Bối cảnh chính trị và tư tưởng
Tiểu luận Bàn
về tự do (1859) của John Stuart Mill, cùng với tác phẩm Areopagitica
của Milton được nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị, George Sabine, miêu
tả như là một trong những sự bảo vệ kinh điển nhất đối với sự tự do trong ngôn
ngữ Anh. Chắc chắn nó cung cấp một trong những sự trình bày hùng hồn nhất và trứ
danh nhất đối với tự do cá nhân trong toàn bộ truyền thống tự do của Phương
tây. Do đó, không ngạc nhiên khi từ lúc xuất bản vào năm 1859, tác phẩm của
Mill trở thành tài liệu tham khảo không thể thiếu trong cái buổi thảo luận về bản
chất và phạm vi của tự do cá nhân trong lĩnh vực lịch sử tư tưởng chính trị.
Mối quan tâm chính trong tác phẩm Bàn về tự do là sự đe dọa đối với tự do
cá nhân nhưng không phải xuất phát từ chính quyền, hay các chế độ chính trị độc
tài mà từ môi trường công luận không khoan dung và có tính áp đặt ở Anh vào giữa
thời Victoria. Do đó, theo lời của Sabine, tiểu luận của Mill là:
Mối bận tâm này, vốn thấm đẫm trong tác phẩm Bàn về tự do, cần được xem xét trong bối
cảnh của các ảnh hưởng trí tuệ định hình tiểu luận đó và của các tác phẩm khác
của Mill. Nó cũng cần được xem xét dựa vào bối cảnh của các mối quan tâm chính
trị lớn trong thời đại ông sống.
Khi còn là một đứa trẻ, John Stuart Mill đã trải qua
một chế độ giáo giục rất khắt khe của cha ông, Jame Mill. Sự giáo dục nghiêm ngặt
này, chẳng hạn như Mill phải học tiếng Hilap cổ lúc ba tuổi, vốn được thiết kế
bởi cha ông nhằm đào tạo để ông trở thành lãnh đạo tư tưởng không chỉ của
trương phái triết học công lợi mà còn của phong trào chính trị cấp tiến mà sau
này được gọi là Phong trào cấp tiến triết học, vốn bắt nguồn từ trường phái này.
Thuyết công lợi là một trường phái trong triết học đạo đức mà Jeremy Bentham
(1748 – 1832), một người bạn và đồng nghiệp của Jame Mill, là người biện hộ
chính. Được phát triển vào cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19, và nổi bật nhất
trong tác phẩm Các nguyên tắc của đạo đức
và lập pháp (1789) của Bentham, thuyết công lợi là học thuyết cho rằng, thứ nhất, các cá nhân là các tồn tại tư
lợi và duy lý, bị thúc đẩy bởi các ước muốn đạt được hạnh phúc hay sự hài lòng
và tránh xa sự không hạnh phúc hay sự đau đớn; và thứ hai, “tính đúng đắn” về mặt đạo đức của một hành động của con
người phải được đo bằng xu hướng gia tăng hạnh phúc hay sự hài lòng. Ngoài ra,
khi áp dụng ở cấp độ xã hội, thuyết công lợi cho rằng con người, ngoài các động
cơ như lòng khoan dung hay sự đồng cảm, phải hướng đến việc thúc đẩy hạnh phúc
chung, hay là “hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất”, như ông gọi nó. Do đó,
các thiết chế, luật pháp, và chính sách của xã hội, trên tất cả, được đánh giá
trên cơ sở xu hướng thúc đẩy các mục tiêu đáng mong muốn đó.
Trên cơ sở triết học công lợi này, nhóm chính trị
sau này được biết đến như là Trường phái cấp tiến triết học đã lấy cảm hứng trí
tuệ từ Bentham và Jame Mill. Họ tin rằng, theo các nguyên tắc công lợi, không
chỉ tất cả mọi cá nhân phải tối đa hóa hạnh phúc và sự thịnh vượng riêng của
mình, mà mục đích cao nhất của chính quyền là thúc đẩy hạnh phúc chung. Do đó,
mối quan tâm chính của Trường phái cấp tiến triết học là phản đối chế độ chính
trị quý tộc, và ủng hộ các thay đổi thể chế và các cải cách luật pháp và xã hội
một cách cấp tiến. Tất cả những điều này đòi hỏi thiết lập một hệ thống dân chủ
đại diện dựa trên các bầu cử rộng rãi, định kì (và cuối cùng là bầu cử phổ
thông). Do đó Trường phái cấp tiến triết học đề nghị một sự biện minh cho các
phong trào cải cách diễn ra vào đầu thế kỉ 19 vốn tìm kiếm thúc đẩy sự chuyển
tiếp từ các chế độ cai trị quý tộc truyền thống tới các hệ thống dân chủ hiện đại
vận hành cùng với nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, khoảng những năm 1830, John Stuart Mill
ngày càng trở nên nghi ngờ về khả năng của bầu cử phổ thông và cai trị đa số
như là phương tiện hữu hiệu đảm bảo cho một chính quyền tốt. Tuy nhiên, ông vẫn
cam kết với ý tưởng về nền dân chủ đại diện, dẫn đầu một nhóm nhỏ gồm các chính
trị gia và nhà báo cấp tiến theo đuổi mục tiêu đó thông qua các phương pháp nghị
viện.
Cùng thời gian đó, ông trải qua một sự mâu thuẫn
ngày càng gia tăng giữa lối giáo dục theo kiểu công lợi của cha ông và sự ảnh hưởng của các truyền thống tư tưởng
khác đối với ông. Điều này làm cho ông bị suy nhược thần kinh vào năm 1826, lúc
ông 20 tuổi. Tuy nhiên, theo sau sự hồi phục của ông, và cái chết của cha ông
mười năm sau đó, cuối cùng Mill bắt đầu phát triển một cách tiếp cận của riêng
ông đối với các vấn đề đạo đức và chính trị. Điều này liên quan đến việc ông xem
xét lại các giả định trung tâm của tư tưởng công lợi. Thứ nhất, ông xem việc theo đuổi hạnh phúc cá nhân là một tiêu chuẩn
chứ không phải là
mục đích trung tâm của các hành động đạo đức, tức xem nó là kết quả của việc theo đuổi một
số lý tưởng khác. Do vậy, ông đặt lại vấn đề đối với niềm tin công lợi của Bentham, niềm tin cho rằng việc tìm
kiếm sự hài lòng vị kỉ là động cơ phổ quát của con người, hay là nguyên tắc giải
thích đầy đủ hành vi của cá nhân và xã hội. Thứ
hai, Mill cũng điều chỉnh tư tưởng công lợi bằng cách gắn một tầm quan trọng
lớn hơn Bentham đã làm không chỉ đối với các động cơ vị tha mà còn với các ý tưởng khác, chứ không chỉ đơn thuần tối đa sự hài lòng trực
tiếp.
