E. Barry Asmus và Donald B. Billings
Đinh Tuấn Minh dịch
Chủ
nghĩa tư bản đã cho ta một bằng chứng hùng hồn rằng, nhờ theo đuổi mô hình cạnh
tranh, với hệ thống thể chế chính yếu của nó dựa trên tư hữu và những thoả ước
xã hội tự nguyện, nó đã đạt được sự phát triển kinh tế phi thường chưa từng thấy.
Ngay cả Karl Marx, trong bản Tuyên ngôn Cộng sản, đã tuyên bố rằng
chủ nghĩa tư bản là một “guồng máy phát triển” vĩ đại. Dẫu vậy, hệ thống thị
trường tự do của chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục bị đa số mọi người trên toàn thế
giới xem là thiên về vật chất, thiếu đạo lý, và vì thế vô đạo đức. Quan điểm
này đặc biệt thịnh hành trong phần lớn của tầng lớp được xem là trí thức.
Lịch
sử cho thấy rằng những thể chế khác với chủ nghĩa tư bản đã đè bẹp tự do, lập
ra những cơ chế chính trị chuyên chế, cắt giảm cơ hội và biến hiệu năng kinh tế
thành trò hề; chính sách kế hoạch tập trung và cào bằng kinh tế đã khiến nhà nước
can thiệp vào những chuyện riêng tư cũng như dẫn đến chế độ độc tài tàn ác. Đấy
là những điều có lẽ không cần thiết phải nhắc lại. Dù vậy, những kẻ trung thành
với chủ nghĩa xã hội thiên hữu lẫn thiên tả vẫn tin rằng liệu pháp chủ nghĩa xã
hội một ngày nào đó sẽ đưa loài người đến đỉnh vinh quang.
Điều
đáng nói là, ngày càng có nhiều trí thức tinh hoa của Mỹ, những người được biết
đến qua những niềm tin của họ về “nền kinh tế hỗn hợp”, “chủ nghĩa trung đạo”
hoặc “nền dân chủ về kinh tế”, xuất hiện sau tấm bình phong xã hội chủ nghĩa. Họ
công nhận mình là những người theo chủ nghĩa xã hội hay ít ra bộc lộ xu hướng
thiên về một cơ chế hỗn hợp thay vì thị trường tự do. Không kể những động cơ đằng
sau, luận điểm của họ là chủ nghĩa tư bản từ bản chất đã không công bằng. Nếu
không có một nền tảng đạo đức, như lời những kẻ chỉ trích, thì tư hữu và thị
trường tự do sẽ không bao giờ được dung thứ.
Trong
quá khứ, những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh cũng có lỗi như mọi người
khác vì đã nuôi dưỡng quan điểm sai lầm này. Họ đã bỏ quá nhiều thời gian để ca
ngợi thành quả tốt đẹp của chủ nghĩa tư bản, thị trường tự do, và những thông
tin xã hội hữu ích tạo ra được từ các mức giá cả, lương bổng, lãi suất, lợi nhuận
và thua lỗ. Chủ quan về tính hiệu quả của chủ nghĩa tư bản, những người ủng hộ
nó đã không đầu tư đủ thời gian và tâm trí đến khía cạnh đạo đức của hệ thống
này. Nếu đạo đức của chủ nghĩa tư bản không được chứng tỏ, hoặc bằng cách so
sánh nó với những thể chế khác trong thực tế hoặc dựa trên những nguyên lý căn
bản, thì khả năng sống còn của nước Mỹ tự do thật sự sẽ còn rất nhỏ.
Vấn
đề đạo đức của chủ nghĩa tư bản
Thật
ra, điều chính yếu nhất đáng để tranh biện cho nền kinh tế tự do không phải vì
hiệu quả kinh tế phi thường của nó trong việc làm gia tăng của cải và phúc lợi
kinh tế, mà đúng hơn là vì chủ nghĩa tư bản nhất quán với những nguyên tắc đạo
đức căn bản của cuộc sống. Đây là điều chúng ta cần nắm rõ. Những nguyên tắc
này bao gồm: tôn trọng giá trị và cá tính của mỗi cá nhân; không tìm cách điều
khiển con người như những vật thể mà công nhận những quyền và giá trị của họ,
và sử dụng phương cách thuyết phục và tự nguyện trao đổi hơn là ép buộc và vũ lực.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản cạnh tranh phát triển dựa trên những nguyên tắc không
xâm hại đến quyền tự do của con người.
