
một thầy thuốc hành nghề rồi sau đó trở thành học trò của nhà khai minh
Fukuzawa Yukichi. Ngoài các hiệu sách, Maruzen còn xuất bản một nguyệt san cho
giới văn sĩ, học thuật có tên “Ánh sáng của Khoa học”, Gakutō. Một thời gian
dài Maruzen là cửa sổ duy nhất nhìn ra phương Tây. [Công ty sách này ngày nay vẫn
còn tồn tại, hoạt động rộng rãi, có doanh số năm 1996 hơn một tỉ Euro với 2.100
nhân viên. Khách hàng của họ là nhiều đại học, cơ quan chính quyền và viện
nghiên cứu.]
Chúng
ta tự hỏi vì đâu mà người Nhật lại có cái đam mê đọc sách cuồng nhiệt và sự
đánh giá cao sách vở như thế? Có phải dân tộc này chỉ mê đọc sách thời Minh Trị
khi bừng tỉnh sau ‘cơn ngủ đông’ mấy trăm năm trước đó không? Dân tộc Trung Hoa
cũng từng ngủ đông dài như thế, và một số dân tộc khác cùng dòng văn hoá Khổng
Mạnh, nhưng tại sao không có cái đam mê đọc sách như dân Nhật?
Một
truyền thống lâu đời
Thực
ra người Nhật đã có truyền thống đọc sách khủng lâu đời, ít ra từ thời Tokugawa
1600-1686. Trong thời đầu của Tokugawa Ieyasu, người thống nhất đất nước và lập
nên triều đại Tokugawa hoà bình 265 năm lâu dài nhất lịch sử, thì chuyện một
samurai có thể diễn đạt được ý tưởng của mình một cách mạch lạc trên giấy trắng
mực đen là điều hi hữu, và tình trạng mù chữ là bình thường. Văn hoá Nhật Bản
trước 1600 là văn hoá võ sĩ. Nhưng vào cuối thế kỷ 18, có thể nói một samurai
mù chữ là một điều hụt hẫng đáng buồn, và tới giữa thế kỷ 19, tình hình lại
khác nhau một trời một vực.
Trong
thời Genroku (1688-1704), được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổn
định, nghệ thuật và văn chương phát triển, Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản
sách hiện đại đáng ngạc nhiên, đặc trưng bởi sự hiện hữu của nhiều nhà xuất bản
lớn, nhiều nhà minh hoạ sách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thường được
xuất bản với số lượng đến hơn 10.000 bản! Đây là một con số “khủng” thời đó; Nhật
Bản lúc đó chỉ có chừng 20 triệu người, vì thời Minh Trị dân số Nhật Bản khoảng
30 triệu. Năm 1692 Nhật Bản cũng đã từng có những bộ danh mục hàng chục tập về
các sách in dành cho công chúng sử dụng. (Hiện nay VN chưa có được những bộ
danh mục như thế tại các nhà sách).
Con
số phát hành 10.000 bản là rất đáng ghen tị cho những nhà xuất bản và tác giả
Việt Nam hiện nay, đất nước với gần 90 triệu dân. Trong gần mười năm qua từ khi
loại sách khai trí bắt đầu xuất hiện, có mấy tác giả nào có số ấn bản tương
đương như thế? Cho nên số ấn bản 10.000 của người Nhật thời Tokugawa cách đây
300 năm quả là con số “khủng”! [Việt Nam lúc bấy giờ đang trong giai đoạn Trịnh
Nguyễn phân tranh, không hiểu giáo dục và văn hoá đọc sách ra sao.]
