Minh Minh dịch
Chủ
nghĩa tự do cổ điển là một hệ tư tưởng chính trị, một nhánh của chủ nghĩa tự
do, ủng hộ các quyền tự do dân sự và tự do chính trị, nền dân chủ đại diện, sự
cai trị theo pháp luật và đặc biệt nhấn mạnh đến sự tự do trong lĩnh vực kinh tế.
Chủ
nghĩa tự do cổ điển phát triển trong thế kỷ 19 ở châu Âu và Hoa Kỳ. Mặc dù chủ
nghĩa tự do cổ điển được xây dựng trên các ý tưởng đã được phát triển từ cuối
thế kỷ thứ 18, tuy nhiên nó ủng hộ một kiểu tổ chức xã hội, chính quyền và
chính sách công đặc biệt, vốn là một phản ứng đối với cuộc cách mạng công nghiệp
và đô thị hóa [của thế kỉ 19]. Các nhân vật đáng chú ý mà các ý tưởng của họ đã
góp phần tạo nên chủ nghĩa tự do cổ điển bao gồm John Locke, Jean-Baptiste Say,
Thomas Malthus, và David Ricardo. Chủ nghĩa tự do cổ điển dựa trên nền tảng
kinh tế học của Adam Smith và trên các niềm tin về luật tự nhiên, thuyết công lợi,
và sự tiến bộ.
Trong
những năm cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tự do cổ điển phát triển thành chủ nghĩa tự
do tân cổ điển (neo-classical liberalism), ủng hộ một chính phủ nhỏ gọn nhằm
cho phép cá nhân có thể thực thi tốt nhất sự tự do cá nhân. Trong hình thức cực
đoan nhất, nó ủng hộ áp dụng thuyết Darwin cho xã hội. Chủ nghĩa tự do cá nhân
(Libertarianism) là một hình thức hiện đại của chủ nghĩa tự do tân cổ điển.
1. Ý
nghĩa của thuật ngữ
2. Sự
phát triển của các niềm tin cốt nõi
2.1 Hệ
thống các niềm tin của Hayek
3. Lịch
sử
4. Các
nguồn gốc trí tuệ
4.4 Thuyết
công lợi
5. Kinh
tế chính trị học
6. Tự
do thương mại và hòa bình thế giới
7. Mối
quan hệ với chủ nghĩa tự do hiện đại
……………………………………………………………………………
1.
Ý nghĩa của thuật ngữ
Thuật
ngữ chủ nghĩa tự do cổ điển được sử dụng, khi nhìn lại quá khứ, để phân biệt với
chủ nghĩa tự do xã hội mới (chủ nghĩa tự do hiện đại) ở đầu thế kỷ 19. Cụm từ chủ nghĩa tự do cổ điển đôi
khi cũng được dùng để chỉ tất cả các hình thức của chủ nghĩa tự do trước thế kỷ
20, và một số nhà bảo thủ và nhà tự do thường sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa tự do
cổ điển để mô tả niềm tin của họ vào tính ưu việt của tự do cá nhân và chính phủ
tối thiểu.
2.
Sự phát triển của những niềm tin cốt lõi
Các
niềm tin cốt lõi của các nhà tự do cổ điển bao gồm những ý tưởng mới, đi ra khỏi
ý tưởng bảo thủ trước đó về xã hội như một gia đình và khỏi khái niệm xã hội học
sau này về xã hội như một tập hợp của các mạng xã hội phức tạp. Các ý tưởng mới
đó bao gồm: cá nhân là những người "ích kỷ, tính toán lạnh lùng, thụ động
và đơn độc" và xã hội chẳng qua là tổng số của các thành viên cá nhân của
nó.
Những
niềm tin này được bổ sung bằng một niềm tin khác cho rằng, người lao động có thể
được thúc đẩy tốt nhất bằng các khuyến khích dựa trên lợi ích. Điều này khiến
các chính trị gia tự do cổ điển thông qua Đạo luật sử đổi Luật nghèo đói vào
năm 1834, trong đó giới hạn việc cung cấp các hỗ trợ xã hội, bởi vì các nhà tự
do cổ điển tin thị trường sẽ là cơ chế dẫn đến sự giàu có hiệu quả nhất. Áp dụng lý thuyết dân số của Thomas Malthus,
họ xem tình trạng nghèo đói đô thị là không thể tránh khỏi; rằng tăng trưởng
dân số sẽ vượt quá sản lượng lương thực, và coi hệ quả đó là đáng mong muốn, vì
nạn đói sẽ giúp giới hạn sự tăng trưởng dân số, đồng thời phản đối bất kỳ sự
tái phân phối thu nhập hoặc của cải, điều mà họ tin sẽ bị làm cho uổng phí bởi
các tầng lớp thấp kém nhất.
Các
nhà tự do cổ điển đồng ý với Thomas Hobbes là chính phủ được tạo ra bởi các cá
nhân để bảo vệ họ khỏi kẻ khác. Họ nghĩ các cá nhân nên được tự do theo đuổi sự
tự lợi của mình mà không bị kiểm soát hay hạn chế bởi chính phủ. Chủ nghĩa tự
do cổ điển cho rằng cá nhân phải được tự do để giành được những công việc trả
lương cao nhất từ các nhà tuyển dụng, trong khi động cơ lợi nhuận sẽ đảm bảo
các sản phẩm mà mọi người mong muốn sẽ được sản xuất với giá họ có thể trả.
