Gần
đây, dư luận quan tâm và tranh cãi nhiều về dự luật “đơn vị hành chính-kinh tế
đặc biệt” (gọi tắt là “đặc khu kinh tế”) sắp được Quốc Hội “bấm nút” thông qua.
Dự kiến ba đặc khu kinh tế đầu tiên là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong
(Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ (tính
đến năm 2030). Tuy không phản đối khái niệm “đặc khu kinh tế” (special
economic zone) và chưa biết họ lấy tiền từ đâu để đầu tư nhưng tôi không ủng
hộ ba đặc khu kinh tế nói trên, vì các lý do sau.
Bối
cảnh
Tuy
đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi (như Việt Nam), đặc khu kinh tế vẫn
là một mô hình phát triển hấp dẫn, nhưng dường như đã lỗi thời và có nhiều bài
học thất bại. Nó đòi hỏi những điều kiện nhất định, vì vấn đề không phải là làm
cái gì (what) mà là làm thế nào (how). Mọi chuyện đều có thể, nhưng “sai một ly
đi một dặm”. Nếu đủ điều kiện và phát triển đúng hướng/đúng cách, nó có thể là
đòn bẩy kinh tế và đầu tàu phát triển (như Thâm Quyến). Dubai là một bài học
thành công mà nhiều nước khác muốn bắt chước. Nhiều người Việt đã từng mơ ước
biến Chu Lai thành Dubai của Việt Nam, hay biến Phú Quốc thành Singapore của Việt
Nam. Singapore thành công vì có Lý Quang Diệu (Việt Nam không có). Dubai thành
công vì không có yếu tố Trung Quốc (Việt Nam có quá nhiều).
Tuy
ý tưởng về đặc khu kinh tế không mới, nhưng người ta đã chóng quên bài học xấu
về các dự án lớn như “đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng”, khai thác
bauxite Tân Rai & Nhân Cơ (Tây Nguyên), cũng như kinh nghiệm xấu tại Chu
Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định,
2005), Chân Mây (Thừa Thiên, 2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú
Yên (Phú Yên, 2008). Tại sao các nơi đó thất bại? Cái gì đảm bảo ba đặc khu mới
này sẽ thành công? Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và
tham nhũng, thì các mô hình phát triển tương tự sẽ lặp lại bài học “lợi bất cập
hại”.
Khi
tài nguyên ngày càng cạn kiệt và quỹ đất ngày càng khan hiếm, các nhóm lợi ích
tất nhiên sẽ đua nhau tận thu bằng nhiều cách, như tăng thuế (VAT, thu nhập,
tài sản), tăng giá (xăng dầu, điện, nước), tăng phí (như BOT). Đặc khu kinh tế
là một miếng mồi ngon mà họ sẽ vận động để có phần. Trong khi Trung Quốc ráo riết
quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, không cho người Việt khai thác dầu khí và
đánh cá trong vùng biển của mình, chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để
chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon
mà họ thèm muốn. Các nhóm lợi ích Việt Nam có thể câu kết với các tập đoàn
Trung Quốc (vì song trùng lợi ích) để thao túng chính sách và dự
án.
Tuy
năng lực quản trị-điều hành của các cấp chính phủ (nhất là địa phương) còn yếu
kém, nhưng lòng tham vô đáy, nên họ dễ bị các nhóm lợi ích thao túng. Trong khi
bài học đau đớn về Formosa và bauxite Tây Nguyên còn chưa quên, thì bê bối về
các dự án đầu tư công tại Ninh Bình đang làm dư luận giật mình kinh hoàng. Dù
Ninh Bình không phải là đặc khu kinh tế, nhưng đã là “vương quốc”
riêng. Các nhóm lợi ích không chỉ “ăn của dân không từ một cái gì”
(như bà Nguyễn Thị Doan nói) mà họ còn “ăn tàn phá hại” và để lại những hệ quả
khôn lường, không chỉ về kinh tế và xã hội, mà còn về an ninh quốc gia.