Thương
mại sách ở Nhật bắt đầu phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 17. Giới đọc sách truyền
thống như quý tộc, tu sĩ và thượng lưu trong thành phố được mở rộng sang các giới
đại chúng. Mặc dù số lượng phát hành cao, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu đọc
sách của các tầng lớp dân chúng, văn hoá đọc sách thuê, ra đời trong thời
Kan’ei (1624-44), trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn như Edo,
Kyoto và Nagoya. Các cửa hàng cho thuê sách, kashihonya, đóng vai trò quan trọng
ở đây. Cuối thế kỷ 18 các cửa hàng cho thuê sách có mặt khắp nơi ở Edo (tức
Tokyo) và các tỉnh. Khách hàng được phục vụ bởi những người đi rong mang thùng
sách trên lưng. Sách vở có thể đi đến tận các hải đảo xa xôi. Edo có 650 cửa
hàng cho mượn sách năm 1808, nhưng đến 1832 đã có tới 800. Edo có dân số khoảng
hơn triệu, và tỉ lệ biết chữ lên đến 70%. Một cửa hàng cho mượn sách ở Nagoya,
tên Daisō của Sōhachi, như lịch sử còn ghi, được thành lập năm 1767 và hoạt động
132 năm liền, đến khi chấm dứt hoạt động có một danh mục đến 26.768 quyển sách
cho mượn.
Nhật
Bản thế kỷ 18 có những thành phố lớn phát triển với dân số tập trung cao như
châu Âu. Edo có trên một triệu dân, nhất thế giới, hơn cả Paris. Các thành phố
khác như Osaka có con số non một triệu. Nhật Bản có văn hoá thành thị, có cả
văn hoá salon (zashiki), đời sống sung túc rõ nét như ở châu Âu thời Trung cổ.
Và đó cũng là điểm hấp dẫn đối với giới thương nhân nước ngoài khi họ kêu gọi
Nhật Bản mở cửa. [Việt Nam lúc đó chưa được như thế về mặt phát triển kinh tế.]
Chúng
ta hỏi: Từ đâu người Nhật có sự đam mê đọc sách như thế? Động lực nào?
Nguồn
gốc đọc sách: văn đi trước võ
Sự
học tại Nhật Bản trước 1600 là độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ, nhưng đến
thời Tokugawa trở thành công việc của cả nước. Năm 1615 tướng quân Tokugawa
Ieyasu, sau khi đã bình định được gần ba trăm phiên trấn (han), thiết lập
nên một thể chế chính trị gần như liên bang, phát đi mệnh lệnh như một ‘big
bang’ cho các đại danh, daimyō, chủ phiên trấn và các võ
sĩ, samurai: Điều 1 của mệnh lệnh nói: “bun bên tay
trái, bu bên tay phải”. Bun là văn, sự học, là cây bút, trong
khi bu là võ, nghệ thuật chiến tranh, từ đó chữ bushi là võ
sĩ, bushido là võ sĩ đạo. Như thế Điều 1 nói “quyển sách bên
tay trái, thanh gươm bên tay phải”, và văn đi trước võ, để có thể trị nước lâu
bền. Các võ sĩ Nhật dần dần trở thành giai cấp cầm quyền có học. Ở
Nhật Bản, cầm quyền là việc của giai cấp samurai, cha truyền con nối, không phải
việc của các Khổng nho như ở Trung Hoa hay Việt Nam, Triều Tiên. Khổng nho cao
lắm chỉ được làm tư vấn với đồng lương thấp. Nhật Bản cũng có xếp hạng “sĩ,
nông, công, thương” (shi, nō, kō, shō) dưới ảnh hưởng của Khổng giáo
Trung Hoa, nhưng ở đây sĩ không phải là nho sĩ, mà là võ sĩ.
Các daimyō giờ
đây phải học văn hóa, các loại khoa học và nghệ thuật quản lý đất nước. Một
daimyō có học phải đọc sách hằng ngày. Để phục vụ cho việc học tập của
daimyō, và các gia thần, thư viện được thành lập, sách vở được sưu tầm một cách
qui mô, và trở thành biểu tượng cho tri thức. Thư viện bao gồm các loại sách về
lịch sử Nhật Bản và Trung Hoa, các sách về Khổng giáo, Phật giáo và Thần giáo;
sách về nghệ thuật quân sự, chiến lược quân sự, địa lý, thiên văn, kinh tế,
toán học, y khoa và vô số sách về văn chương cổ điển. Bản thân tướng quân
Ieyasu từng lập thư viện cho mình. Nhật Bản mỗi thời đều có những thư viện nổi
tiếng, nhưng vào thời Tokugawa, Nhật Bản có nhiều thư viện nhất chưa bao giờ thấy
trước đó.