Điều
kiện những trao đổi trong hệ thống thị trường dựa trên tư hữu phải có tính tự
nguyện đảm bảo rằng quyền tự chủ về tinh thần và vật chất của con người được bảo
vệ khỏi sự tấn công bằng bạo lực của kẻ khác. Bạo lực không được chấp nhận
trong quan hệ giữa người với người trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Tự do cá
nhân, và do đó tự do kinh tế và chính trị, không phải là thứ “không can hệ gì đến
đạo đức”, mà là một điều kiện cần thiết cho đạo đức. Sử dụng bạo lực để chống lại
những cá nhân khác là một hành động khước từ yếu tố cơ bản nhất của quyền tự
do, sự an toàn và tài sản của con người, và điều này đi ngược với nguyên tắc đạo
đức. Đạo lý sống đòi hỏi con người phải được hành động và lựa chọn mà không bị
đe doạ và cưỡng ép từ bên ngoài. Friedrich Hayek nhắc nhở chúng ta về những điều
kiện căn bản cụ thể cho đạo lý sống: “Chỉ khi nào con người có quyền chọn lựa,
và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình, thì họ mới có dịp để khẳng định những
giá trị hiện hữu, để góp phần làm cho những giá trị đó tiếp tục thăng hoa, và để
trở thành người có phẩm hạnh đạo đức.” Tính đạo đức của quyền lựa chọn ngầm giả
định về quyền tự do nhất thiết phải có để thực thi những bổn phận của chúng ta.
Hệ
thống thị trường tự do, nơi cho phép sự trao đổi tự nguyện và cùng có lợi, nhất
quán với quyền tự do lựa chọn, và vì thế, tạo ra môi trường tốt nhất để hành đạo,
theo đó việc theo đuổi tín ngưỡng cá nhân được tôn trọng. Hayek, khi cảnh báo
chúng ta về những hệ quả xấu của hệ thống kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa, đã viết
trong cuốn the Road to Serdom [Đường về nô lệ] rằng, chỉ:
“…
khi nào chúng ta chịu trách nhiệm cho những quyền lợi của chính mình … thì khi
đó quyết định của chúng ta mới có giá trị đạo đức. Quyền tự do chấn chỉnh hành
vi của mình trong một môi trường mà những hoàn cảnh vật chất bắt buộc chúng ta
phải chọn lựa, và trách nhiệm trong việc điều chỉnh cuộc sống bản thân theo
đúng lương tâm chúng ta, là môi trường duy nhất cho phép ý thức đạo đức được
phát triển và cho phép những giá trị đạo đức được tái tạo hằng ngày bởi quyền
được tự do quyết định của mỗi cá nhân. Bổn phận phải gánh chịu những hậu quả từ
những quyết định của chính bản thân mình là tính chất cốt yếu của bất kỳ hệ thống
luân lý hằng được biết đến nào.”
Người
ta liên tục khẳng định rằng những yếu tố duy vật chất của chủ nghĩa tư bản là
phi luân lý. Tuy nhiên, thật sai lầm khi đổ lỗi cho một hệ thống xã hội là quá
quan tâm đến vật chất đơn giản chỉ vì người dân trong xã hội đó được tự do quyết
định theo đuổi những mục đích mình muốn.
Việc
đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản là duy vật chất đã đi lạc đề. Đa số đều đồng ý rằng
chủ nghĩa tư bản lập kỷ lục trong việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả. Điều
quan trọng đáng lưu ý nữa là có rất ít người bị nghèo đói dưới thể chế này. Nếu
đem so sánh thì chủ nghĩa xã hội đều thất bại trong cả hai việc trên. Tuy thế,
người ta vẫn phải thừa nhận rằng sự dồi dào vật chất là một trong những nhân tố
tích cực của cuộc sống. Trong đa số các xã hội mà ta biết đến, chỉ có một bộ phận
nhỏ không quan tâm đến phát triển kinh tế và hưởng thụ vật chất. So với các nền
kinh tế thị trường, những quốc gia xã hội chủ nghĩa thiên hữu hoặc thiên tả chú
trọng ngang bằng hoặc thậm chí nhiều hơn đến việc phát triển kinh tế, đến sản
xuất công nghiệp, và cả sự hi sinh cá nhân để theo đuổi những mục tiêu vật chất.
