Trong
mọi tổ chức chính trị, lớn hay nhỏ, triết lý chính trị là nền
tảng quan trọng hàng đầu [1]. Triết lý chính trị là những kiến thức nền tảng
vững chắc, bao gồm cả nguồn gốc lịch sử hình thành tư tưởng chính trị của
nhân loại. Nó giúp uốn nén hình thành nên những tư tưởng lớn. Nhưng có kiến thức
sâu rộng cũng chưa đủ vì như thế chỉ dừng lại ở tầm học thuật. Người lãnh đạo tầm
quốc gia hay quốc tế cần phải có những ước mơ cao xa và những quyết tâm phi thường.
Có tư tưởng lớn sẽ giúp lãnh đạo quốc gia lèo lái con thuyền vững
ổn khi gặp thử thách trong thời đại lắm rủi ro này.
Tư
tưởng lớn là có tầm nhìn lớn. Đối với trường hợp Việt Nam, chúng
ta thật sự cần những lãnh đạo và tổ chức có tầm nhìn xa. Nếu không
có sự chuẩn bị kỹ càng về mặt tư tưởng chính trị thì làm sao đối
phó với bao nhiêu thử thách vô cùng lớn lao trên bình diện quốc gia,
một khi chế độ độc tài sụp đổ! Đâu là những chính sách phát triển thích
hợp cho đất nước về kinh tế, thương mại, giáo dục, an ninh quốc
phòng, môi trường, văn hóa v.v...? Làm sao giải quyết những vấn nạn
lớn của xã hội do chế độ độc tài để lại trong bao thập niên qua, từ
độc đoán, tham nhũng, tội ác, cho đến các cơ sở hạ tầng hay các
định chế nhà nước yếu ớt, vô hiệu quả? Chính sách ngoại giao khôn
khéo nào để đối phó với các thế lực ngoại bang, trong đó có Trung
Quốc, luôn tìm cách thao túng và lũng đoạn nền chính trị dân chủ non
trẻ? Làm sao để nâng cao tinh thần tự lập, tự cường, nhân bản và dân
chủ cho các thế hệ hôm nay và mai sau? V.v...
Toàn
là những vấn đề lớn và nhứt nhối, đòi hỏi trí tuệ, kinh nghiệm và
tiềm năng của toàn dân tộc. Nhưng đầu tiên hết là những lãnh đạo chính
trị có tầm nhìn để vạch ra hướng đi và tìm ra những giải pháp tối ưu cho
đất nước. Nếu lãnh đạo quốc gia mà không suy nghĩ về các vấn đề
này, thì làm sao họ có giải pháp thích hợp? Khi thử thách đến mới tìm
cách giải quyết trong thời đại này thì quá trễ rồi. Thử nhìn xem, lãnh đạo
Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ nghĩ đến việc lật đổ Việt Nam Cộng Hòa
bằng mọi giá, nhưng họ hoàn toàn không có ý niệm hay dự án nào để
xây dựng lại Việt Nam sau khi thống nhất! Chỉ toàn là những ước mơ viễn
vông, ảo tưởng về thiên đường cộng sản, vậy thôi!!!
Còn
phần lớn người Việt, trong lẫn ngoài nước, hình như vẫn chưa đọc tác
phẩm nào hay phần trích đoạn nào của các triết gia chính trị của thời
kỳ Phục Hưng cho đến nay [2]. Họ coi các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền
như là khẩu hiệu hơn triết lý, như là phương tiện hơn mục tiêu sau cùng.
Nhưng
tư tưởng chính trị sâu sắc vẫn chưa đủ, bởi muốn thay đổi thì cái
lý thuyết hay học thuật chỉ là khởi đầu. Thực tế luôn khác với lý
thuyết. Phải có đủ tiềm lực, và lãnh đạo tài tình, mới tạo ra những
thay đổi tích cực và hiệu quả. Về mặt chính trị, mọi chế độ cầm
quyền không tự nhiên nhường ghế cai trị cho người khác, trừ khi bị áp
lực hay bắt buộc phải thay đổi. Các chế độ độc tài toàn trị còn
hơn thế vì họ chủ trương nắm quyền bằng mọi giá và tiếp tục duy
trì quyền lực bằng mọi giá. Cho nên muốn thay đổi hay thương lượng
với họ mà không có đủ lực trong tay thì đừng mong đạt được điều gì vững ổn.