Phát
triển giáo dục
Văn
hóa đọc sách gắn liền với giáo dục. Tokugawa là thời kỳ của sự bùng
nổ giáo dục, hệ thống trường học, phục vụ cho nhiều đối tượng, nhiều đẳng cấp,
trường trung ương của shogun, trường phiên của các daimyō, trường tư, cho dân thường
và trường hỗn hợp cho cả samurai và dân thường. Vài con số dưới đây sẽ làm
chúng ta thêm ngạc nhiên để thấy mối tương quan giữa văn hóa đọc và giáo dục.
Ngoài
những trường chính thống dành cho giai cấp samurai của Mạc phủ, như “Hàn lâm Khổng
giáo”, Shōheikō, thành lập năm 1630, và trường của các phiên, còn
có các loại trường như trường terakoya cho thường dân; trường gōgakudành
cho cả con em samurai lẫn thường dân học chung, được chính thức hỗ trợ từ nhà
nước, báo trước loại giáo dục hiện đại phi đẳng cấp sẽ ra đời
thời Minh Trị. Ngoài ra có loại trường tư thục, shijuku, private
academies, với khoảng 1.500 trường, từ qui mô nhỏ vài ba chục đến qui mô lớn cả
ngàn sinh viên, cạnh tranh với các trường trung ương hay trường phiên, dành cho
cả samurai và thường dân mọi tầng lớp.
Tại
phiên Chōshū, một trong những phiên quan trọng trong việc lật đổ Mạc phủ để phục
hồi Thiên hoàng, nhiều samurai nổi loạn và trở thành lãnh đạo của Chính phủ
Minh Trị đã từng là học trò của nhà yêu nước Yoshida Shōin (1830-1859) tại trường
tư thục do ông thành lập. Shijuku thường phục vụ cho giáo dục
cao cấp (advanced education), đi vào nghiên cứu, là trường của những người
muốn tiến thân vào học thuật. Đó là loại trường “vườn ươm nhân tài”, bất kể từ
đâu đến, samurai hay thương gia, thầy tu, tạo nguồn nhân lực quốc gia, jinzai (nhân
tài, human resource), điều cũng được các giới chính quyền Trung ương và địa
phương ủng hộ. Theo tinh thần của jinzai, việc tuyển mộ nhân sự được
dựa trên cơ sở tài năng hơn là nguồn gốc thân thế, và tài năng có thể đi từ
phiên này sang phiên khác sống. Ngoài ra còn các trường dạy nghề và trường tôn
giáo.
Năm
1868 khi Nhật Bản Minh Trị bắt đầu cuộc duy tân, cả nước đã có 17.000
trường đủ mọi loại! Đây cũng là một con số ‘khủng’ nữa. Hàng triệu người
đã được học hành. [Việt Nam có được bao nhiêu trường học và học sinh lúc đó?
Nam Kỳ lúc đó vừa trở thành thuộc địa Pháp.] Có một ước tính theo đó cuối thời
Tokugawa Nhật Bản có khoảng trên 40 phần trăm con trai và 10 phần trăm con gái
nhận được giáo dục ngoài gia đình. Nhà nước không sợ sự phát triển giáo dục
trong nhân dân, và dân chúng cũng đồng tình để cải thiện vị trí xã hội của
mình. Phát triển đất nước cần những người có học. “Việc đầu tiên cần thiết cho
sự trị vì một nhà nước là năng lực con người. Mà năng lực con người thì đến từ
sự học” như học giả Khổng giáo Dazai Jun (1686-1747) viết.