Trong một thị trường tự do, cả lao động và vốn sẽ nhận được phần thưởng lớn nhất
có thể, trong khi sản xuất sẽ được tổ chức một cách hiệu quả để đáp ứng các nhu
cầu của người tiêu dùng.
Dựa
trên các ý tưởng của Adam Smith, các nhà tự do cổ điển tin tất cả các cá nhân
có thể theo đuổi một cách tự do và bình đẳng sự tư lợi kinh tế của họ mà không
cần sự hướng của chính phủ, nhằm phục vụ lợi ích chung. Họ chỉ trích nhà nước
phúc lợi khi can thiệp vào thị trường tự do. Họ chỉ trích các quyền của nhóm
lao động vì nó hi sinh các quyền cá nhân, trong khi họ chấp nhận các quyền
của các tập đoàn lớn dù nó hi sinh sự bình đẳng về khả năng thương lượng như được
lưu ý bởi Adam Smith:
Chủ đất, nông dân, nhà sản xuất,
thương gia, mặc dù họ không sử dụng người làm công nào, thì vẫn thường có thể sống
một hoặc hai năm với các cổ phiếu mà họ đã mua. Nhiều công nhân không thể sinh
tồn trong một tuần, một ít có thể sinh tồn trong một tháng, và hiếm có thể
trong vòng một năm mà không có việc làm. Về lâu dài người thợ có thể trở nên
thiết yếu cho ông chủ cũng như ông chủ đối với anh ta; nhưng sự thiết yếu này của người thợ không qua tức thì.
Chỉ
đến khi với sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do xã hội thì lao động trẻ em mới bị
cấm, các tiêu chuẩn tối thiểu về an toàn lao động, lương tối thiểu và trợ cấp
hưu trí tuổi già được thiết lập, và các thiết chế và quy chế tài chính với mục
tiêu chiến đấu chống suy thoái theo chu kì, độc quyền, và liên hiệp xí nghiệp,
được giới thiệu. Tuy nhiên chủ nghĩa tự do cổ điển xem đó là một sự can thiệp bất
công của nhà nước. Vì vậy, họ ủng hộ cho một nhà nước nhỏ, chỉ phục vụ các chức
năng sau:
· Bảo
vệ chống lại những kẻ xâm lược bên ngoài, và được mở rộng để bao gồm việc bảo vệ
các thị trường nước ngoài thông qua sự can thiệp vũ trang.
· Bảo
vệ các công dân khỏi bị các công dân khác xâm phạm, tức là bảo vệ tài sản cá
nhân và củng cố việc tôn trọng các hợp đồng và đàn áp các tổ chức công đoàn và
các phong trào người hiến chương.
· Xây
dựng và duy trì các thiết chế công, và
· "Mọi
thứ công cộng" trong đó gồm một đồng tiền ổn định, một hệ thống đơn vị đo
lường tiêu chuẩn, và hỗ trợ cho đường giao thông, kênh mương, bến cảng, đường sắt,
và các dịch vụ bưu chính và thông tin liên lạc khác.
Họ
tin rằng các quyền có bản chất tiêu cực, đòi hỏi các cá nhân khác (và chính phủ)
kiềm chế không can thiệp vào thị trường tự do, trong khi chủ nghĩa tự do xã hội
lại tin rằng người lao động có quyền được cung cấp các lợi ích hay dịch vụ nhất
định thông qua các loại thuế đánh vào các tập đoàn.
Niềm
tin cốt lõi của chủ nghĩa tự do cổ điển không nhất thiết phải bao gồm các nền
dân chủ nơi mà pháp luật được tạo ra bởi đa số công dân, bởi vì "không có
gì trong ý tưởng cai trị đa số có thể cho thấy rằng đa số sẽ luôn luôn tôn trọng
các quyền sở hữu hay duy trì sự cai trị theo pháp luật" Chẳng hạn, James
Madison ủng hộ cho một nước cộng hòa lập hiến với sự bảo vệ cho quyền tự do cá
nhân hơn là một nền dân chủ thuần túy với lý luận rằng, trong một nền dân chủ
thuần túy, thì đa số, trong hầu hết mọi trường hợp, bị chi phối tình cảm và đam
mê chung của xã hội ... và vì vậy không có gì để chống lại xu hướng hy sinh lợi
ích của bên yếu hơn.... "
2.1
Hệ thống niềm tin của Hayek
Friedrich
Hayek xác định hai truyền thống khác nhau trong chủ nghĩa tự do cổ điển:
"truyền thống Anh" và "truyền thống Pháp". Hayek thấy các
triết gia Anh như Bernard Mandeville, David Hume, Adam Smith, Adam Ferguson,
Josiah Tucker và William Paley đại diện cho một truyền thống với niềm tin
vào chủ nghĩa kinh nghiệm, các luật phổ quát và vào các giá trị truyền thống và
thiết chế vốn đã phát triển một cách tự phát nhưng chưa được hiểu đầy đủ. Truyền
thống Pháp bao gồm Rousseau, Condorcet, các nhà bách khoa thư và những người
theo phái trọng nông. Truyền thống này tin tưởng vào chủ nghĩa duy lý và đôi
khi cho thấy sự thù địch với truyền thống và tôn giáo. Hayek thừa nhận rằng
nhãn quốc gia không tương ứng chính xác với những ai thuộc về mỗi truyền thống:
Hayek thấy những người Pháp như Montesquieu, Constantan, Tocqueville là thuộc về
"truyền thống Anh", trong khi những người Anh như Thomas Hobbes,
Priestley, Richard Price và Thomas Paine lại thuộc về "truyền thống
Pháp". Hayek cũng bác bỏ nhãn laissez faire vì nó có xuất xứ từ truyền thống
của Pháp và xa lạ với niềm tin của Hume và Smith.