Khi điều chỉnh lại thuyết công lợi trong những ngày
này, Mill đã phát triển một khái niệm rộng rãi hơn và tiến bộ hơn về bản chất
và động cơ của con người. Khi làm như vậy, ông bị ảnh hưởng bởi các nhà văn
lãng mạn như Samuel Coleridge (1772-1834), người đã thách thức thuyết duy lý hạn
hẹp của nhiều nhà tư tưởng khai sáng thế kỉ 18, khi khẳng định các ý tưởng về sự
tự phát triển và tự hiện thực
hóa. Ngoài ra, Mill cũng chịu ảnh hưởng từ tư tưởng xã hội học của Auguste
Comte (1789 – 1857), và các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Anh và Pháp thời
kì đầu. Tuy nhiên, ông tiếp tục tán thành chủ nghĩa cá nhân của Locke và
Bentham, xem cá nhân có trước xã hội, và tin rằng chức năng cơ bản của chính
quyền là bảo vệ các mục tiêu và lợi ích của cá nhân.
Trong một trừng mực nào đó, kết cấu của tác phẩm Bàn về tự do của Mill, và sau đó là tác
phẩm Sự lệ thuộc của Phụ nữ (1869),
chịu ảnh hưởng quan trọng từ
mối quan hệ của ông với Harriet Taylor, một phụ nữ có chồng mà Mill bắt đầu yêu
từ những năm 1830, và cuối cùng họ đã kết hôn hai mươi năm sau đó, ngay sau khi
chồng bà qua đời.
Ở vào tuổi năm mươi, Mill đã có một sự chi phối tư
tưởng vô song trong đời sống cộng đồng ở Anh – như là một triết gia đạo đức, một
nhà kinh tế học, và một nhà tư tưởng chính trị. Trước khi xuất bản tác phẩm Bàn về tự do (1859), các tác phẩm khác của
ông như Các hệ thống Logic (1843) và Các nguyên tắc của kinh tế chính trị (1848)
đã là sách giáo khoa được sử dụng trong các trường Đại học ở Anh. Tiểu luận Các nghiên cứu về chính thể đại diện
(1861) chúng tỏ nó là một tác phẩm có ảnh hưởng lớn đối với tư tưởng dân chủ của
các thế hệ kế tiếp, trong khi tiểu luận ngắn Thuyết công lợi (1863) có ảnh hưởng quan trọng đối với các tranh luận
trong triết học đạo đức cho tới tận ngày nay.
Quan tâm chính của Mill trong tác
phẩm Bàn về tự do
Mở đầu tác phẩm Bàn
về tự do Mill nhận xét rằng trong suốt lịch sử tư tưởng chính trị ý tưởng về
tự do thường được giải thích như có nghĩa là “bảo vệ chống lại sự chuyên chế của
tầng lớp cai trị”. Sự bảo vệ đó thông qua hai công cụ đặc biệt: hoặc với sự khẳng
định một số quyền tự do nào đó của cá nhân mà chính quyền không thể xâm phạm;
hoặc với cơ chế kiểm soát về mặt thể chế đối với chính quyền bởi người dân hoặc
người đại diện của họ. Tuy nhiên, trong Bàn
về tự do, Mill nói rõ rằng mối bận tâm chính của ông trong tiểu luận là sự
đe dọa của sự chuyên chế của đa số, không được thực hành bởi các thiết chế của
chính quyền, mà được thi hành bởi
chính xã hội.
Do đó, trong Bàn
về tự do Mill quan tâm đến việc bảo vệ cá nhân khỏi cái mà ông gọi là “sự
chuyên chế của quan điểm và tình cảm đang thịnh hành”. Theo quan điểm của Mill,
dạng chuyên chế đó, được thực hành bởi “xã hội đối với các cá nhân của nó” thậm
chí còn áp bức hơn nhiều dạng áp bức chính trị khác. Vì không có sự bảo vệ về mặt
thể chế chống lại sự áp bức của tập tục xã hội vốn hiện diện khắp nơi. Do đó, Mill tuyên bố là “sự chuyên chế
của xã hội để lại rất ít phương tiện để thoát khỏi, nó đi sâu hơn vào mọi ngóc
ngách của cuộc sống, và nô lệ chính tâm hồn”.
Ngoài ra, sự chuyên chế này của công luận được Mill
thấy là quá nguy hiểm cũng như có phạm vi quá rộng bởi vì nó đè nén cá tính của
mọi người, bóp chết tính năng động và khả năng để phát triển sở thích và tiềm
năng riêng của họ. Kết quả là, như Mill nhận xét:
“…Hiện tại cá
nhân biến mất vào đám đông. Trong chính trị, việc nói rằng hiện nay công luận
cai trị thế giới là điều quá thừa thãi…”
Theo ông, một sức mạnh như vậy sẽ thúc đẩy sự tuân
thủ một cách ngu dốt và các định kiến xã hội.