Bức
tranh kinh tế
Theo
chuyên gia Vũ Quang Việt, các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc
“đặt lợi ích nhóm lên hàng đầu”. Các quy định trong dự luật về đặc khu chủ yếu
nhằm vào thị trường địa ốc (property) và đánh bạc (casino) chứ không nhằm thu
hút đầu tư công nghệ cao. Trong khi đó, cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và
giáo dục để tăng năng suất lao động, phát triển công nghiệp và kinh tế trí
thức, chứ không phải là phát triển địa ốc và casino. Ông Việt cho biết
trong giai đoan 2011-2016, năng suất lao động trong khu vực công nghiệp tại Việt
Nam tăng (hàng năm) rất thấp (chỉ đạt 2.9%), trong khi triển vọng tăng GDP
(bình quân hàng năm) không thể cao hơn 5.0%, nếu năng suất lao động không tăng
cao hơn 4.0%. Đó là một “hiện tượng kinh tế kỳ lạ”, và là một nghịch lý phát
triển tại một đất nước mà năng suất lao động vào loại thấp nhất thế giới (thấp
hơn Singapore 15 lần).
Do
không có cuộc tranh luận (debate) để đánh giá nghiêm túc và định lượng cụ thể
các mặt lợi & hại về kinh tế-xã hội cũng như về địa chính trị, nên dễ dẫn đến
tình trạng ngộ nhận (do chủ quan duy ý chí) hoặc bị động làm liều (do các nhóm
lợi ích thao túng) nên dễ mắc sai lầm (như trước đây). Có mấy kịch bản có
thể xẩy ra: Thứ nhất, chắc sẽ có một cơn “sốt đất mới” (new land rush) trong một
thị trường địa ốc vốn đã quá nóng do giá đất đã bị giới đầu cơ địa ốc đẩy lên
khá cao (thậm chí từ khi mới đồn đại về đặc khu). Thứ hai, dễ xuất hiện “bong
bóng địa ốc” (property bubble) có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng cung-cầu
(over supply) làm bức tranh kinh tế càng thêm méo mó và hỗn loạn. Thứ ba, do hệ
quả của 2 hiện tượng nói trên, các đặc khu này sẽ không hấp dẫn đối với giới đầu
tư công nghệ cao, vì họ cần một môi trường đầu tư sạch và một hệ sinh thái kinh
doanh lành mạnh hơn.
Trong
khi kêu gọi đầu tư cho công nghệ 4.0 thì những gì đang diễn ra tại các đặc khu
này chỉ là tư duy kinh tế 1.0. Nếu định dùng ưu đãi cho thuê đất 99 năm để hấp
dẫn đầu tư công nghệ cao thì không thực sự cần thiết, vì giới đầu tư công nghệ
4.0 không cần quyền sử dụng đất lâu dài. Để kinh doanh theo chuỗi cung ứng và
giá trị toàn cầu, nhà đầu tư luôn cần kết nối với hệ thống hạ tầng và hệ sinh
thái kinh doanh, mạng lưới đối tác và các tổ chức trung gian về tài chính, các
dịch vụ chuyên nghiệp và nguồn lao động tay nghề cao, là những thứ mà các đặc
khu kinh tế này không có. Điều duy nhất mà nó có chỉ đơn giản là thiết lập một
không gian tự do kinh doanh trong một môi trường kinh doanh không tự do. Những
ưu đãi đặc biệt thực ra chẳng có gì đặc biệt. Vậy mục đích thực sự của đặc khu
kinh tế là gì (ngoài bất động sản)? Câu trả lời nhãn tiền là “casino và
redlight” vì đây là nơi duy nhất (tại Việt Nam) họ được phép hành nghề tự do.
Nhưng còn một lý do nữa mà nhiều người nghĩ đến nhưng ngại nói ra (vì sợ nhạy cảm)
là yếu tố Trung Quốc. Ngoài ra không có gì khác.