3.
Lịch sử
Ở
Anh chủ nghĩa tự do cổ điển xuất phát từ chủ nghĩa dân quyền của đảng Whig và
chủ nghĩa cấp tiến, và nó đại diện cho một ý thức hệ chính trị mới. Chủ nghĩa
dân quyền của đảng Whig trở thành một hệ tư tưởng thống trị sau cuộc Cách mạng
Vinh quang năm 1688, gắn liền với sự bảo vệ Quốc hội, củng cố nguyên tắc cai trị
theo luật pháp và bảo vệ tài sản đất đai. Nguồn gốc của các quyền được xem như
tồn tại trong một một hiến pháp cổ xưa, vốn đã tồn tại từ thời xa xưa. Những
quyền này, mà một số nhân vật đảng Whig kể đến bao gồm quyền tự do báo chí và tự
do ngôn luận, được biện minh bởi truyền thống hơn là bởi các quyền tự nhiên. Họ
cũng tin rằng sức mạnh của nhánh hành pháp phải bị giới hạn. Trong khi đó họ ủng
hộ quyền bầu cử hạn chế, vì họ xem việc bỏ phiếu như một đặc quyền, hơn là một
quyền. Tuy nhiên, không có một sự nhất quán trong ý thức hệ của đảng Whig, và
đa dạng các tác giả bao gồm John Locke, David Hume, Adam Smith và Edmund Burke
đều có ảnh hưởng đến đảng Whig, song không ai trong số họ đã được thừa nhận một
cách rộng rãi.
Từ
những năm 1790 đến những năm 1820, các nhà cấp tiến ở Anh tập trung vào việc cải
cách quốc hội và bầu cử, nhấn mạnh đến các quyền tự nhiên và chủ quyền nhân
dân. Richard Price và Joseph Priestley sửa đổi lý thuyết của Locke thành hệ tư
tưởng của chủ nghĩa cấp tiến. Các nhà cấp tiến xem việc cải cách quốc hội là bước
đầu tiên hướng tới giải quyết các bất bình của họ, bao gồm việc đối xử với những
người Tin lành bất đồng chính kiến, buôn bán nô lệ, giá cao và thuế cao.
Có
một sự thống nhất lớn hơn đối với ý thức hệ của chủ nghĩa tự do cổ điển so với ý
thức hệ của đảng Whig. Các nhà tự do cổ điển cam kết với chủ nghĩa cá nhân, các
quyền tự do và bình đẳng. Họ tin rằng cần phải có một nền kinh tế tự do với một
chính quyền can thiệp tối thiểu. Những tác giả như John Bright và Richard
Cobden, phản đối cả đặc quyền quý tộc và sở hữu, những thứ mà họ xem là một trở
ngại đối với sự phát triển của tầng lớp nông dân tiểu địa chủ. Một số bộ phận
trong hệ tư tưởng của đảng Whig phản đối tư duy mới này, và không hài lòng với
bản chất chú trọng đến thương mại của chủ nghĩa tự do cổ điển. Những bộ phận
này đã đi đến kết hợp với chủ nghĩa bảo thủ.
Chủ
nghĩa tự do cổ điển là lý thuyết chính trị chi phối ở Anh từ đầu thế kỷ 19 cho
đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những chiến thắng đáng chú ý của nó là Đạo
luật giải phóng Công giáo vào năm 1829, Đạo luật Cải cách năm 1832, và việc bãi
bỏ các luật Ngũ cốc trong năm 1846. Liên đoàn phản đối Luật ngũ cốc tạo thành một
liên minh gồm các nhóm tự do và các nhóm cấp tiến ủng hộ tự do thương mại dưới
sự lãnh đạo của Richard Cobden, và John Bright, những người phản đối chủ nghĩa
quân phiệt và chi tiêu công. Các chính sách của họ về chi tiêu công thấp và thuế
thấp đã được thông qua bởi William Ewart Gladstone khi ông trở thành bộ trưởng
ngân khố và sau đó là thủ tướng. Chủ nghĩa tự do cổ điển thường được gắn liền với
sự bất đồng tôn giáo và chống chủ nghĩa tuân phục.
Mặc
dù các nhà tự do cổ điển mong muốn tối thiểu các hoạt động của nhà nước, song họ
chấp nhận nguyên tắc chính phủ can thiệp vào nền kinh tế từ những năm đầu thế kỷ
19 với sự thông qua Các đạo luật về nhà máy. Từ khoảng những năm 1840-1860, những
người ủng hộ laissez-faire trong trường phái Manchester và tờ Economist tin tưởng
rằng chiến thắng ban đầu của họ sẽ dẫn đến một giai đoạn với sự mở rộng tự do
kinh tế và tự do cá nhân và cùng với một thế giới hòa bình, nhưng sẽ phải đối mặt
với nhiều sự đảo ngược khi sự can thiệp và sự tích cực của chính phủ tiếp tục mở
rộng từ những năm 1850. Jeremy Bentham và James Mill, mặc dù ủng hộ laissez
faire, chủ nghĩa không can thiệp trong các vấn đề nội ngoại, và tự do cá nhân,
nhưng tin rằng các thiết chế xã hội có thể được tổ chức lại một cách hợp lý
thông qua các nguyên tắc của Thuyết công lợi. Thủ tướng theo khuy hương bảo thủ,
Benjamin Disraeli đã bác bỏ chủ nghĩa tự do cổ điển hoàn toàn và ủng hộ cho đảng
Dân chủ Tory. Vào những năm 1870, Herbert Spencer và các nhà tự do cổ điển khác
kết luận rằng sự phát triển của lịch sử đang đi đến chống lại họ. Từ chiến
tranh thế giới thứ nhất, Đảng Tự do đã bỏ rơi hoàn toàn các nguyên tắc tự do cổ
điển.