Đối diện với tính nghiêm trọng của mối nguy hại này,
Mill kết luận rằng:
“Do đó, sự bảo vệ
chống lại sự chuyên chế của người cai trị là không đủ; mà cũng cần có sự bảo vệ
chống lại sự chuyên chế của các quan điểm và tình cảm đang thịnh hành; chống lại
xu hướng xã hội áp đặt các ý tưởng như là quy tắc của hành vi đối với những ai
bất đồng với nó thông qua các phương tiện khác ngoài các hình phạt dân sự…”
Vào giữa thời đại Victoria ở Anh, khoảng những năm
1850 và 1860, Mill thấy rằng nhu cầu bảo vệ những cá nhân chống đối hoặc không
theo khuân mẫu khỏi môi trường không khoan dung và áp bức là vấn đề cấp thiết
nhất của thời ông. Bên cạnh việc phê phán các thái độ quý tộc, Mill cũng phê
phán quan điểm của lực lượng trung lưu đang lên mà ông xem như thô lỗ, nửa vời,
thường được nhân cách hóa bởi các nhà công nghiệp, mục sư, và các chủ đất, vốn
có xu hướng khủng bố các cá nhân có các quan điểm và sở thích khác thường và
ngăn cản các cải cách xã hội nhạy cảm.
Do đó để bảo vệ các cá nhân không theo khuân mẫu khỏi
sự chuyên chế của công luận, trong Bàn vệ
tự do Mill tìm cách thiết lập các
nguyên tắc duy lý phổ quát mà sẽ phân chia lĩnh vực của các hành vi cá nhân
trong đó cá nhân được tự do hành động như họ lựa chọn mà không chịu sự can thiệp
của nhà nước hay xã hội. Các nguyên tắc như vậy sẽ được sử dụng, thứ nhất, để xác định các ranh giới
thích hợp giữa sự tự do cá nhân và sự can thiệp của tập thể và, thứ hai, bảo vệ cá nhân, trong một số
lĩnh vực của hành vi, khỏi sự đè nén của xã hội và sự kiểm soát của chính quyền.
Với những mục đích cơ bản này, Mill trình bày trong Chương
1 của tác phẩm Bàn về tự do như sau:
“Mục đích của tiểu
luận này là khẳng định một nguyên lý hết sức đơn giản …đó là mục đích duy nhất
mà con người được phép, cả trên phương diện cá nhân lẫn tập thể, can thiệp vào
sự tự do hành động của bất cứ thành viên nào của nó là sự tự bảo vệ. Đó là mục
đích duy nhất mà quyền lực có thể thi hành hợp pháp đối với bất cứ thành viên
nào của một cộng đồng văn minh, chống lại ý chí của anh ta, để ngăn chặn sự tổn
hại của người khác. Lợi ích của riêng anh ta, cả về thể xác lẫn đạo đức, là
không đủ để bảo chữa cho sự can thiệp như vậy.”
Mill quan tâm tới việc xem xét lại và mở rộng quan
điểm về tự do vốn nằm ở trung tâm của học thuyết tự do cổ điển của thế kỉ 19.
Ông làm điều này bằng cách mở rộng lĩnh vực tự do lựa chọn của cá nhân trên phạm
vi xã hôi, đi ra ngoài những
sự
dàn xếp đơn thuần về kinh
tế và chính trị để bảo vệ cá nhân khỏi các chế độ độc tài hoặc khỏi sự can thiệp
của nhà nước vào các hoạt động kinh tế tư nhân.
Quan điểm của Mill về tự do
Khi phát triển định nghĩa riêng của mình về tự do,
Mill bắt đầu với khái niệm tiêu cực về tự do như sau: sự tự do của cá nhân để
làm những gì mình muốn mà không chịu sự can thiệp của người khác. Quan điểm này
về tự do có cơ sở trong niềm tin là con người cá nhân có khả năng tự do lựa chọn.
Con người là một tác nhân tự trị, tự do thực hành sự kiểm soát tối cao đối cuộc
sống của anh ta.
Tuy nhiên, từ quan điểm tự do cổ điển này, Mill đi đến
một quan niệm tích cực hơn về tự do, tự do là sự tự phát triển của con người.
Vì theo ông, tự do không đơn thuần bao gồm khả năng không bị cản trở để làm điều
gì mình muốn. Mà ông thấy tự do là điều kiện không thể thiếu cho sự tự phát triển
về mặt đạo đức, trí tuệ và văn hóa của con người và từ đó hiện thực hóa tính
cách của mình.
Nhà nghiên cứu lịch sử của các ý tưởng, Isaiah
Berlin, miêu tả quan điểm hai mặt về tự do của ông như sau:
“Mill tin vào tự
do, tức là, các giới hạn nghiêm ngặt đối với quyền cưỡng ép, bởi vì ông chắc chắn
rằng con người không thể phát triển và thịnh vượng, và trở thành con người hoàn
thiện nếu họ không được tự do trong một lĩnh vực tối thiểu nào đó trong cuộc sống
của họ khỏi sự can thiệp của người khác, lĩnh vực mà ông xem như là không thể
xâm phạm.”
Hơn nữa, khi đi trình bày tỉ mỉ sự bảo vệ của ông đối
với tự do cá nhân, Mill không dựa vào lý thuyết của Locke về quyền tự nhiên. Thực
vậy, ông bác bỏ ý tưởng về các quyền trừu tượng như là một thứ gì đó độc lập với
ý tưởng công lợi. Ông chỉ ra trong các từ ngữ mà ông nhấn mạnh khi ông xem xét
lại tư tưởng công lợi như
sau:
“Tôi xem công lợi
là tiêu chuẩn phân xử cuối cùng đối với mọi vấn đề đạo đức; nhưng nó phải là
công lợi theo nghĩa rộng nhất, làm cơ sở cho lợi ích lâu dài của con người như
một sinh thể tiến bộ.”
Mill phát triển các lập luận về tự do của ông trên nền
tảng công lợi theo nghĩa rộng và đã được điều chỉnh chứ không phải theo nghĩa hẹp
và chính thống của Bentham. Đó là một lý tưởng mà nếu được thực hiện đầy đủ
trong thực tiễn sẽ mang lại các kết quả có lợi cho cá nhân cũng như cho xã hội.
Theo ông, tự do được yêu mến như một thứ gì đó cao cả, như là phương tiện cho sự
tự phát triển – về mặt đạo đức, trí tuệ và thẩm mĩ – và tự thực hiện thông qua
việc đưa ra những lựa chọn tự do trong cuộc sống. Tự do phải được bảo vệ và
thúc đẩy như là phương tiện cho sự tiến bộ của xã hội văn minh. Ông khẳng định,
điều này bắt nguồn từ sự tăng tiến của tri thức và chân lý mà sự tự do thảo luận
và phát biểu có thể tạo ra.