Bức
tranh chính trị-xã hội
Hành
lang pháp lý của đặc khu quy định nhiều quyền hạn cho “chủ tịch đặc khu” như
lãnh chúa (hay “vua con”) có quyền cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê đất
70 năm đến 99 năm (nếu được Thủ tướng đồng ý), và có quyền chọn thầu, ký hợp
đồng lao động, tuyển công chức…Các nhà đầu tư được miễn thuế thuê đất 30
năm, có thể bán lại tài sản và thừa kế tài sản. Một số chuyên gia cho rằng cho
thuê đất tối đa 99 năm chỉ có lợi cho các đại gia bất động sản, trong khi đó
85% các nhà đầu tư khẳng định chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết (theo
World Bank). Người nước ngoài được phép làm việc 180 ngày/năm (mà không cần
giấy phép lao động). Họ chỉ
cần đầu tư 110 tỷ VNĐ ($5 triệu) là được cấp thẻ tạm trú 10 năm. Người Việt được
phép vào chơi casino, và được miễn thuế thu nhập cá
nhân trong vòng 5 năm (và giảm tiếp 50% sau đó). Những ưu đãi này sẽ dẫn đến một
làn sóng di dân mới, đặc biệt là lao động giản đơn từ Trung Quốc và các nước
láng giềng khác, làm đảo lộn cơ cấu dân số (demographic structure) và có
thể làm gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm như tình trạng “miền Tây Hoang dã” (Wild
West). Đồng thời, đặc khu kinh tế còn là “cái nôi đặc biệt” (special
cubator) cho chủ nghĩa tư bản thân hữu (hay “tư bản đỏ”).
Theo
giáo sư Minxin Pei, sự cấu kết của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony
capitalism) làm cho quá trình dân chủ hóa sẽ gặp khó khăn, rắc rối. Kịch bản
dân chủ hóa do tầng lớp trung lưu dẫn dắt rất khó xảy ra dưới chế độ tư bản
thân hữu (tại Trung Quốc). Các di sản của chủ nghĩa tư bản thân hữu (như tình
trạng bất bình đẳng về tài sản, chính quyền địa phương mafia, cấu kết với các đại
gia có đặc quyền) sẽ tạo điều kiện cho những kẻ chiếm đoạt được nhiều tài sản lớn
sử dụng quyền lực chính trị để trấn áp các nhân tố dân chủ mới làm cho họ không
thể phát triển. Chế độ thối nát (regime decay) sẽ hủy hoại thanh danh chế
độ Đảng/Nhà nước bằng ba cách. Thứ nhất, khi các nhóm lợi ích hình thành và xâm
nhập vào mọi ngõ ngách của chế độ, chúng sẽ thao túng quyền lực chính trị, biến
quyền lực của chế độ thành công cụ quyền lực riêng. Thay vì phục vụ lợi ích của
chế độ, chúng chỉ mưu cầu lợi ích riêng. Thứ hai, mạng lưới tham nhũng sẽ tranh
giành quyền lực và lợi ích nhóm, làm suy yếu sự thống nhất của Đảng. Thanh trừng
nội bộ gia tăng sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn cá nhân của lãnh đạo cấp cao.
Thứ ba, khi tham nhũng cấu kết và lan rộng trong bộ máy an ninh của Đảng/Nhà nước,
chắc chắn nó sẽ hủy hoại sự trung thành và hiệu quả của các thể chế trụ cột mà
Đảng/Nhà nước đang dựa vào để tồn tại. (China’s Crony Capitalism, Minxin
Pei, Harvard University Press, 2016).
Trong
khi một số người cho rằng Phú Quốc có thể phát triển như Singapore (theo nghĩa
tốt), một số người khác cho rằng Vân Đồn có thể trở thành Cremea (theo nghĩa xấu).
Nhưng câu chuyện thành công của Singapore (the Singapore Story) dựa trên
những tiền đề hoàn toàn khác. Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số
một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài
nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở
thành “người khổng lồ ở châu Á”. Nhưng đáng tiếc ngày nay năng suất lao động của
người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore (hay 1/5 của người Malaysia,
2/5 của người Thailand). Ông khẳng định sự thành công của một quốc gia bao gồm
ba yếu tố chính là: (1) điều kiện tự nhiên (như vị trí chiến lược và tài nguyên
thiên nhiên), (2) con người, và (3) thời cơ, nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố
con người… Vì vậy Ông Lý Quang Diệu rất tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng
nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. (Việt
Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014).