Các
điều kiện kinh tế và xã hội đang thay đổi của thế kỷ 19 đã dẫn tới một phân
chia thành các nhà tự do tân cổ điển và các nhà tự do xã hội (hay phúc lợi),
trong khi đồng ý về tầm quan trọng của tự do cá nhân, thì họ bất đồng về vai
trò của nhà nước. Các nhà tự do tân cổ điển, những người tự gọi mình là
"những nhà tự do thật sự", xem Khảo
luận thứ hai của Locke là hướng dẫn tốt nhất, và nhấn mạnh đến "một
chính phủ giới hạn", trong khi các nhà tự do xã hội ủng hộ sự điều tiết của
chính phủ và nhà nước phúc lợi. Herbert Spencer ở Anh và William Graham Sumner
là những nhà lý thuyết tự do tân cổ điển hàng đầu của thế kỷ 19. Chủ nghĩa tự
do cổ điển tiếp tục tiến vào kỷ nguyên hiện đại, với các tác giả như Robert
Nozick. Sự phát triển từ chủ nghĩa tự do cổ điển đến chủ nghĩa tự do xã hội hay
phúc lợi thể hiện rõ ở Anh, ví dụ, như trong sự phát triển tư tưởng của John
Maynard Keynes.
Tại
Hoa Kỳ, chủ nghĩa tự do có một gốc rễ sâu rộng vì nó gặp phải rất ít sự phản đối
đối với các lý tưởng của nó, trong khi ở châu Âu chủ nghĩa tự do bị phản đối bởi
nhiều tư tưởng phản động. Trong một quốc gia gồm các điền chủ, đặc biệt là các
điền chủ mà công nhân của họ là nô lệ, dẫn đến ít có sự chú ý dành cho lý thuyết
kinh tế của chủ nghĩa tự do. Thomas Jefferson áp dụng nhiều tư tưởng của chủ
nghĩa tự do, nhưng trong bản Tuyên ngôn Độc lập, đã thay đổi "cuộc sống, sự
tự do và tài sản" của Locke thành "cuộc sống, sự tự do và mưu cầu hạnh
phúc" mang mầu sắc tự do xã hội hơn. Khi Mỹ lớn mạnh, ngành công nghiệp đã
trở thành một phần lớn hơn của cuộc sống của người Mỹ; và, trong nhiệm kì của tổng
thống dân túy đầu tiên của Mỹ, Andrew Jackson, các vấn đề kinh tế luôn đứng vị
trí hàng đầu. Những ý tưởng kinh tế trong thời đại Jackson hầu hết là các ý tưởng
của chủ nghĩa tự do cổ điển. Tự do được tối đa hóa khi chính phủ giữ thái độ
không can thiệp vào sự phát triển công nghiệp, và hỗ trợ cho giá trị của đồng
tiền thông qua việc trao đổi tự do tiền giấy với vàng. Những tư tưởng của chủ
nghĩa tự do cổ điển về cơ bản vẫn không bị thách thức cho đến khi một loạt suy
thoái diễn ra, dù theo các nguyên lý của kinh tế học cổ điển thí đó là điều
không thể, dẫn đến các khó khăn kinh tế, từ đó các cử tri yêu cầu sự cứu trợ.
Chủ nghĩa tự do cổ điển vẫn còn là niềm tin chính thống giữa các doanh nhân Mỹ
cho đến cuộc Đại khủng hoảng. Cuộc Đại khủng hoảng cho thấy một sự thay đổi lớn
trong chủ nghĩa tự do, dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa tự do hiện đại. Theo
lời của Arthur Schlesinger Jr:
Khi
sự phức tạp ngày càng tăng của các điều kiện công nghiệp đòi hỏi gia tăng sự
can thiệp của chính phủ nhằm đảm bảo cơ hội bình đẳng hơn, truyền thống tự do,
vốn trung thành với mục tiêu hơn là với các tín điều, đã thay đổi quan điểm của
nó về nhà nước", và" dẫn đến xuất hiện quan niệm về một nhà nước phúc
lợi xã hội, trong đó chính phủ quốc gia có nghĩa vụ duy trì một mức độ cao của
việc làm trong nền kinh tế, giám sát các tiêu chuẩn của cuộc sống và lao động,
điều chỉnh các phương pháp cạnh tranh kinh doanh, và thiết lập mô hình toàn diện
về an sinh xã hội.
4.