Ngoài ra, quan điểm của Mill về tự do như là một
phương tiện sống còn cho cả sự phát triển của cá nhân và sự tiến bộ của tư tưởng
và xã hội có liên quan chặt chẽ với quan niệm của ông về cá tính con người và về
sự đóng góp mà sự tự do tạo ra đối với sự tiến bộ đó. Quan niệm này, vốn là một
trong những
điểm nổi bật của tư tưởng tự do của thời kì Victoria vào giữa thế kỉ 18, tập
trung vào các ý tưởng cao quý như sự tự trị, sự đa dạng, thực nghiệm, độc lập
tư tưởng, và sự tiến bộ của cá nhân và xã hội.
Chính từ tầm nhìn đạo đức tinh tế này, Mill đi đến lập
luận trong Bàn về tự do là sự biện
minh duy nhất mà xã hội có cho sự can thiệp với sự tự do hành động của cá nhân,
chống lại ý chí của anh ta, là “ngăn chặn sự tổn hại cho người khác” - cụ thể
hơn, là ngăn chặn những tổn hại vật chất trực tiếp đối với người khác.
Mill phát triển nguyên tắc “tổn hại” này hơn nữa dựa
vào sự phân biệt giữa các hành động tự
liên quan, tức các hành động chỉ ảnh hưởng đến cá nhân và đối với các hành
động đó người đó sẽ có quyền kiểm soát tối cao, và các hành động liên quan đến người khác, tức các hành động ảnh hưởng
bất lợi tới lợi ích của người khác. Tuy nhiên, Mill giải thích rằng cả nguyên tắc
“tổn hại” và sự phân biệt này chỉ áp dụng tới các thành viên của một “cộng đồng
văn minh”, tới những người trưởng thành, tức những người có “khả năng tự hướng
dẫn cho sự phát triển của họ bằng sự thương thảo và thuyết phục” Theo ông,
nguyên tắc và sự phân biệt này không thể áp dụng cho trẻ em, hoặc cho các thành
viên của các dân tộc lạc hậu, vì hành vi của họ cần sự hướng dẫn của người
khác.
Mill tiếp tục phát triển lập luận của mình bằng cách
minh định ba lĩnh vực của hành vi tự liên quan, trong đó sự thực hành tự do
không gây hại cho người khác ngoài cá nhân người đó, và do đó sẽ hoàn toàn nằm
ngoài sự kiểm soát của xã hội và nhà nước. Thứ
nhất là tự do tư tưởng, thảo luận và bày tỏ trong các dạng thức khác nhau của
nó. Theo lời ông, lĩnh vực này thuộc về “phạm vi bên trong của ý thức”, bao gồm
“tự do ý thức theo nghĩa toàn diện nhất; tự do tư tưởng và cảm nhận; và tự do
tuyệt đối của các quan điểm và tình cảm đối với mọi chủ đề, trên các mặt thực
tiễn hay tự biện, khoa học, đạo đức hay thần học.
Lĩnh vực thứ
hai và thứ ba của các hành vi tự liên quan được Mill nêu ra là “tự do sở
thích và theo đuổi nghề nghiệp” - nghĩa là, tự do theo đuổi lối sống mà bạn lựa
chọn; và “tự do ….hội họp” – nói cách khác, sự tự do kết hợp của các cá nhân,
những người liên kết vì các mục đích mà không gây hại cho người khác. Liên quan
đến ba phạm vi của các hành động cá nhân này, Mill phát biểu một cách dứt khoát
là:
“Không xã hội
nào được coi là tự do mà những sự tự do này không được tôn trọng, dù cho bất cứ
dạng chính quyền nào mà nó có, và không xã hội nào được coi là hoàn toàn tự do mà
những sự tự do này không tồn tại một cách tuyệt đối và vô điều kiện”.
Trong chương 2 của Bàn về tự do Mill phát triển các lập luận hết sức chặt chẽ - chiếm
một phần ba cuốn tiểu luận của ông – cho sự tự do thứ nhất trong ba sự tự do
của các hành vi tự liên quan này – tự do tư tưởng và thảo luận. Ông bắt
đầu bằng khẳng định niềm tin của ông vào sự tự do tuyệt đối của chính kiến và bằng
cách tố giác tất cả sự đàn áp đối với tự do thảo luận với các lời lẽ hùng hồn
sau:
“Nếu tất cả nhân
loại trừ một người, có chung một quan điểm, và chỉ một người có quan điểm trái
ngược, thì việc nhân loại bắt người đó phải im lặng cũng không chính đáng hơn việc anh ta bắt cả nhân loại phải
im lặng nếu anh ta có quyền lực.”
Ngoài ra, Mill chỉ ra rằng, tự do tư tưởng và “tự do
bày tỏ và xuất bản các quan điểm trong thực tiễn là không thể tách rời”. Bảo vệ
tự do tư tưởng và do vậy cũng liên quan đến việc bảo vệ tự do bày tỏ trong mọi
hình thức – bao gồm tự do ngôn luận và xuất bản. Theo Mill, tính cấp thiết của
nhiệm vụ này được nhấn mạnh không chỉ bởi kinh nghiệm lịch sử về sự truy tố và
đàn áp tư tưởng dị giáo, khác thường, đi ra ngoài khuân khổ, mà cũng bởi mối đe dọa hiện tại được đề ra bởi sự
chuyên chế của các ý kiến và tình cảm đang thịnh hành ở Anh vào giữa thế kỉ 19.
Sự bảo vệ tự do tư tưởng và thảo luận của Mill dựa
vào niềm tin là, những sự tự do này là phương tiện cần thiết để khám phá ra
chân lý và sự tiến bộ của tri thức và sự hiểu biết – các mục tiêu có giái trị
và lợi ích nội tại cho xã hội. Niềm tin này dẫn ông đi đến trình bày ba luận điểm
cụ thể chống lại sự áp bức, và ủng hộ sự khoan dung đối với các quan điểm mà có
thể xung đột với các quan điểm của đa số phổ biến. Thứ nhất, quan điểm của
thiểu số mà đang bị đàn áp có thể là đúng, trong khi quan điểm đa số có thể là
sai lầm. Mill thấy rằng, mọi thời đại có nhiều quan điểm mà các thời đại sau thấy
không chỉ sai lầm mà còn vô lý – chẳng hạn, như niềm tin cho rằng trái đất phẳng.