Thật
không may cho những người không muốn theo định hướng vật chất trong những xã hội
được kế hoạch hoá, chẳng hạn như những người ước mong có một cuộc đời ẩn dật,
thề nguyện khổ hạnh, hoặc theo đuổi một mục đích tâm linh: họ bị kỳ thị. Tự do
có vẻ còn quan trọng hơn đối với thiểu số những người không theo đuổi mục tiêu
vật chất so với những người theo đuổi nó. Chỉ trong một chính thể phân quyền,
đa nguyên, tư hữu thì những quyền lợi bất khả xâm phạm của những người ấy mới
được đảm bảo. Bất kể những mục đích gì của con người, cho dù chúng thiên về phẩm
hạnh, vật chất hoặc gì đi nữa, dường như thị trường tự do vẫn là phương cách
nhân bản nhất mà loài người đã tìm được để đối phó với những vấn đề kinh tế
liên quan đến việc phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả trong điều kiện khan hiếm.
Những
tác dụng nhân bản của tự do
Một
trong những tiến bộ vĩ đại của một hệ thống xã hội đặc trưng bởi sự hợp tác xã
hội thông qua việc trao đổi vì lợi ích của nhau là nó tạo ra cơ hội và mở rộng
phạm vi cho sự đồng cảm, từ thiện, và tình người. Thật vậy, học giả của chủ
nghĩa tự do cá nhân (libertarian) Murray Rothbard nhắc nhở chúng ta rằng “… những
cảm nhận về tình bằng hữu và sự san sẻ có vẻ lại là những hệ quả của một chế độ
dựa trên hợp tác xã hội bằng hợp đồng thay vì là nguyên nhân hình thành chế độ
đó.” Mỗi cá nhân có một đặc điểm riêng. Trong nghĩa đó, để ai đó nói rằng cái
gì sẽ hoặc không đem đến hạnh phúc cho một người khác là một điều hết sức khó
khăn.
Lẽ
tự nhiên là khi ta không đồng ý với một hành động của ai đó, ta có xu hướng muốn
cứu vớt kẻ ấy ra khỏi vũng lầy. May mắn là chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng ủng
hộ những ai tôn trọng tính bất khả xâm của quyền tự quyết của người khác bởi vì
nó tôn trọng và củng cố những quyền sở hữu tư nhân. Sự suy thoái những qui ước
hữu ích cho xã hội, cùng với sự phá huỷ nền tảng đạo đức mà con người đã trải
nghiệm trong thời gian gần đây phần nào là hậu quả của việc chúng ta chuyển hướng
suy nghĩ từ trách nhiệm cá nhân sang trách nhiệm xã hội. Khi người ta được bảo
rằng hành vi và tác động [xấu] của họ không phải là do lỗi của chính họ thì
hành vi [cá nhân] được bào chữa, xã hội bị kết án, và chính phủ được xem là cơ
quan duy nhất có thể giải quyết được vấn nạn này.
Đạo
đức nghề nghiệp, được khuyến khích bởi chế độ tư hữu, là biểu trưng cho nguồn gốc
quan trọng của trách nhiệm đạo đức; và nó cũng liên tục nhắc nhở chúng ta rằng
những hành động của chúng ta luôn có giá của chúng. Những thành tố cốt lõi của
một trật tự thị trường tự do định ra một hệ thống thể chế xã hội nhằm khuyến
khích sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cá nhân vì mình và vì mọi người. Tương phản
với tất cả những chế độ kinh tế khác, chủ nghĩa tư bản cạnh tranh hoạt động dựa
trên một hệ thống luật pháp khuyến khích sự tôn trọng lẫn nhau với những người
mà ta tiếp xúc.
Cái
quá trình mà trong đó chúng ta thoả mãn được những đòi hỏi vật chất của mình
thông qua hợp tác xã hội không làm kiệt quệ những mục tiêu riêng mà mỗi cá nhân
đang theo đuổi. Việc theo đuổi hạnh phúc riêng tư và sự bình an nội tâm phải được
khám phá bởi chính cá nhân ấy. Nói chung, dưới thể chế tư hữu và tự do kinh doanh
những mối quan hệ xã hội của loài người ổn định hơn nhiều. Khoảng thời gian giữa
những cuộc chiến tranh của Napoléon và Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, thời kỳ
thịnh vượng của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, đã cho thấy một thế kỷ ít nhiều
không có sự hiện diện tàn bạo của chiến tranh. Hơn thế nữa, chủ nghĩa tư bản cạnh
tranh là hệ thống xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã nhắm vào ước vọng
làm giàu của mỗi cá nhân bằng cách cung cấp nhiều hàng hoá và dịch vụ cho những
cá nhân khác một cách hoà bình.