Qui
mô của
trường Nhật cũng không kém phần ngạc nhiên. Trường Shōheikō được
xây dựng lại năm 1799 thực tế không phải là một ngôi trường, mà là một campus
to lớn, nhiều dãy nhà ngang dọc, nhiều đường phố trong đó, với một đền thờ Khổng
tử lớn tại trung tâm, nó là một cái làng học thuật và đào tạo đúng hơn là một
cái trường đơn giản theo quan niệm của chúng ta. Trường Nisshinkan tuy
có thể nhỏ hơn nhưng cũng rất lớn. Chúng ta biết rằng tại Hoa Kỳ, các đại học dạng
campus hình thành chủ yếu từ Luật giao đất Morrill năm 1862
trước khi cuộc nội chiến chấm dứt. Phải chăng, xét về qui mô, các trường của Nhật
Bản thời Tokugawa đã đi trước các Đại học campus của Mỹ gần cả
trăm năm?
Nước
Nhật bước vào hiện đại hóa không phải từ tro tàn của chế độ cũ, mà ngược lại,
được xây dựng trên một nền móng văn hóa đã phát triển cao, đa dạng về nội dung
học, và vững chắc. Năm 1872 (cũng là năm sinh của cụ Phan Châu Trinh), tức chỉ
bốn năm sau khi vua Minh Trị được phục hồi, một chế độ giáo dục cưỡng
bách toàn dân được thực hiện trên khắp nước Nhật, một kỳ công. Điều này sẽ khó
có thể được nếu Nhật Bản Tokugawa không có gì cả. Năm 1900 Nhật Bản có tỉ lệ
người biết chữ cao hơn tỉ lệ của Anh. Đó là một môi trường văn hóa tốt và thiết
yếu cho sự phát triển mạnh của khoa học và kỹ thuật.
Nếu
đầu thời kỳ Tokugawa lưỡi gươm là quan trọng, thì vào cuối thời
Tokugawa thì quyển sách là quan trọng hơn.
Trước
áp lực của nguy cơ nước ngoài sự học cổ điển dần dần được hiện đại hóa bằng các
môn học phương Tây. Các môn tri thức quân sự, luyện kim, vẽ bản đồ, y khoa, hóa
học…, cũng như các môn học về các thể chế chính trị, kinh tế các quốc gia
phương Tây có sức hút mạnh mẽ. Các daimyō biết nhìn xa gửi sinh viên tài năng
đi học tại Nagasaki hay tại những trường Lan học tại Edo và Osaka. Và trong những
năm 1850, 1860 họ thành lập các trung tâm Tây học tại các phiên của họ. Các nhà
lãnh đạo của Minh Trị Duy Tân như Saigō của phiên Satsuma, Kido, Itō và Inoue của
Chōshū, Soejima và Okuma của Saga, Gotō, Sakamoto và Sasaki của Tosa, Yuri của
Fuki, Mutsu và Katsu của Mạc phủ, tất cả đều đã một lần học tại Nagasaki, trung
tâm Lan học hiện đại của cả đất nước.
Sự
phát triển giáo dục thời Tokugawa gắn liền với sự phát triển văn hóa Edo. Edo
là thời kỳ của nghệ thuật và học thuật. Tokugawa chọn con đường đóng kín không
phải để suy tàn, mà ngược lại, để phát triển bản sắc Nhật Bản không bị phá rầy,
đưa sức sống của dân tộc lên đỉnh cao văn hóa và nghệ thuật, vun xới đạo đức và
bản sắc. Đó là thời kỳ của sự tự tôi luyện, sự quyết tâm tự khẳng định mình, biến
đổi miếng đất hoang sơ thành một vườn hoa sặc sỡ, phát triển các hình thái nghệ
thuật lên cao nhất, để bản sắc Nhật Bản trở thành nền tảng không lung lay được
trong thời mở cửa xáo trộn sau, để tài năng Nhật Bản được tinh luyện làm niềm
tin của dân tộc. Khi mở cửa, nghệ thuật Nhật Bản đã chinh phục được các quốc
gia phương Tây và quốc gia được nể phục.