Trái lại, nhiều ý tưởng bị lên án là nguy hiểm hay dị giáo sau đó được chấp nhận
nồng nhiệt bởi các thế hệ kế tiếp. Ví dụ về Socrates và Jesus bị kết án và xử tử
vì các quan điểm được cho là dị giáo và báng bổ, tuy nhiên sau đó được tôn kính
là những người thầy đạo đức vĩ đại. Lịch sử của các tư tưởng và các phát kiến của
con người cung cấp cho chúng ra những cảnh báo rõ ràng chống lại việc đưa ra bất
cứ giả định về tính không thể sai lầm liên quan đến các quan điểm chính thống. Mill
tuyên bố rằng, “làm im miệng mọi sự thảo luận” là “một giả định về tính không
thể sai lầm”.
Luận điểm thứ
hai mà Mill phát triển để bảo vệ tự do tư tưởng và thảo luận như là phương
tiện để khám phá chân lý là, nếu quan điểm thiểu số bị đàn áp là sai lầm, thì
chân lý thực sự được củng cố thông qua một quá trình bác bỏ có tính trí tuệ đối
với quan điểm sai lầm đó. Vì sự đàn áp quan điểm thiểu số đó sẽ chỉ lấy đi khỏi
những người có quan điểm đúng, phổ biến phương tiện để hiểu rõ lý do về tính
đúng đắn của nó. Thực vậy, Mill nhấn mạnh, việc nắm giữ một quan điểm có thể
đúng nhưng không hiểu được tại sao lại như vậy có một giá trị rất nhỏ.
Ngoài ra, quá trình khảo sát và thảo luận, một cách
đầy đủ và thường xuyên, ngay cả một quan điểm đúng cũng sẽ ngăn chặn nó khỏi
suy thoái theo thời gian thành “một chân lý giáo điều chết cứng”. Với sự không
tồn tại của một môi trường phê phán như vậy, Mill thấy rằng “cả thầy và trò sẽ
ngủ quên trên ghế của họ, ngay khi không có một đối thủ trong lớp”.
Luận điểm thứ
ba và là luận điểm cuối cùng dựa trên sự thừa nhận là một quan điểm có thể
sai lầm một phần, và có thể chứa đựng một phần chân lý. Nói cách khác, nó có thể
rơi vào trường hợp, là có cả đúng và sai. Quá trình khảo sát một cách phê phán
đối với quan điểm như vậy sẽ giúp tách biệt phần đúng đắn của nó ra khỏi phần
sai lầm, củng cố cho cái trước, và loại bỏ cái sau. Mill thừa nhận, chỉ có sự tự
do thảo luận và tranh luận mới làm cho điều này có thể, tức là sửa chữa cho các
quan điểm, niềm tin chỉ đúng một phần.
Tuy nhiên, dù cho sự mạnh mẽ và hùng hồn trong lời
biện hộ của Mill đối với tự do thảo luận, ông không tin rằng sự tiến bộ của
chân lý sẽ là kết cục tất yếu. Ông viết, “Lời quả quyết cho rằng chân lý luân
luôn chiến thắng sự áp bức, là một trong những sai lầm dễ thương mà con người lặp
đi lặp lại cho đến khi trở nên cũ rích, nhưng tất cả kinh nghiệm đã bác bỏ điều
này”. Vì ông nhận thấy, “Lịch sử tràn ngập với các ví dụ về việc chân lý bị hạ
bệ bởi sự đàn áp”. Vì vậy ông bảo vệ nhiệt thành cho sự khoan dung liên quan đến
các quan điểm và niềm tin mới lạ hay không theo khuân khổ và cho một thái độ
phê phán cởi mở đối với các quan điểm chính thống hiện hành, vốn được tin tưởng
và phổ biến rộng rãi. Ông khẳng định, chỉ thông qua quá trình liên tục thảo luận
và tranh luận tự do thì “các quan điểm và các thực tiễn sai lầm sẽ dần dần bộ lộ”.
Một kết quả như vậy, được Mill
bảo vệ từ lập trường công lợi đã được điều chỉnh bởi ông, sẽ mang lại lợi ích
cho sự phát triển đạo đức và trí tuệ của cá nhân và cho sự tiến bộ văn hóa và tư
tưởng của xã hội.
Mill bàn về tầm quan trọng của cá
tính
Phần còn lại của Chương 3 trong Bàn về tự do liên quan tới điều mà Mill trình bày là một vấn đề
quan trọng sống còn, đó là sự tự do sở thích và theo đuổi ước mơ, hay ngắn gọn,
là cá tính. Vì ông cho rằng “sự phát triển tự do của cá tính” là “một trong những
điểm thiết yếu của sự thịnh vượng”. Sự tự do này thực chất là sự tự do của cá
nhân để hành động theo các quan điểm và niềm tin của họ, “mà không bị cản trở,
dù là trên phương diện vật chất hay đạo đức, từ những người xung quanh, bao lâu
chỉ gây nguy hiểm cho chính họ”. Do đó, nó tạo thành lĩnh vực thứ
hai của hành vi tự liên quan mà Mill dự định bảo vệ khỏi sự can thiệp của
tập thể.
Cũng giống như tự do tư tưởng và thảo luận, Mill xem
sự tự do theo đuổi sở thích và ước mơ là có lợi cho cả cá nhân và cho xã hội.
Vì một sự đa dạng trong lối sống, cũng như sự đa dạng về các quan điểm và niền
tin, mang lại cơ hội cho sự khám phá các cách thức tốt hơn, đầy đủ hơn của cuộc
sống. Do vậy Mill khẳng định rằng:
“Vì con người là
không hoàn hảo nên sẽ rất hữu ích khi có các quan điểm khác nhau, tương
tự như vậy
sẽ là hữu ích khi có các kinh nghiệm sống khác nhau; tự do sẽ mang lại một sự
đa dạng cá tính, mà không gây hại cho người khác; và giá trị của các lối sống
khác nhau sẽ được chứng tỏ trong thực tế … [Đây là] thành phần chính cho sự tiến bộ của
cá nhân và xã hội”.