Sự
tiến triển của thị trường tự do đã rất thành công trong việc nâng cao đời sống
của tầng lớp lao động và người nghèo. Đáng tiếc là không có giải pháp thay thế
cho việc chu cấp cho những đòi hỏi của con người thông qua trao đổi tự nguyện
ngoài việc điều khiển vận mệnh của họ bằng bạo lực. Bất cứ nơi nào mà chủ nghĩa
xã hội chiếm ưu thế, nó luôn tìm cách hạ thấp điều kiện sống của mọi người dân
và làm cho đa số quần chúng bị thống trị bởi một thiểu số đặc quyền. Một đất nước
xã hội chủ nghĩa thiên hữu hoặc thiên tả, chỉ trừ một số ít trường hợp cá biệt,
là một thể chế độc tài toàn trị mà trong đó những quyền tự do cá nhân và dân sự
biến mất và một hình thức nô lệ được khai sinh.
Chủ
nghĩa tư bản và tôn giáo
Đạo
đức và công lý của hệ thống tư bản chủ nghĩa dựa trên mối tương quan mật thiết
giữa tư hữu, thoả thuận tự nguyện, và chủ quyền của một cá nhân đối với vận mệnh
của mình. Chúng ta có khuynh hướng coi khái niệm giá trị cá nhân là cái gì đó
hiển nhiên, nhưng trên thực tế, sự quan tâm về quyền lợi cá nhân trở thành hiện
thực chỉ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Thật ra, thị trường tự do không những
không làm mất đi nhân tính của một con người, mà còn cho phép anh ta phát triển
đầy đủ tính cách cá nhân của mình. Lương tâm con người và vai trò của nó trong
việc nhận thức thiện và ác, vốn được xác nhận trong thời kỳ man khai của Thiên
chúa giáo, đã thăng hoa dưới thể chế tư bản cạnh tranh.
Thời
kỳ “bình minh của lương tâm”, cột mốc lịch sử mà trong đó những cá nhân ban đầu
đấu tranh để được tự do về đạo đức và từ đó chịu trách nhiệm cho hành vi của
mình, đã xuất hiện trước tiên tại Ai Cập và sau đó được người Do Thái vay mượn
và phát triển. Sau đó Chúa Jesus và Thánh Paul đưa ra quan điểm công nhận cá
tính riêng biệt của mỗi con người. Điều quan trọng là giải thích này đại diện
cho quan điểm cá nhân chủ nghĩa về con người, nó khẳng định rằng linh hồn của mỗi
cá nhân là thứ quan trọng nhất. Thiên chúa giáo đã tạo ra một môi trường trong
đó để được cứu rỗi, các cá nhân được tự do lựa chọn theo ý mình.
Thiên
chúa giáo không những khám phá ra rằng linh hồn của mỗi cá nhân đáng được cứu rỗi,
nó còn đưa ra khái niệm “pháp trị.” Mối quan tâm về khái niệm pháp luật cũng đã
chứng tỏ rằng điều này rất quan trọng trong việc phát triển khái niệm tự do sở
hữu và khế ước đất đai trong các nước phương Tây. Phải công nhận rằng những
đóng góp này chủ yếu chỉ để bảo vệ tài sản của nhà thờ khỏi quyền lực của Nhà
nước thế tục. Nhưng qua thời gian, những nguyên lý của “pháp trị” và quyền tư hữu
tài sản đã phát triển mạnh mẽ trong quan hệ giữa người và người. Có một mối
liên hệ rõ nét và khăng khít giữa nền đạo đức của Do Thái – Ki Tô và nền kinh tế
thị trường tự do. Mối liên hệ này dựa trên quan điểm chính thức về vị trí trung
tâm của cá nhân trong việc phân tích những mối quan hệ xã hội.