Nguồn gốc trí tuệ
4.1
John Locke
Nằm
ở trung tâm của ý thức hệ tự do cổ điển là sự diễn giải của họ đối với các tác
phẩm Luận thứ hai về chính quyền và Một lá thư về lòng khoan dung của Locke,
vốn được viết ra để bảo vệ cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688. Mặc dù những tác
phẩm này được coi là quá cấp tiến vào thời điểm đó đối với giới cai trị mới của
Anh, nhưng sau đó chúng được trích dẫn bởi những thành viên đảng Whig, những
người cấp tiến và những người ủng hộ cuộc Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, nhiều tư tưởng
tự do sau đó không có mặt trong các tác phẩm của Locke hoặc hiếm khi được đề cập,
và các tác phẩm của ông đã là chủ đề của nhiều diễn giải khác nhau. Ví dụ, có rất
ít sự đề cập đến chủ nghĩa hợp hiến, phân chia quyền lực, và chính phủ hạn chế.
James
L. Richardson đã xác định năm chủ đề trung tâm trong các tác phẩm của Locke là:
chủ nghĩa cá nhân, sự đồng thuận, sự cai trị theo luật pháp và chính phủ như là
người được ủy thác, tầm quan trọng của tài sản, và khoan dung tôn giáo. Mặc dù
Locke không phát triển một lý thuyết về quyền tự nhiên, nhưng ông đã hình dung
các cá nhân trong trạng thái tự nhiên như là những con người tự do và bình đẳng.
Vàc cá nhân, chứ không phải cộng đồng hay thiết chế, là điểm tham chiếu chính.
Locke tin rằng cá nhân trao sự đồng thuận cho chính phủ, và do đó thẩm quyền
cai trị bắt nguồn từ người dân chứ không phải từ bên trên. Niềm tin này sẽ ảnh
hưởng đến phong trào cách mạng sau này.
Như
là những người được ủy thác, chính phủ được mong đợi phục vụ lợi ích của nhân
dân, chứ không phải lợi ích của những cai trị, và những người cai trị được mong
đợi phải tuân theo pháp luật được ban hành bởi cơ quan lập pháp. Locke cũng cho
rằng mục đích chính của con người khi liên kết vào trong một cộng đồng là để đảm
bảo tài sản của họ. Mặc dù có sự mơ hồ về định nghĩa của Locke đối với tài sản,
song trong đó tài sản được giới hạn như sau"lượng đất tối đa mà một người
canh tác, trồng cây, cải tạo, nuôi dưỡng phụ thuộc vào điều kiện là người đó có
thể sử dụng hết các sản phẩm thu được từ đó", nguyên tắc nhận được sự ủng
hộ rất lớn từ cá nhân sở hữu nhiều của cải.
Locke
cho rằng các cá nhân có quyền theo đuổi các niềm tin tôn giáo của mình và nhà
nước không nên áp đặt một tôn giáo lên những người bất đồng. Tuy nhiên, quan điểm
này cũng có những giới hạn. Đó là, không có sự khoan dung dành cho những người
vô thần, những người được coi là phi luân lý, hay những người Công Giáo, những
người được coi là trung thành với Đức Giáo Hoàng hơn là đối với chính phủ quốc
gia của họ.
4.2
Adam Smith
Tác
phẩm Của các của quốc gia của Adam
Smith, xuất bản năm 1776, đã cung cấp hầu hết các ý tưởng kinh tế học, ít nhất
là cho đến khi công bố tác phẩm Các
nguyên tắc JS Mill vào năm 1848. Smith giải thích động lực của các hoạt động
kinh tế, nguyên nhân của giá cả và sự phân phối của cải, và các chính sách nhà
nước nên được thực hiện để tối đa hóa sự giàu có.
Smith
viết rằng bao lâu mà cung, cầu, giá cả, và sự cạnh tranh tự do khỏi sự điều tiết
của chính phủ, thì việc theo đuổi tư lợi vật chất, chứ không phải lòng vị tha,
sẽ tối đa hóa sự giàu có của xã hội thông qua sản xuất hàng hóa và dịch vụ vì lợi
nhuận. Một "bàn tay vô hình" hướng dẫn cá nhân và các công ty hoạt động
hướng tới sự thịnh vượng của quốc gia, vốn là một hệ quả không định trước của
những nỗ lực tối đa hóa lợi ích riêng của họ. Điều này cung cấp một sự biện
minh về mặt đạo đức cho việc tích lũy của cải mà trước đây được xem là tội lỗi.
Ông
cho rằng người lao động có thể được trả lương thấp tới mức đủ cho sự sống còn của
họ, điều này sau đó được biến đổi bởi Ricardo và Malthus thành "Luật Sắt về
Tiền lương". Ông đặc biệt nhấn mạnh vào lợi ích của tư do thương mại nội địa
và quốc tế, điều ông nghĩ có thể làm gia tăng sự giàu có thông qua chuyên môn
hóa trong sản xuất. Ông cũng phản đối các ưu đãi nhằm hạn chế thương mại, trợ cấp
nhà nước cho sự độc quyền, và các tổ chức và công đoàn của người lao động.
Chính phủ nên được giới hạn đến các chức năng như quốc phòng, công trình công cộng
và tài phán, và được cung cấp tài chính bằng thuế dựa trên thu nhập.
Kinh
tế học của Smith được đưa vào thực tiễn trong thế kỷ XIX với sự giảm thuế trong
những năm 1820, bãi bỏ Đạo luật cứu trợ người nghèo trong năm 1834, và chấm dứt
sự cai trị của Công ty Đông Ấn đối với Ấn Độ vào năm 1858.
4.3
Say, Malthus, và Ricardo
Ngoài
di sản của Adam Smith, luật Say, lý thuyết về dân số của Malthus và quy tắc sắt
về lương của Ricardo đã trở thành học thuyết trung tâm của kinh tế học cổ điển.