Ngoài ra, Mill lập luận rằng, “tỷ lệ với sự phát triển
của cá tính” “ mỗi cá nhân trở nên có giá trị hơn với chính anh ta, và do đó có
khả năng trở nên có giá trị hơn đối với người khác”. Vì thông qua việc khám phá
ra sở thích và ước mơ của mình, cá nhân đang thực hành khả năng tự do lựa chọn
và phán đoán độc lập của mình. Do đó, anh ta đang thúc đẩy sự tự phát triển về
mặt đạo đức, trí tuệ, và thẩm mỹ của mình.
Mill nhấn mạnh, một tính cách như vậy là có lợi cho
phần còn lại của xã hội, vì các cá nhân tự do và trưởng thành, bằng cách đưa ra
cái nhìn mới và phát triển cách thức ứng xử mới, có thể trở thành một ví dụ về
một sự ứng xử được
khai sáng hơn, và một cá tính tốt hơn trong cuộc sống của con người”. Ngoài ra,
ngay cả các thành viên chưa trưởng thành và các thành viên ban đầu không thuộc
về xã hội đó sẽ được lợi dán tiếp từ sự có mặt và hoạt động tích cực của nhóm
thiểu số năng động và sáng tạo, mà nếu không có họ xã hội sẽ trở thành “một cái
bể tù đọng”.
Dù cho quan tâm chính của Mill ở đây là bảo vệ sự
phát triển tự do của các cá nhân cá biệt trong nhóm người nêu trên, song rõ
ràng rằng đây là một dạng tự do đáng giá sẽ được yêu thích bởi tất cả những người
trưởng thành. Mill bị thuyết phục rằng xã hội Anh giữa thế kỉ 18, như ông cảm
thấy, làn tràn với “sự chuyên chế của các quan điểm và tình cảm đang thịnh
hành”, có xu hướng đè nén cá tính của cá nhân và các phẩm chất mà cá tính bao gồm
và diễn đạt – cụ thể là, tính sáng tạo, tính khác biệt, tính đa dạng, tính chủ
động và sự động lập của tinh thần. Ông tin rằng, xã hội đương đại có xu hướng tạo
ra những con người tuân thủ mù quáng không có “các năng lực tri giác, phán
đoán, sáng suốt, tinh thần năng động và thậm chí yêu mến đạo đức”. Ông sợ rằng,
những người như vậy “không mong muốn tự do, và chính họ sẽ không tận dụng được
nó”.
Do vậy, theo Mill, cá tính là một sự bảo vệ đầy uy lực
chống lại sức mạnh ngột ngạt của sự tuân thủ xã hội và “sự tầm thường của tập
thể”, một sức mạnh đã tạo ra moi trường công luận mà trong đó các phẩm chất đi
cùng với cá tính bị đe dọa hoặc bị xem như có hại. Chẳng hạn, thực tế là “sự tự phát cá nhân hầu như không bao giờ được
thừa nhận bởi kiểu tư duy thông thường như có một giá trị nội tại … nhưng thay
vào đó được nhìn vào với sự ghen ghét”. Mill viết, kết quả của sự áp bức tuân
thủ này là “sự chuyên chế của tập tục có ở mọi nơi, và vì vậy là một sự cản trở lâu dài cho
sự tiến bộ của con người”.
Thông qua việc thảo luận về tính cách, Mill vạch ra
một sự phân biệt rõ ràng giữa sự
bị động, ù lì của tập tục và sự tuân thủ ở mặt này, và sự năng động, đày nghị lực
của sự đổi mới và sáng tạo ở mặt kia. Ông nhấn mạnh, cá nhân là một tồn tại sống,
không phải là một vật thể ù lì được khuân đúc bởi thói quen hay tập quán. Anh
ta không được hình thành một cách máy móc mà được phát triển một cách hữu cơ,
giống như cái cây, “theo xu hướng các sức mạnh nội tại làm cho nó trở thành một
tồn tại sống động”.
Đối với Mill, thì tự do theo đuổi sở thích và ước mơ
– tự do lựa chọn cuộc sống của mình – là một điều kiện sống còn cho sự phát triển
đầy đủ của con người – về mặt đạo đức, trí tuệ, và thẩm mỹ. Đó là một lý tưởng phù
hợp với nguyên tắc công lợi được hiệu chỉnh bởi Mill, với “công lợi được hiểu theo nghĩa rộng,
đặt nền tảng cho lợi ích lâu dài của con người như một sinh thể tiến bộ”.
Các giới hạn đối với tự do ngôn luận
và hành động
Mill dành phần còn lại của Bàn về tự do – tức là, phần còn lại của Chương 3 cũng như Chương 2
và 5 – để khảo sát câu hỏi về phạm vi và các giới hạn hợp pháp của sự tự do
hành động. Như chúng ta đã thấy, trong Chương 1 ông phân biệt rất thận trọng giữa,
thứ nhất là các hành động tự liên
quan, chỉ ảnh hưởng đến chính tác nhân, và vì vậy sẽ miễn khỏi mọi sự can thiệp
của xã hội hay nhà nước, và thứ hai,
các hành động liên quan đến người khác, qua đó một số tổn hại trực tiếp, có thể
được cảm thấy bởi người khác. Mill tin rằng xã hội hay nhà nước có quyền để can
thiệp, ngay khi hành vi của ai đó ảnh hưởng có hại đến lợi ích của người khác,và
xã hội có quyền phán xét đối với nó.
Trong khi ông nhiệt thành bảo vệ chống lại bất cứ sự
can thiệp tập thể đối với sự tự do tư tưởng và thảo luận, thì ở đầu Chương 2,
Mill trích dẫn một ví dụ về một hoàn cảnh trong đó chắc chắn việc bày tỏ tự do
một quan điểm nào đó có một ảnh hưởng có hại và do đó phải bị giới hạn về mặt
pháp lý. Ông nhận thấy rằng:
“Một quan điểm
cho rằng những người buôn ngũ cốc là những người làm cho người nghèo chết đói,
hay tài sản tư nhân là tài sản ăn trộm sẽ không bị ngăn cấm khi đơn giản được
lưu hành trên báo chí, nhưng có thể bị trừng phạt chính đáng khi đưa ra một
phát ngôn như vậy cho
một đám đông bị kích động tụ tập trước nhà người buôn ngũ cốc….”