Hệ
thống thị trường mở và tự do gần như là một môi trường hoàn hảo, hay ít ra là một
bước tiến đảm bảo cho con người có được tự do ý chí. Nó cho phép người ta có thể
thực hành hành vi đạo đức. Một người có thể học cách sửa đổi hành vi của mình
chỉ khi nào người ấy được phép phạm sai lầm và hi vọng sẽ học hỏi từ những sai
lầm ấy. Nói cho cùng, người ta sẽ khôn ra sau khi phạm phải sai lầm. Điều đáng
tiếc là khi ảnh hưởng của chính phủ đối với cuộc sống người dân càng nhiều, thì
cơ hội cho việc rèn luyện năng lực đạo đức một cách tự do càng ít đi.
Bản
thân xã hội không thể có hoặc không có đạo đức; chỉ có cá nhân là phần tử có đạo
đức. Dựa theo lập luận của Arthur Shefield, ta thấy rằng trong một hệ thống
kinh tế, “. . . nếu những đặc điểm cốt yếu của nó quả thực nuôi dưỡng hay
củng cố hành vi cá nhân có đạo đức hoặc vô đạo đức, [thì] . . . hệ thống đó kết
cục hoặc là một hệ thống có đạo đức hoặc là một hệ thống vô đạo đức.” Chủ nghĩa
tư bản cạnh tranh, dưới chế độ pháp trị, tích cực nuôi dưỡng hành vi có đạo đức
và vì thế nó kết cục có thể sẽ là một xã hội có đạo đức. Khi những quyền tư hữu
công bằng được bảo vệ, khi những cam kết được đảm bảo thực thi, và khi pháp trị
được áp dụng, thì “bản chất tự nguyện trong những giao dịch tư bản chủ nghĩa sẽ
thúc đẩy chúng ta tôn trọng người khác.”
Đạo
đức và thị hiếu cá nhân
Dĩ
nhiên ta không thể biện luận rằng nền tư bản cạnh tranh luôn phát sinh những
giá trị và tư cách mà ai ai cũng đồng ý. Dù thế, việc quan trọng là chúng ta có
lòng khoan dung đối với loại hành xử được cho là “không thể chấp nhận được”,
không ai ưa thích hoặc khó chịu miễn là nó không phương hại ai. Một cá nhân
không nên vi phạm điều mà nhà xã hội học vào thế kỷ XIX Herberd Spencer gọi là “điều
luật tự do bình đẳng,” trong đó nói rằng “. . . một người có quyền tự do
làm bất cứ điều gì mình muốn, miễn là anh ta không xâm phạm đến quyền tự do
tương tự của người khác.” Vì thế những hành xử một cách hoà bình, bất bạo lực của
con người thì không phải là một tội lỗi. Những ai thật sự tin yêu tự do phải phản
đối những hành động cưỡng ép mà trong đó nó phủ nhận khả năng sống một cuộc đời
đạo đức bằng cách ngăn cản quyền tự do lựa chọn mà đạo đức yêu cầu. Vì sự khác
biệt của con người và những mục đích khác nhau mà họ theo đuổi, chúng ta phải
chấp nhận những hành động được cho phép trong một xã hội tự do dù chúng gây khó
chịu đối với thị hiếu cá nhân.
Lysander
Spooner, một người đấu tranh đầy nhiệt huyết cho quyền tự do cá nhân trong thế
kỷ XIX, đã thấy được một đặc điểm quan trọng: hành vi xâm phạm và/hoặc dùng bạo
lực đối với thân thể hoặc tài sản của một cá nhân khác hẳn với hành vi,
“. . . trong khi có thể là vô đạo đức theo quan niệm chung, nhưng lại phải được
phép tự do nảy nở, và thậm chí cần được luật pháp bảo vệ.” Không thể có được đạo
đức ngoại trừ con người được tự do lựa chọn những hướng đi khác nhau mà không bị
kẻ khác ép buộc. Nhà nhân văn học vĩ đại Albert Schweitzer đã nói rằng văn minh
nhân loại chỉ có thể phục hồi khi một số người có thể phát huy một nếp nghĩ mới
độc lập và trái ngược với trào lưu chung của số đông còn lại – một quan điểm sẽ
dần chiếm ảnh hưởng đối với nếp nghĩ chung và từ đó đi đến xác định vị trí của
nó.