Bản chất bi quan của các lý thuyết đã cung cấp cơ sở cho sự chỉ trích chủ nghĩa
tư bản bởi các đối thủ của nó và giúp duy trì truyền thống gọi kinh tế học là
khoa học ảm đạm.
Jean-Baptiste
Say là một nhà kinh tế học người Pháp đã giới thiệu các lý thuyết kinh tế của
Adam Smith vào Pháp và các bài bình luận của ông về Smith được đọc cả ở Pháp và
Anh. Say thách thức lý thuyết giá trị lao động của Smith, và tin rằng giá cả được
quyết định bằng công lợi, đồng thời ông nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, không nhận định nào trong số này
được chấp nhận bởi các nhà kinh tế của Anh vào thời điểm đó. Đóng góp quan trọng
nhất của ông đối với tư duy kinh tế là luật Say, vốn được giải thích bởi các
nhà kinh tế cổ điển là: không thể có khủng hoảng thừa trên thị trường, và sẽ
luôn có một sự cân bằng giữa cung và cầu. Niềm tin tổng quát này ảnh hưởng đến
các chính sách của chính phủ cho đến những năm 1930. Theo luật này, vì các chu
kỳ kinh tế được coi là quá trình tự sửa sai, nên các chính phủ không nên can
thiệp trong thời kỳ kinh tế khó khăn vì điều đó được xem như vô ích.
Thomas
Malthus đã viết hai cuốn sách, Một tiểu luận
về các nguyên tắc của dân số, được công bố vào năm 1798, và Các nguyên tắc của kinh tế chính trị học,
được công bố vào năm 1820. Cuốn sách thứ hai là một bác bỏ đối với luật Say, và
có ít ảnh hưởng đối với các nhà kinh tế học cùng thời. Tuy nhiên, cuốn đầu tiên
của ông có một ảnh hưởng lớn đối với chủ nghĩa tự do cổ điển. Trong cuốn sách
đó, Malthus cho rằng tốc độ tăng trưởng dân số sẽ vượt sản lượng lương thực, bởi
vì dân số tăng theo hình học, trong khi sản lượng lương thực tăng theo số học.
Khi mọi người được cung cấp thức ăn, họ sẽ sinh sản cho đến khi tốc độ tăng trưởng
của họ vượt xa các nguồn cung cấp thực phẩm. Thiên nhiên sau đó sẽ cung cấp một
kiểm soát đối với sự tăng trưởng này bằng các hình thức xấu xa và đau khổ. Việc
không kiếm được thu nhập cũng có thể ngăn chặn điều này, và bất kỳ chính sách
phúc lợi cho người nghèo sẽ tự chuốc lấy thất bại. Trong thực tế, người nghèo
phải tự chịu trách nhiệm về những vấn đề của họ vốn có thể tránh được bằng cách
tự kiềm chế sinh đẻ.
David
Ricardo, người khâm phục đối Adam Smith, bao quát nhiều chủ đề tương tự [Adam
Smith ] nhưng, trong khi Smith rút ra những kết luận chủ yếu từ những quan sát
kinh nghiệm, thì Ricardo sử dụng phương pháp quy nạp, để rút ra các kết luận bằng
cách lập luận từ các giả định cơ bản. Trong khi Ricardo chấp nhận lý thuyết giá
trị lao động của Smith, ông thừa nhận rằng lợi ích có thể ảnh hưởng đến giá của
một số vật phẩm quý hiếm. Tiền lương được coi là số tiền cần thiết cho sự tồn tại
của người lao động và để duy trì mức độ dân số hiện nay. Theo luật sắt về tiền
lương của ông, tiền công không bao giờ có thể tăng quá mức sinh tồn. Ricardo giải
thích lợi nhuận là lợi nhuận trên vốn, nó là sản phẩm của lao động. Tuy nhiên,
một kết luận mà nhiều người rút ra từ lý thuyết của ông là: lợi nhuận là giá trị
thặng dư bị chiếm đoạt bởi nhà tư bản, thứ mà họ không có quyền.
4.4
Thuyết công lợi
Thuyết
công lợi cung cấp sự biện minh chính trị cho các chính phủ Anh khi thực hiện chủ
nghĩa tự do kinh tế, và đã chi phối các chính sách kinh tế từ những năm 1830. Mặc
dù thuyết công lợi thúc đẩy cải cách pháp luật và hành chính và các tác phẩm
sau này của John Stuart Mill về đề tài này là điềm báo trước về nhà nước phúc lợi,
nhưng nó chủ yếu được sử dụng để biện minh cho laissez faire.
Khái
niệm trung tâm của thuyết công lợi, vốn được phát triển bởi Jeremy Bentham, là
các chính sách công cần tìm cách cung cấp "hạnh phúc lớn nhất của số lượng
lớn nhất". Trong khi điều này có thể được hiểu như một sự biện minh cho
các hành động của nhà nước để giảm bớt nghèo đói, nó cũng được sử dụng bởi các
nhà tự do cổ điển để biện minh cho việc không hành động của nhà nước với lập luận
rằng lợi ích ròng cho tất cả các cá nhân sẽ cao hơn.
5.