Mill lập luận, xã hội được bảo chữa khi can thiệp
vào sự tự do hành động của cá nhân để bảo vệ các thành viên khác của nó khỏi
các hành vi gây hại cho lợi ích của họ. Đối với các cá nhân như vậy trong xã hội:
“phải tuân theo
một lối ứng xử nào đó đối với phần còn lại. Sự ứng xử này bao gồm ….không gây tổn
thương lợi ích của người khác; hay các lợi ích nào đó, mà hoặc bởi một điều khoản
pháp lý công khai hoặc bởi sự hiểu ngầm, được xem như là các quyền.”
Ở đây Mill đang đề cập đến các lợi ích dựa trên các
quyền, tập trung vào điều kiện an ninh và sự an toàn của cá nhân, vốn được bảo
vệ bởi pháp luật, hoặc ít nhất được thừa nhận bởi xã hội. Những lợi ích như vậy
bao gồm, chẳng hạn, quyền nắm giữ tài sản của mình khi đối mặt với nỗ lực của
người khác để giành lấy nó bằng vũ lực. Tổng quát hơn, chúng liên quan đến quyền
được bảo vệ không chỉ khỏi kẻ trộm mà còn khỏi sự tấn công và đe dọa của kẻ giết
người, cũng như khỏi gian lận và lừa dối.
Ở điểm quan trọng này trong lập luận của ông, quan
điểm của Mill là một sự bác bỏ đối với khái niệm của Locke về quyền tự nhiên, đồng
thời trung thành quan điểm của Bentham về quyền là:
“Quyền … quyền
cơ bản …là sản phẩm của luật ….từ luật thực tế đến quyền thực tế.”
Tuy nhiên, quan niệm về quyền pháp lý mà Mill đang khẳng
định, như ở một giai đoạn khác trong sự bảo vệ của ông đối với tự do cá nhân, dựa
trên một thuyết công lợi xét lại hơn là thuyết công lợi chính thống, và một lần
nữa viện dẫn tới nguyên tắc “công lợi theo nghĩa rộng làm nền tảng cho lợi ích
lâu dài của con người như một sinh thể tiến bộ”. Do vậy từ điểm nhìn đó ông lập
luận rằng những lợi ích như vậy được thúc đẩy tốt nhất bằng cách bảo vệ lĩnh vực
hoạt động riêng tư, tự do khỏi sự can thiệp xã hôi, trong khi đồng thời thừa nhận
khả năng của sự can thiệp hợp pháp trong một lĩnh vực công vì các lý do công lợi
thuần túy – nghĩa là, ngăn chặn tổn hại trực tiếp cho người khác.
Mill nhấn mạnh và tóm tắt điểm quyết định này trong Chương
5 của Bàn về tự do bằng cách tái diễn
đạt “nguyên tắc hết sức đơn giản của ông” trong hình thức “hai châm ngôn mà
cùng nhau hình thành toàn bộ học thuyết của tiểu luận”. Đó là như ông viết: “thứ nhất, cá nhân không chịu trách nhiệm
với xã hội các hành động của anh ta, trong trừng mực mà chúng không liên quan đến
lợi ích của ai khác ngoài anh ta …”; và “thứ
hai, đối với các hành động gây tổn hại tới lợi ích của người khác, cá nhân
phải chịu trách nhiệm, và có thể chịu sự trừng phạt của xã hội hoặc luật pháp,
nếu xã hội thấy điều đó là cần thiết để bảo vệ nó.”
Khi khảo sát về sự phân biệt này, Mill trích dẫn một
số ví dụ về những“cảnh sát đạo đức” trong xã hội, những người xem họ có quyền để
giới hạn sự tự do hành động của người khác trên cơ sở họ tìm thấy rằng hành vi
của người đó là không vừa ý, chướng tai. Đặc biệt, ông đề cập đến, đa số Hồi
giáo trong một số xã hội, những người cấm người Ki tô giáo ăn thịt lợn; hay những
người thanh giáo, những người chỉ trích các trò giải trí cộng đồng; người
Sabbataria, những người tìm cách áp đặt lên người khác sự phản đối của họ đối với
sự làm việc vào các ngày chủ nhật; và những người kiêng rượu, những người tìm
cách để cấm việc buôn bán và tiêu thụ các thức uống có cồn.
Mill cho rằng, từ thực tế là các cá nhân hay các
nhóm nào đó tìm thấy ở hành vi của người khác sự đáng ghét về mặt đạo đức, tuy
nhiên không trường hợp nào trong số những trường hợp này có cơ sở cho sự đàn áp hay hạn chế những thực
hành này. Đằng sau luận điểm này là sự tương phản rõ ràng mà ông vạch ra giữa sự tổn thương khách quan và sự xúc phạm chủ
quan do các hành động tự liên quan gây ra. Trong trường hợp sau, tác nhân
cá nhân liên quan “không phải chịu trách nhiệm cho các hành động của anh ta”,
vì ảnh hưởng chỉ đối với lợi ích riêng của anh ta, và do đó không bị giới hạn
hay ép buộc bởi xã hội hay luật pháp.
Khi bảo vệ trên các cơ sở này, tức là sự phân biệt quan trọng của ông giữa
các hành động tự liên quan và các hành động liên quan đến người khác, và do đó
tái khẳng định nguyên tắc tổn hại nằm bên dưới nó, Mill chắc chắn loại trừ bất
cứ sự can thiệp tập thể đối với sự tự do hành động của cá nhân trên các cơ sở
gia trưởng – nghĩa là, trên cơ sở của ý tưởng cho rằng xã hội hay luật pháp phải
can thiệp để thúc đẩy điều mà xã hội hay nhà nước xem như là lợi ích tốt nhất của
cá nhân, về mặt đạo đức, hay thể xác. Ông cũng loại trừ bất cứ sự can thiệp tập
thể trên các cơ sở đạo đức – nghĩa là, trên cơ sở của ý tưởng cho rằng một số
hành động là sai trái tự thân và do đó phải bị cấm hoặc trừng phạt, bất chấp
chúng có ảnh hưởng gây hại tới ai không.