Bức
tranh an ninh quốc gia
Giả
sử các đặc khu kinh tế đó có thành công nhất định (trước mắt) về du lịch, địa ốc
và casino, thì sẽ phải trả giá về vị thế địa chính trị và an ninh quốc gia. Nói
cách khác là “lợi bất cập hại”. Nếu điều 62 về Luật Đất đai là một lỗ hổng
chính sách, bị các nhóm lợi ích thao túng, thì điều 69 là cánh cửa mở rộng cho
Trung Quốc xâm nhập Việt Nam…Tại dự án thép Formosa (Hà Tĩnh) và dự án giấy Lee
& Man (Hậu Giang) tràn ngập người Trung Quốc. Gần đây, dư luận phản ứng
chính quyền Quảng Ngãi định di dời đồn Biên phòng Bình Hải để giao đất cho tập
đoàn FLC làm dự án “quần thể du lịch nghỉ dưỡng và đô thị Bình Châu-Lý Sơn”.
Không phải chỉ có Quảng Ngãi mà trước đó Đà Nẵng cũng đã di dời đồn biên phòng
để lấy đất giao cho dự án tư nhân. Thượng tướng Võ Tiến Trung (nguyên Giám đốc
Học viện Quốc phòng) khẳng định, “việc bố trí đồn biên phòng ở đâu đã được
nghiên cứu rất kỹ. Bởi lẽ đồn nằm trong thế trận phòng ngự, bảo vệ địa phương”
(Zing, 22/4).
Điều
62 còn tiềm ẩn lợi ích nhóm, quy định chính quyền địa phương có quyền thu
hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp làm dự án. Các doanh nghiệp Việt Nam có
quyền giao lại đất cho doanh nghiệp nước ngoài (như Trung Quốc). Trong một cuộc
hội thảo tại Nhật (7/9/2017), ông Trịnh Văn Quyết (chủ tịch FLC) tuyên bố ngoài
việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước
ngoài”. Theo tin báo chí, UBND tỉnh Quảng Trị đang chuẩn bị giao cho FLC 1000
ha tại bãi biển Cửa Việt, dự kiến để làm resort, sân golf, và xây dựng một sân
bay. Ngoài Vũng Áng (đã nằm trong tay Trung Quốc), Vân Phong và Cửa Việt là hai
vị trí chiến lược hiểm yếu đang bị Trung Quốc nhòm ngó. Từ Bắc Trung bộ đến
Nam Trung bộ, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược đã và đang được giao cho doanh
nghiệp làm dự án mà không tính đến yếu tố an ninh quốc gia. Tại Đà Nẵng và Nha
Trang, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển đã bị các doanh nghiệp
Trung Quốc chiếm.
Trong
bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc
đe dọa nghiêm trọng, việc mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó
vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an
ninh quốc gia. Với năng lực quản trị yếu kém nhưng tiềm năng tham nhũng vượt trội,
các khu vực đó sẽ trở thành các “đặc khu tham nhũng” của các nhóm lợi ích “tư bản
đỏ” không bị kiểm soát, và là “cái nôi đặc biệt” cho “tư bản thân hữu”. Nếu trước
đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, thì
không có lý gì các đặc khu kinh tế đó lại không rơi vào tay họ và biến thành
các “tô giới của Trung Quốc”. Các tập đoàn “tư bản thân hữu” Trung Quốc được
nhà nước chống lưng có thừa nguồn vốn và động cơ để thôn tính các đặc khu kinh
tế này như một cuộc “xâm lược mềm”, không cần đánh vẫn thắng (như binh pháp Tôn
Tử hay “Cờ Vây”). Những vị trí hiểm yếu trên đất liền mà Trung Quốc không chiếm
được bằng vũ lực (như họ đã từng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa) thì họ sẽ cưỡng
chiếm bằng được qua đầu tư và “sức mạnh sắc bén” (sharp power). Vì vậy, “chủ
tương lớn” về ba đặc khu kinh tế với những ưu đãi đặc biệt (như cho thuê đất 99
năm), chẳng khác gì “gửi trứng cho ác” hay “nối giáo cho giặc”.