Lan
học, cuộc dịch thuật vĩ đại
Còn
một sự kiện ‘khủng’ khác cần được nói lên ở đây. Đó là cuộc dịch thuật
vĩ đại hai thế kỷ của giới trí thức Nhật Bản trong thời Tokugawa tự
đóng cửa. Sáu năm sau khi Copernicus qua đời (1543) và tác phẩm cách mạng Về
chuyển động quay của các thiên thể xuất bản, Nhật Bản tiếp xúc với những
người phương Tây đầu tiên. Nhưng năm mươi năm sau, Nhật Bản, như chúng ta biết,
chọn con đường đóng kín cửa, “toả quốc”, sakoku, từ 1640 (Việt Nam
từ 1630), khi thấy sự phát triển của Kitô giáo là nguy hiểm cho tinh thần dân tộc
và cho quyền lực. Nhật Bản chỉ chừa một cửa thông thương duy nhất với Hà Lan tại
Dejima, Nagasaki. Sự đóng kín này kéo dài cho đến hết thời Tokugawa năm 1868. Vậy
mà trong điều kiện đó, đây là điều Việt Nam không có, trí thức Nhật Bản đã làm
một cuộc dịch thuật vĩ đại sách vở phương Tây. Tuy không quyển
sách nào thóat khỏi bàn tay kiểm duyệt nghiêm ngặt của Mạc phủ, tuy giới học giả
phải làm việc trong điều kiện khó khăn, đôi khi phải trả giá bằng tính mệnh,
nhưng họ đã làm nên một cuộc dịch thuật vĩ đại từ cái được gọi là Lan học, rangaku,
Dutch learning (“Lan” là gọi tắt của Hà Lan), bắt cầu cho khai trí, khoa học, kỹ
thuật để Minh Trị Duy Tân bước tới mạnh mẽ.
Trí
thức Nhật, nhất là giới bác sĩ, đặc biệt chú ý đến khoa học kỹ thuật từ châu Âu
qua các tác phẩm dịch từ tiếng Hà Lan. Họ nhìn thấy trong đó một nền văn minh mới
xuất hiện, và ý thức rằng, nếu một ngàn năm trước Nhật Bản đã từng gửi học giả
và tăng lữ sang Trung Hoa để học văn hóa, thì nay, họ cũng đang đứng trước một
nền văn minh mới đồ sộ cần phải học hỏi, và họ phải tự học trong sự dè chừng của
Mạc phủ. Qua Lan học- hay Tây học qua tiếng Hà Lan – người Nhật học hầu như tất
cả các môn khoa học và công nghệ phương Tây: y khoa, sinh học, thiên văn, toán
học, vật lý, hóa học, điện, cơ học, máy bơm, đồng hồ, máy hơi nước, kính thiên
văn, kính hiển vi, luyện kim, đúc súng, đóng tàu…Họ thường xuyên theo dõi sự tiến
bộ khoa học công nghệ châu Âu. Các thương nhân Hà Lan ngay từ đầu được Mạc phủ
yêu cầu hằng năm viết báo cáo (fūsetsugaki) cho chính phủ tướng quân về
tình hình thế giới, và về cuộc cách mạng công nghệ và khoa học ở châu Âu.