Chắc chắn là rất khó để bảo vệ nhiều bộ pháp của các
xã hội hiện đại ở cuối thể kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 trên cơ sở sự phân biệt của Mill và nguyên tắc tổn
hại. Vì những luật như vậy được ban hành trên cơ sở của các luận điểm đạo đức
hay thậm chí là các luận điểm gia trưởng. Ví dụ, chúng bao gồm các luật chống lại
sự làm chết không đau đớn, sự quan hệ giữa anh em ruột, hay một số khía cạnh
nào đó của việc nạo phá thai, cũng như một số luật ủng hộ một số dạng kiểm duyệt.
Kết luận
Ngoài sự phê phán được trích dẫn ở trên liên quan đến
sự liên hệ giữa luật, sự tự do và đạo đức, nhiều cuộc tranh luận theo sau liên
quan đến sự phân biệt của Mill giữa các hành động tự liên quan và các hành động
liên quan đến người khác tập trung vào hai câu hỏi sau: thứ nhất, liệu trong thực tế có các hành động thuần túy chỉ tự liên
quan không; và thứ hai, điều gì thực
sự tạo thành sự “tổn hại” cho người khác. Về điểm thứ nhất, nó bị bác bỏ rằng, vì có rất ít hành động mà nằm trong phạm
vi của các hành động thuần túy tự liên quan, nên nguyên tắc “tổn hại” của Mill
có một phạm vi áp dụng quá hẹp trong thực tế. Ngoài ra, nó bị bác bỏ rằng các
hành động có vẻ ngoài như là tự liên quan – chẳng hạn, các hành động liên quan
đến một cá nhân làm điều mạo hiểm, hoặc thậm chí lạm dụng với sức khỏe của mình
như hút thuốc, sử dụng mà túy – trong thực tế ảnh hưởng đến người phụ thuộc hoặc
bạn bè thân thiết của người đó, và do đó có các ảnh hưởng xã hội. Ngoài ra, nó
còn bị bác bỏ rằng, tất cả mọi hành động của con người, thậm chí ngay các hành
động có vẻ ngoài là tự liên quan, thực
ra là có ảnh hưởng đến người
khác.
Với sự trung thực trí tuệ đặc trưng, Mill thừa nhận
thực tế là sự phân biệt của ông giữa các hành vi cá nhân và các hành vi xã hội
sẽ bị nhiều người từ chối thừa nhận. Do đó ông đề ra một vấn đề tranh cãi khác
như sau:
“Làm sao mà bất
cứ hành vi nào của một thành viên của một xã hội là một vấn đề dửng dưng đối với
các thành viên khác? Không người nào hoàn toàn biệt lập; và đó là không thể cho
một người làm bất cứ điều gì có hại lâu dài hoặc nghiên trọng cho chính anh ta,
mà không gây tổn chút tổn hại nào, tới những người thân cận.”
Như chúng ta đã thấy, sự bảo vệ của Mill đối với sự
phân biệt này phụ thuộc vào sự nhấn mạnh của ông là có một sự khác biệt rõ ràng
giữa các hành động gây, và không gây tổn hại trực tiếp cho người khác, được định
nghĩa dựa vào an ninh và sự an toàn cá nhân. Về điểm thứ hai, tranh cãi – liên quan đến cái gì thực sự tạo thành “sự tổn
hại” cho người khác – Mill nỗ lực làm sáng tỏ với một sự phân biệt tương ứng giữa
sự tổn hại khách quan và sự tổn hại chủ quan. Chắc chắn, sự phân biệt này là mơ
hồ hoặc gây tranh cãi, tuy nhiên cũng chặt chẽ và có thể bảo vệ được về mặt triết
học. Vì như John Plamenatz nhận thấy, nếu tiêu chuẩn “tổn hại” trực tiếp của
Mill, và cùng với nó nguyên tắc tự do đối với các hành vi tự liên quan là hoàn
toàn vô ích hoặc không có cơ sở, thì sẽ không bao giờ có thể có lý do tốt để
nói rằng một người đang bận tâm tới công việc riêng của anh ta. Sự phân biệt giữa các hành động tự liên quan và
các hành động liên quan đến người khác là một trong những sự phân biệt phổ biến
nhất mà chúng ta vẫn làm.
Bên cạnh đó, điểm mấu chốt bắt nguồn từ những lĩnh vực
tranh luận này, như Stefan Collini nói, không phải là nguyên tắc “tổn hại” của
Mill cho phép chúng ta luôn luôn vạch ra một ranh giới cứng nhắc giữa các hành
động khác nhau của con người, nhưng thay vào đó là “nó đặt gánh nặng chứng minh
nên những ai mà đề nghị sự giới hạn đối với sự tự do của người khác”. Ngoài ra,
liên quan tới câu hỏi gây tranh cãi tương tự về điều gì tạo thành “sự tổn hại”
trong một trường hợp cụ thể, một lần nữa nguyên tắc của Mill “đặt nhiệm vụ của
việc chứng minh về “tổn hại” đối với những người đề xuất sự can thiệp, và, thậm
chí quan trọng hơn, nó loại trừ sự can thiệp trên bất cứ cơ sở nào.”
Do đó, sử dụng những ý tưởng nằm ở trong tái tim lập
luận của ông, Mill điều chỉnh lại lý thuyết tự do cổ điển bằng cách mở rộng sự
biện hộ đối với sự tự do lựa chọn và hành động ra bên ngoài lĩnh vực kinh tế và
chính trị tới nhiều lĩnh vực khác của hành vi cá nhân và xã hội, đặc biệt là tới
các lĩnh vực mà lợi ích của người khác không bị ảnh hưởng tiêu cực. Khi làm như
vậy, Mill để lại cho truyền thống tự do Phương tây một trong những sự bảo vệ
nghiêm ngặt và giàu ảnh hưởng về mặt trí tuệ và mãnh liệt nhất về giá trị lâu
dài của tự do cá nhân.
Nguồn: “Moderm Political Thinhkers and Ideas”,
Routledge