Bức
tranh địa chiến lược
Trong
lịch sử, Vân Đồn vốn là một tiền đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía
Đông Bắc, để ngăn chặn thủy quân Trung Quốc xâm nhập bằng đường biển, như thời
Ngô Quyền chống quân Nam Hán (tại Trận Bạch Đằng năm 938), thời Lý Thương Kiệt
chống quân Tống, (1075-1077), thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông
(1287-1288). Khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu,
thì Vân Đồn và Móng Cái là địa điểm tập kết quân nhà Lý. Khi Lý Thường Kiệt lập
phòng tuyến Sông Cầu để chống quân Tống, Vân Đồn là căn cứ của thủy quân nhà Lý
để ngăn chặn thủy quân Tống, không cho ngược sông để hội quân với bộ binh địch,
nên quân Tống đã bại trận…
Nếu
Vân Đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc nhìn ra Vịnh Bắc Bộ,
thì Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn
ra Ấn Độ Dương, trong khi Vân Phong có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ Miền
Trung nhìn ra Biển Đông. Tại Miền Trung, ngoài cảng Sơn Dương (Vũng Áng) mà
Trung Quốc đã nắm, nay chỉ còn Vân Phong và Cửa Việt là hai cảng trung chuyển lớn
(nước sâu) có tầm quan trọng chiến lược, nhưng Trung Quốc chưa nắm được. Phú Quốc
có vị trí đặc biệt trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific (cách Sihanoukville
và Bokor có mấy chục km). Trung Quốc đã thuê được (lâu dài) hai vị trí chiến lược
đó của Campuchea, nên họ rất thèm có Phú Quốc, để hình thành một tam giác chiến
lược. Một khi Trung Quốc thỏa thuận được với Thailand để làm kênh đào Kra thì vị
trí chiến lược của Phú Quốc còn quan trọng hơn cả Singapore.
Theo
James Holmes (một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến lược hải quân), một cuộc
xung đột vũ trang tại Biển Đông là có thể, và Trung Quốc có thể thắng Mỹ trong
một cuộc chiến tại Biển Đông bằng “chiến tranh nhân dân trên biển” (people’s
war at sea). Các chính khách và chuyên gia tại Washington và Hà Nội không
nên coi phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Trung quốc Thường Vạn Toàn (tướng
Chang Wanquan) chỉ là “dọa dẫm” (bluster). Trung Quốc có thể thắng
dù họ vẫn yếu hơn Mỹ, bằng cách tập trung binh lực áp đảo Mỹ tại địa điểm và thời
điểm quan trọng nhất. Tư tưởng “phòng ngự tích cực” (active defense) là
tấn công chiến thuật để phòng ngự chiến lược. Hiện nay, các tư lệnh Trung Quốc
có thể hợp đồng tác chiến bằng các lực lượng cả nhỏ lẫn lớn để đương đầu với Mỹ
và đồng minh. Vì vậy các tư lệnh Mỹ và đồng minh phải nghiên cứu binh pháp của
Trung Quốc để hiểu rõ tư tưởng phòng ngự tích cực ngoài khơi (offshore
active defence) tại Biển Đông sẽ diễn ra thế nào. (China Could Win a War
Against America in the South China Sea, James Holmes,
National Interest, May 30, 2018).