Chỉ
có phong trào bắt nguồn từ một quan điểm đạo đức cách tân mới có thể cứu rỗi
chúng ta khỏi việc trượt dài đến chủ nghĩa tập thể. Như là một điều kiện cần,
quan điểm đạo đức cách tân sẽ trở thành hiện thực chỉ nhờ sự lựa chọn
cá nhân. Một lần nữa, chúng ta lại xác định được rằng chỉ có nền kinh tế thị
trường tự do với hệ thống tư hữu và tự nguyện trao đổi mới có thể phát huy tối
đa tiềm năng để sống một cuộc đời đạo đức.
Những
tác động và hệ quả của quá trình cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản nói chung đồng
nhất với trật tự đạo đức. Nhưng ngay cả khi chúng không nhất quán, việc phản đối
những hạn chế mang tính cưỡng bức đối với những hành xử của con người không vi
phạm qui luật tự do bình đẳng vẫn cực kỳ quan trọng. Phong cách sống đa dạng và
quan điểm khác biệt là một trong những lý luận chính của quyền tự do của con
người. Dưới thể chế tư hữu và thị trường tự do đôi khi những hành động gây khó
chịu hay thậm chí ghê tởm vẫn được bảo vệ bởi luật pháp của một xã hội tự do.
Đạo
đức và những lựa chọn khác
Nói
tóm lại, cái hệ thống được gọi là “chủ nghĩa tư bản,” một ám chỉ đầy thị phi đối
với nhiều người, chắc chắn là đồng nhất với đạo đức và công lý trong hệ thống
xã hội của chúng ta hơn bất kỳ những hệ thống nào khác mà ta biết được. Tính chất
vô đạo đức quá rõ ràng của những thể chế xã hội chủ nghĩa độc tài tại Ba Lan,
Cu Ba, Đông Đức, Trung Quốc, Liên Xô, Iran, và những thể chế phát xít cánh hữu
độc trị ở những quốc gia như Argentina và Chile, nơi mà quyền tự do căn bản nhất
của con người bị chà đạp, nơi mà hàng triệu người bị giết hại trên danh nghĩa của
một trật tự xã hội mới, đã chứng minh cho tính ưu việt của chính thể phân quyền
tự do và cởi mở.
Nghèo
đói và tàn bạo thật đáng ghê tởm. Trên bất cứ quan điểm nào, thật đau lòng khi
nhìn thấy trẻ em bị đói khát. Vậy thì chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng nền kinh tế
nào cho phép đa số dân chúng đủ ăn, tự do lựa chọn ngành nghề và mức độ độc lập
cao về tinh thần cũng như vật chất? Ở quốc gia nào người dân có cơ hội được tự
do, một tự do thật sự? Những quốc gia xã hội chủ nghĩa có đem đến tự do, năng động,
và độc lập như vậy không? Hay là trên thực tế, những quyền lợi ấy được nuôi dưỡng
trong một cơ chế xã hội của thị trường tự do, tư hữu, và chính quyền bị giới hạn?
Bên
trong những giới hạn về quyền
Những
câu hỏi trên đã được giải đáp. Liên Bang Xô Viết nói về “tự do” và “dân chủ”,
nhưng dường như họ không gặp phải khó khăn trong vấn đề nhập cư. Cộng sản Đông
Đức, bên cạnh đó, đã phải xây một bức tường bê tông khổng lồ và canh giữ nó
ngày đêm để chống lại việc dân chúng bỏ xứ ra đi. Ngay cả trong những thể chế
“dân chủ xã hội”, việc xây dựng một hệ thống yên ổn và quân bình cũng đang bị
thất bại. Trong những năm gần đây nền kinh tế đang xuống dốc của Pháp, dưới mô
hình xã hội mạnh mẽ của Mitterand, đang là trò cười cho cả thế giới. Câu chuyện
thần thoại về một xã hội utopia của Thụy Điển đã bộc lộ bản chất thật sự trong
cuốn The New Totalitarians [Những Nền Chuyên Chế Mới] của Roland
Huntford.
Frederic
Bastiat, nhà kinh tế học và phê bình xã hội nổi tiếng người Pháp trong thế kỷ
thứ XIX, đã tìm ra những đặc điểm cần thiết của một thể chế thật sự công lý và
đạo đức. Ông đã hỏi một câu hỏi vô cùng quan trọng:
“.