Chỉ
có đọc sách với tinh thần người Nhật là muốn hiểu biết thế giới đã, đang nghĩ
gì, làm gì để tái tạo tinh hoa thế giới và sáng tạo cái mới làm giàu đất nước
Việt Nam, mới giúp cho chúng ta đọc sách mãi mãi không thôi, đọc cuồng nhiệt
trong thế giới tri thức vô tận. Và chỉ trên cơ sở đó, văn hoá đọc mới có thể
thăng hoa. Từ thế kỷ 18, tức khoảng một thế kỷ sau tác phẩm Principia của
Newton, các học giả Lan học đã nắm bắt được vật lý Newton, họ đã dịch được các
khái niệm như “trọng lực” (jūryoku), “lực hút” (inryoku), “lực ly tâm” (enshinryoku),
“khối tâm” (jūten, centre of mass) vẫn còn được sử dụng ngày nay. Các học
giả Lan học đã hiểu các hiện tượng điện, tĩnh điện, hiểu nguyên lý ắc-quy của
Volta đầu thế kỷ 19, chỉ mấy năm sau khi Volta phát minh ở châu Âu. Họ hiểu hóa
học của Lavoisier, có thể chế tạo kính thiên văn không lâu sau Hans Lippershey
và Galilei đầu thế kỷ 17; chế tạo đồng hồ, máy bơm, súng hơi, chế tạo những con
búp bê cơ khí tự động phục vụ trà. Đặc biệt máy hơi nước được Nhật Bản chế tạo
lần đầu tiên năm 1853. Người Nhật đã đóng được tàu chiến chạy hơi nước chỉ hai
năm sau cuộc gặp gỡ lịch sử với Commodore Perry 1853. Tất cả cũng chỉ dựa trên
bản vẽ. Một quan chức Hà Lan bình luận rằng “Tuy có những sự không hoàn chỉnh về
chi tiết, nhưng tôi phải ngả mũ trước dân tộc thiên tài có khả năng chế tạo những
thứ này mà họ không hề thấy một chiếc máy thực ngoài đời, chỉ dựa trên các bản
vẽ đơn thuần”.
Cuộc
dịch thuật diễn ra trong hai thế kỷ với hàng ngàn cuốn sách được xuất bản và
truyền bá trong giới học thuật, làm cho người ta nhớ đến cuộc dịch thuật
vĩ đại văn minh Hy Lạp cổ đại và Ả Rập vào châu Âu hai thế kỷ 11 và 12
đúng lúc đại học châu Âu đang hình thành, làm cho đại học và khoa học châu Âu
phát triển mạnh mẽ. Chỉ có khác một điều: trong khi cuộc dịch thuật ở châu Âu
được phần lớn các học giả Ả Rập thực hiện thì ở Nhật Bản cuộc dịch thuật được
do chính người Nhật thực hiện, những người được đào tạo từ một nền văn hóa rất
khác. Phương Đông chưa có cuộc dịch thuật nào như cuộc dịch thuật Nhật Bản phản
ảnh trung thực nền khoa học kỹ thuật phương Tây. (Cuộc dịch thuật ở Trung Hoa bởi
các nhà truyền giáo bóp méo một phần khoa học vì mục tiêu truyền giáo, và gặp sức
ỳ mãnh liệt của sự tự mãn văn hóa Trung Hoa). Đây là một sự lặp lại kỳ thú của
lịch sử giữa Tây và Đông. Hai trăm năm dịch thuật ở Nhật Bản Tokugawa cũng là thời
gian tại châu Âu diễn ra các cuộc cách mạng khoa học, công nghiệp dữ dội, tạo
nên sự mất cân bằng lực lượng nghiêm trọng trên thế giới dẫn tới thay đổi lớn
lao chưa từng có trong lịch sử loài người. Người Nhật đã biết tiếp cận các cuộc
cách mạng đó từ xa để chuẩn bị mình.
Người
Nhật không thể yêu nước trong sự mê muội, vô minh, lại càng không yêu nước bằng
những nội dung khuôn sáo không thực chất. “Chúng ta cảm thấy xấu hổ làm sao khi
khám phá ra sự ngu dốt của mình” với tư cách là người phục vụ đại danh và đất
nước, như một lời tự thú của Sugita Gempaku (1733-1817), một bác sĩ tên tuổi và
là người đã tạo cú hích quan trọng cho Lan học cuối thế kỷ 18, sau khi ông chứng
kiến rằng cấu trúc của cơ thể con người không giống như sách vở của Trung Hoa
hay Nhật Bản bấy lâu nay, mà giống chính xác các bản vẽ cơ thể học của một quyển
sách từ phương Tây (Tafel Anatomia), sau đó được Gempaku và các đồng
nghiệp dịch ngay sang tiếng Nhật tạo cú hích mạnh mẽ cho phong trào Lan học.