Kinh tế chính trị học
Các
nhà tự do cổ điển xem công lợi là nền tảng cho các chính sách công. Điều này đoạn
tuyệt với cả "truyền thống" bảo thủ và truyền thống "quyền tự
nhiên" kiểu Locke, vốn bị coi là phản duy lý. Công lợi, trong đó nhấn mạnh
đến hạnh phúc của cá nhân, đã trở thành giá trị đạo đức trung tâm của tất cả
các dạng chủ nghĩa tự do. Mặc dù thuyết công lợi truyền cảm hứng cho nhưng cải
cách sâu rộng, nhưng nó đã trở thành một biện minh chủ yếu cho kinh tế học laissez-faire.
Tuy nhiên, các nhà tự do cổ điển bác bỏ niềm tin của Adam Smith rằng "bàn
tay vô hình" sẽ dẫn đến lợi ích chung và chấp nhận quan điểm của Thomas
Robert Malthus rằng việc mở rộng dân số sẽ làm biết mất lợi ích chung và quan
điểm của David Ricardo về sự tất yếu của mâu thuẫn giai cấp. Laissez faire được
xem như là cách tiếp cận kinh tế khả hữu nhất, và bất kỳ sự can thiệp của chính
phủ được xem là vô ích và có hại. Đạo luật Sửa đổi luật nghèo khó vào năm 1834
được bảo vệ trên các "nguyên tắc khoa học hay các nguyên tắc kinh tế",
trong khi các tác giả của Luật nghèo khó thời Elizabeth năm 1601 thấy không có
các lợi ích gì từ việc đọc Malthus.
Tuy
nhiên, cam kết đối với laissez faire không như nhau. Một số nhà kinh tế chủ
trương nhà nước hỗ trợ cho các công trình công cộng và giáo dục. Các nhà tự do
cổ điển cũng bị chia rẽ về vấn đề tự do thương mại. Ví dụ, Ricardo bày tỏ sự
nghi ngờ rằng việc loại bỏ thuế quan được ủng hộ bởi Richard Cobden và Liên
đoàn phản đối luật ngũ cốc sẽ mang lại bất kỳ lợi ích chung. Hầu hết các nhà tự
do cổ điển ủng hộ việc lập pháp để điều chỉnh số giờ làm việc của trẻ em và thường
không phản đối việc lập pháp để cải cách nhà máy.
Dù
tính thực dụng của các nhà kinh tế học cổ điển, song các quan điểm của họ vẫn
được trình bày theo cách giáo điều bởi các tác giả nổi tiếng như Jane Marcetand
Harriet Martineau. Thành trì mạnh nhất của laissez faire là tờ Economist được
thành lập bởi James Wilson vào năm 1843. Tờ Economist chỉ trích Ricardo vì sự
không ủng hộ của ông cho tự do thương mại và thể hiện thái độ thù địch rõ ràng
đối với nhà nước phúc lợi, đồng thời tin rằng các tầng lớp thấp hơn phải chịu
trách nhiệm cho hoàn cảnh kinh tế của họ. Tờ Economist ủng hộ quan điểm cho rằng
các quy định về giờ làm việc của nhà máy là có hại đối với người lao động, cũng
như phản đối quyết liệt sự hỗ trợ cho giáo dục, y tế, cung cấp nước sạch, và cấp
bằng sáng chế và bản quyền.
Tờ
Economist cũng vận động chống lại luật ngũ cốc vốn bảo vệ các chủ đất ở Liên hiệp
Vương quốc Anh và Ireland khỏi sự cạnh tranh với các sản phẩm ngũ cốc nhập khẩu
rẻ hơn. Một niềm tin cứng rắn vào laissez faire hướng dẫn các phản ứng của
chính phủ trong 1846-1849 đối với Nạn đói lớn tại Ireland, trong đó ước tính có
1,5 triệu người chết. Bộ trưởng chịu trách nhiệm về các vấn đề kinh tế và tài
chính, Charles Wood, hi vọng rằng
doanh nghiệp tư nhân và thương mại tự do, chứ không phải là sự can thiệp của
chính phủ, sẽ làm giảm bớt nạn đói. Luật ngũ cốc cuối cùng đã bị hủy bỏ vào năm
1846 bằng cách loại bỏ thuế quan đối với ngũ cốc vốn được dùng để giữ giá bánh
mì cao một cách giả tạo. Tuy nhiên, việc bãi bỏ luật ngũ cốc đến quá muộn để
ngăn chặn nạn đói ở Ailen, một phần bởi vì nó được thực hiện trong giai đoạn
kéo dài hơn ba năm.
6.
Tự do thương mại và hòa bình thế giới
Một
số nhà tự do, bao gồm Adam Smith và Richard Cobden, lập luận rằng sự trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia có thể dẫn đến hòa bình thế giới. Erik Gartzke nói,
"Các học giả như Montesquieu, Adam Smith, Richard Cobden, Norman Angell,
và Richard Rosecrancehave từ lâu đã cho rằng thị trường tự do có tiềm năng giải
phóng các quốc gia khỏi viễn cảnh các cuộc chiến tranh tái diễn liên tục".
Các nhà khoa học chính trị Mỹ như John R. Oneal và Bruce M. Russett, nổi tiếng
với tác phẩm về lý thuyết hòa bình dân chủ cho rằng:
Các
nhà tự do cổ điển ủng hộ các chính sách gia tăng tự do và thịnh vượng. Họ đã
tìm cách trao quyền chính trị cho giai cấp thương nhân và bãi bỏ các điều lệ
hoàng gia, những sự độc quyền, và các chính sách bảo hộ của chủ nghĩa trọng
thương để khuyến khích tinh thần kinh doanh và tăng hiệu quả sản xuất. Họ cũng
hi vọng thể chế dân chủ và kinh
tế học laissez-faire sẽ giúp giảm bớt tần suất của chiến tranh.