Nếu
xung đột tại Biển Đông xảy ra thì ba đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, và Phú Quốc có
ý nghĩa chiến lược hiểm yếu đối với mục tiêu ngăn chặn địch tiếp cận (A2/AD). Nếu
ba vị trí chiến lược đó bị đối phương (Trung Quốc) chiếm thì coi như hết cờ (và
“xong phim”), không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả ASEAN và các cường quốc khác
có lợi ích sát sườn tại Biển Đông như Mỹ-Nhật-Ấn-Úc, và EU (hoặc Nga). Nếu Biển
Đông có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với ASEAN và các cường
quốc khác, thì câu chuyện đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc cũng có
ý nghĩa tương tự. Ý nghĩa quan trọng nhất của ba đặc khu kinh tế này là chiến
lược (chứ không chỉ kinh tế).
Thay
lời kết
Ba
đặc khu kinh tế mới là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc
(Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ. (Riêng Vân Đồn là 270.000
tỉ, Bắc Vân Phong là 400.000 tỉ, Phú Quốc là 900.000 tỉ). Tuy chưa biết họ có định
“đội vốn” lên như “hội chứng Ninh Bình” hay không, nhưng với con số 1.570.000 tỉ
VNĐ, ngân sách nhà nước hay doanh nghiệp Việt đào đâu ra tiền (nếu không từ
“phương bắc”). Điều này tiềm ẩn những rủi ro lớn và nguy cơ lâu dài về địa
chính trị và an ninh quốc gia. Nếu đặt câu chuyện ba đặc khu kinh tế này
trong bối cảnh xung đột lợi ích Biển Đông và tầm nhìn Indo-Pacific hiện nay,
thì yếu tố Trung Quốc trong bức tranh địa chiến lược hiện lên rất
rõ.
Bản
chất của các đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc, Vân Phong, chủ yếu là sân chơi địa ốc
và cờ bạc. Ngay khi vừa mới bàn đến triển vọng thành lập đặc khu thì người ta
đã đổ xô đến chiếm đất để đầu cơ và đẩy giá lên rồi, vậy cần thành lập đặc khu
làm gì nữa. Muốn Vân Phong trở thành một cảng trung chuyển thì không nhất thiết
phải lập đặc khu. Đầu tư địa ốc thực chất cũng chỉ là đầu cơ để để trục lợi ngắn
hạn. Yếu tố chính để thu hút đầu tư là một số ưu đãi để lách luật, trốn thuế,
hay rửa tiền. Nhưng nếu thu hút đầu tư bằng mọi giá, thì cái giá phải trả cũng
sẽ rất lớn. Muốn phát triển bền vững, phải cải tổ thể chế để hội nhập quốc tế
theo các tiêu chuẩn chung đã cam kết thông qua các hiệp định như WTO, BTA, FTA
(và CPTPP).
Tuy
Đảng lãnh đạo “toàn diện và triệt để”, nhưng Quốc Hội cũng phải gánh một phần
trách nhiệm. Đây là lúc đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét kỹ
và quyết định nên chọn cái gì (như nên “chọn cá hay thép”). Nếu quyết định đúng
họ sẽ được hậu thế hàm ơn. Nếu quyết định sai họ sẽ bị hậu thế nguyền rủa (dù
có cao chạy xa bay). Nhiều chuyên gia cho rằng để được thông qua, dự luật này cần
phải bổ xung, sửa đổi rất nhiều, để đảm bảo lợi ích quốc gia, và tránh những
sai lầm đáng tiếc. Hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội, thể chế, môi trường, và
an ninh quốc gia, do các đặc khu để lại có thể khôn lường. Vì vậy, các đại biểu
quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét xem ai được lợi từ đặc khu, và quyết
định “bấm nút” vì lợi ích quốc gia, chứ không vì lợi ích nhóm (hay ngoại
bang).
Tham
khảo
1. Việt
Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014
2. China’s
Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016
3. Dự
án luật về ba đặc khu Vân Đồn, Văn Phong và Phú Quốc, Vũ
Quang Việt, Viet-studies, 30/5/2018
4. Mô
hình đặc khu đã lỗi thời, Nguyễn Tiến Lập, MTG, 31/05/2018
5. China
Could Win a War Against America in the South China Sea, James Holmes,
National Interest, May 30, 2018