. . người dân ở nước nào thì đạo đức nhất, hoà bình nhất và hạnh phúc nhất? Ta
thấy những người dân này sống trên những đất nước có nền luật pháp ít can thiệp
nhất vào vấn đề riêng tư; nơi chính quyền có ảnh hưởng ít nhất; nơi mà cá nhân
phát huy được hết khả năng của mình, và được tự do bày tỏ chính kiến đối với thế
lực lớn nhất; nơi quyền lực quản lý ở mức tối thiểu và đơn giản nhất; nơi có
chính sách thuế nhẹ nhất và hầu như là công bằng; . . . nơi những cá nhân và tổ
chức tích cực nhất gánh vác trách nhiệm của mình, và vì thế mà đạo đức của . .
. con người liên tục tiến triển; nơi thương mại, đoàn thể, và hiệp hội ít bị giới
hạn nhất; . . . nơi hầu hết con người theo đuổi xu hướng tự nhiên của họ; . . .
nói tóm lại, những người hạnh phúc nhất, đạo đức nhất và ôn hoà nhất là những
người hầu như đều đi theo một nguyên tắc: Mặc dù nhân loại không hoàn hảo, mọi
niềm hi vọng đều dựa trên những hành động tự do và tự nguyện của con người bên
trong những giới hạn nhất định về quyền; luật pháp hoặc bạo lực không được dùng
đến trừ phi để thi hành công lý chung cho mọi người.”
Vì
hiểu rằng vấn đề chúng ta đưa ra về nền tảng đạo đức của chủ nghĩa tư bản cần
phải tiếp tục tinh lọc, ta hãy tìm hiểu lời dạy của Thánh Augustine. Ngài lập
luận rằng sự sung túc vật chất không nhất thiết sẽ đem lại những lựa chọn tốt
hơn, một giá trị đạo đức cao cả hơn, hoặc nhiều hạnh phúc hơn. Đề cập đến trái
đất và tình trạng khó khăn của con người, Ngài viết: “Những gì cõi địa giới
mong muốn không thể bị coi là xấu xa, vì trong bản chất cõi địa giới cũng đã tốt
đẹp hơn những sản phẩm khác của con người. Vì rằng cõi địa giới mong muốn một sự
bình an thế tục để tận hưởng những sản phẩm thế tục. Con người có quyền theo đuổi
những thứ này, vì chúng là những thứ tốt đẹp, và không còn gì nghi ngờ, chúng
là món quà từ Thượng đế. Nhưng còn có những thứ tốt đẹp hơn và chúng ở cõi địa
đàng và được bảo vệ bởi sự vinh hiển muôn đời và nền hoà bình vô tận.” Loại giá
trị đạo đức ấy nằm giữa mỗi cá nhân và Thượng Đế của anh ta. Việc được cứu rỗi
lại là một vấn đề khác.
Sự
hưng phấn khi tìm hiểu tự do
Bỏ
qua những lập luận của Bastiat, Hayek, Shenfield và những người khác, một câu hỏi
lý thú và quan trọng cần được nêu lên. Tại sao một cơ chế xã hội đã tạo ra những
điều kiện sống ngày càng cao chưa từng thấy trong lịch sử của những quốc gia ứng
dụng những nguyên tắc trên, và đồng thời cũng đã xoá đi tính bất nhân giữa người
với người bằng uy lực của nó, lại chiếm một vị thế thấp kém trong suy nghĩ của
hàng triệu con người? Hayek đã rất đúng khi ông nhấn mạnh rằng chúng ta một lần
nữa phải biến việc nghiên cứu về tự do trở thành một đề tài trí tuệ đầy cảm hứng.
Không chỉ vì những lý do kinh tế, triết lý hoặc lịch sử mà là vì hàng tỉ người
dù biết hay không, ít nhất họ phải hiểu rằng tư tưởng có những hệ lụy của
chúng, và đời sống của họ sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những gì các triết gia
viết ra. “Tự do,” Alexis de Tocqueville nói, “không thể có nếu như không có đạo
đức, cũng giống như không thể có đạo đức nếu như không có đức tin.”
Nếu
nước Mỹ muốn tồn tại, những nhân tố hiện đại đầy thuyết phục của nó phải được
liên kết với những gì mà Russell Kirk gọi là “những vấn đề vĩnh cửu,” và George
Nash gọi là “. . . những vấn đề tâm linh và những thể chế nuôi dưỡng chúng.”
Nguồn:
doimoi.org