Adam
Smith lập luận trong tác phẩm Của cải của
quốc gia rằng, khi xã hội phát triển từ săn bắn hái lượm đến xã hội công
nghiệp, các chiến lợi phẩm của chiến tranh sẽ tăng nhưng chi phí của chiến
tranh sẽ tiếp tục tăng, khiến cuộc chiến khó khăn và tốn kém hơn cho các quốc
gia công nghiệp.
Nhờ
sự phụ thuộc lợi ích lẫn nhau giữa họ tạo ra sự thống nhất giữa các dân tộc nhằm
chống lại bạo lực và chiến tranh ... tinh thần thương mại không thể cùng tồn tại
với chiến tranh, và sớm hay muộn tinh thần này chi phối mọi người. Vì trong số
tất cả những xức mạnh ... vốn thuộc về một quốc gia, sức mạnh tài chính là đáng
tin cậy nhất khi buộc các quốc gia phải theo đuổi nguyên tắc hòa bình ... và bất
cứ nơi nào trên thế giới mối đe dọa chiến tranh xảy ra, họ sẽ cố gắng giải quyết
nó thông qua hòa giải, giống như họ đã liên minh vĩnh viễn cho mục đích này.
Cobden
tin rằng chi phí quân sự sẽ làm tồi tệ đến sự thịnh vượng của quốc gia và làm lợi
cho một tầng lớp thiểu số nhỏ nhưng tập trung, cuối cùng dẫn đến chủ nghĩa đế
quốc Anh, ông tin đó là kết quả của những hạn chế kinh tế của các chính sách kinh
tế trọng thương. Đối với Cobden, và nhiều nhà tự do cổ điển, thì những người ủng
hộ hòa bình cũng sẽ ủng hộ thị trường tự do.
Niềm
tin tự do thương mại sẽ thúc đẩy hòa bình được chia sẻ rộng rãi bởi các nhà tự
do Anh thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, dẫn đầu bởi nhà kinh tế học John Maynard
Keynes (1883-1946), vốn là một nhà tự do cổ điển khi còn trẻ, và ông vẫn tin tưởng
tuyệt đối vào nó ít nhất cho đến năm 1920. Một diễn đạt có liên quan đến ý tưởng
này là lập luận của Norman Angell (1872-1967), nổi tiếng trước thế chiến I với
tác phẩm Ảo tưởng vĩ đại (1909), cho
rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của các cường quốc lớn quá lớn đến mức mà
cuộc chiến giữa họ là vô ích và phi lý.
7.
Quan hệ với chủ nghĩa tự do hiện đại
Nhiều
học giả của chủ nghĩa tự do hiện đại cho rằng không tồn tại sự khác biệt lớn giữa
chủ nghĩa tự do cổ điển và chủ nghĩa tự do hiện đại. Alan Wolfe tóm tắt quan điểm
này như sau, nó:
bác
bỏ bất kỳ sự phân biệt nào, thay vào đó nó bảo vệ cho sự tồn tại của một cách
hiểu về tự do vốn kéo dài liên tục từ Adam Smith đến John Maynard Keynes...Ý tưởng
cho rằng chủ nghĩa tự do có hai hình thức dựa trên giả định rằng vấn đề cơ bản
nhất đối với nhân loại là sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế... Tuy
nhiên, khi chúng ta thảo luận về mục đích của con người và ý nghĩa của cuộc sống,
thì Adam Smith và John Maynard Keynes cùng đứng về cùng một phía. Cả hai đều sở
hữu một cái nhìn rộng mở về những gì chúng ta thực hiện trên trái đất này. Cả
hai đều đứng về phía khai sáng. Cả hai đều là những người lạc quan, tin tưởng
vào sự tiến bộ nhưng nghi ngời đối với các chương trình lớn vốn yêu sách biết tất
cả các câu trả lời. Đối với Smith, chủ nghĩa trọng thương là kẻ thù đối với sự
tự do của con người. Đối với Keynes, sự độc quyền tương tự như vật. Smith kết
luận một cách tin tưởng rằng nhân loại sẽ thinh vượng với thị trường. Các nhà
tư tưởng thế kỷ XX cam kết với lý tưởng tương tự, chính phủ là một công cụ cần
thiết cho cùng mục đích ... Do đó, chủ nghĩa tự do hiện đại là hệ quả về mặt logic
và xã hội học của chủ nghĩa tự do cổ điển.
Tuy
nhiên, theo William J. Novak, chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ "giữa năm 1877 và
1937 ... chuyển từ chủ nghĩa hợp hiến laissez-faire đến chủ nghĩa tập trung quyền
lực với New Deal, từ chủ nghĩa tự do cổ điển đến chủ nghĩa phúc lợi – dân chủ
xã hội".
LT
Hobhouse trong tác phẩm Chủ nghĩa tự do
(1911) gán sự thay đổi có mục đích này, trong đó bao gồm chấp nhận sự can thiệp
của chính phủ vào nền kinh tế và quyền tập thể đối với sự bình đẳng trong các
giao dịch, tới mong muốn cho sự gia tăng "tính đồng thuận". Hayek viết
rằng cuốn sách Hobhouse nếu đặt tên chính xác hơn thì phải là Chủ nghĩa xã hội,
và chính Hobhouse gọi các niềm tin của mình là "chủ nghĩa xã hội tự
do".
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Classical_liberalism