Kết
luận
Nói
tóm lại, Nhật Bản là một dân tộc có óc tò mò không bao giờ nguôi, tinh thần
khao khát học hỏi cái mới mãnh liệt không bao giờ tắt, và khả năng hiểu biết
nhanh chóng, để hoàn thiện mình, để bảo vệ đất nước, để “kiểm soát những người
man di bằng tri thức của họ”, và vì thế họ đọc sách dữ dội, và đã thành công dữ
dội. Thế kỷ thứ bảy và tám họ đã từng vượt biển trong hiểm nguy để học văn hóa
Trung Hoa đem về xây dựng nền tảng văn hóa riêng của họ. Rồi một ngàn năm sau,
cũng trong khó khăn và nguy hiểm, giới trí thức đã tiến hành cuộc dịch thuật
văn hóa phương Tây hai thế kỷ liền, và từ 1868 trở đi một cách bùng nổ, để có
thể nhanh chóng hiện đại hóa đất nước với mục tiêu trở thành ngang bằng với các
cường quốc phương Tây. Đó là hai sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử văn hóa
nước Nhật. Và họ đã thành công. Họ bỏ lại Trung Hoa từng là trung tâm văn hóa đối
với họ, để rồi chính Trung Hoa sau đó phải học lại họ. Nhật Bản đã từng trở
thành trung tâm văn hóa mới và niềm hy vọng ở phương Đông, thay thế cho cái
trung tâm Trung Hoa cũ đang rệu rã.
Nhật
Bản là tấm gương “tổng hợp văn hóa Đông Tây” của thế giới mà không mất đi bản sắc
sâu đậm của mình. Họ là một tấm gương tuyệt vời của sự tự-khai trí vươn lên. Họ
đóng cửa mà không hư hỏng hay hỗn độn. Ngược lại, họ đóng cửa để phát triển các
tố chất dân tộc thành tinh hoa, làm bước chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp
vững chắc, không chao đảo khi mở cửa ồ ạt thời Minh Trị. Họ là một dân tộc văn
hóa đáng kính phục.
Charles
Darwin nói đâu đó trong lá thư gửi cho một người bạn, rằng đối với ông Nhật Bản
là một kỳ quan trong những kỳ quan của thế giới, nếu không muốn
nói là kỳ quan lớn nhất.
Người
Việt Nam chúng ta nên học văn hóa đọc sách độc đáo của người Nhật, óc tò mò của
họ, học để sáng tạo cho đất nước. Nếu chỉ học với mục đích có có được một nghề
để sống, điều đó quý cho bản thân, gia đình, nhưng dễ dẫn đến sự tự mãn làm cho
người ta không đọc sách nữa khi đã đạt được mục đích. Với tinh thần đó, Việt
Nam chỉ có cá nhân chứ không có quốc gia. Chỉ
có đọc sách với tinh thần người Nhật là muốn hiểu biết thế giới đã, đang nghĩ
gì, làm gì để tái tạo tinh hoa thế giới và sáng tạo cái mới, làm giàu đất nước
Việt Nam, điều đó mới giúp cho chúng ta đọc sách mãi mãi không thôi, đọc cuồng
nhiệt trong thế giới tri thức vô tận. Và chỉ trên cơ sở đó, văn hóa đọc mới có
thể thăng hoa. Không phải chỉ vài ngàn, mà hàng triệu các bản sách hay mới
có thể được độc giả hâm mộ và háo hức đón nhận. Và cũng chỉ trên cơ sở đó, nhân
dân mới nhanh chóng ấm no, đất nước mới phú cường, giang sơn mới bền vững.
Nguồn:
http://sociallife.vn/