Do đó những người muốn thay đổi thực trạng Việt Nam hôm nay không có sự
chọn lựa nào khác ngoài việc xây dựng các tổ chức của mình cho
thật vững mạnh. Đến một lúc nào đó các tổ chức phải nỗ lực kết
hợp nhau, hoặc liên kết chặt chẽ nhau, để hội tụ thành một vài
chính đảng có tiềm năng tổ chức và tầm nhìn hầu có đủ sức mạnh
tạo áp lực, thách thức hay cân bằng quyền lực của chế độ.
Tuy
nhiên bước đầu tiên quan trọng nhất vẫn là xây dựng văn hóa đấu tranh
có tổ chức [3]. Còn đấu tranh lẻ tẻ, vô tổ chức, vô định hướng, kiểu
chơi nổi, trình diễn v.v..., thì chẳng khác gì lấy trứng chọi đá,
chỉ mất mát nhưng không đi đến đâu cả, cho dù tinh thần quyết tâm và
can đảm đó thật đáng khâm phục đi nữa!
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao nhiêu tổ chức đấu tranh như Phong
trào Cần Vương (kể cả cuộc khởi nghĩa Yên Thế của ông Hoàng Hoa
Thám), Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, cho đến các tổ chức cách mạng
như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, v.v... tất cả đều thất bại. Sau
30 tháng Tư năm 1975, nhiều tổ chức kháng chiến đã được hình thành
nhưng rồi cũng đi đến thất bại. Hai thời điểm khác nhau nhưng có cùng
lý do: thiếu nền tảng tư tưởng, thiếu tổ chức và thiếu lãnh đạo. Nên
nhớ tổ chức nào đến với nhau cũng đều có một số quy ước chung để
hoạt động, nhưng ở bình diện quốc gia, tổ chức và lãnh đạo đó phải
có tư tưởng lớn, tầm nhìn chiến lược dài hạn và khả năng tổ chức ở
bình diện quy mô để có thể huy động một phần đáng kể của bộ phận
dân tộc cho mục tiêu thay đổi ngắn hạn và dài hạn.
Chỉ
có Đảng Cộng Sản/Lao Động Việt Nam, trong bao nhiêu tổ chức khác,
thành công trong cuộc cách mạng của thế kỷ qua, nhờ ba yếu tố chính.
Một, mặc dầu là một hệ tư tưởng phản khoa học, ít ra họ có triết lý
chính trị nhờ vay mượn từ chủ nghĩa cộng sản. Hai, dù rất sắt thép
và bạo ngược, họ đấu tranh có tổ chức và kỷ luật. Ba, tuy hoàn toàn
bất lương và mị dân, họ có khả năng tuyên truyền để người dân trong
nước tin theo mục tiêu ảo tưởng của họ, và có khả năng vận động cộng
sản quốc tế cũng như người dân ở các quốc gia tự do ủng hộ mục
đích trá hình của họ.
Cho
đến ngày hôm nay, tuy bộ mặt thật của chế độ đã được phơi bày, tuy
chính nghĩa không còn đứng về phía họ bấy lâu nay, chế độ cầm quyền
hiện tại vẫn còn đủ mạnh để tiếp tục cai trị một cách hà khắc,
và tiếp tục đàn áp một cách thô bạo. Ai muốn chửi chế độ thì cứ
chửi, nhưng không phải vì bị chửi mà họ sẽ sụp đổ. Không nên coi
thường mọi khả năng và thủ đoạn của họ. Các lực lượng dân chủ nếu
không nhìn ra được sức mạnh của chế độ ở đâu, làm thế nào họ duy
trì được nó cho đến hôm nay, và nếu không nhìn thấy khả năng và sức
mạnh thực sự của mình, tìm ra những phương cách mới để huy động
được người dân, để vận dụng mặt trận quốc tế vận, thì cuộc vận
động dân chủ sẽ không đi về đâu cả. Rồi cũng chỉ loay hoay, một bước
tới hai bước lùi, như đã thấy hơn bốn thập niên qua.
Ở
chỗ tôi làm, khi áp dụng một chính sách, một phương pháp hay một ý
tưởng nào đó thành công, những người đồng nghiệp ở mọi cấp đều
muốn tìm hiểu và học hỏi. Ngược lại, khi áp dụng thất bại, mà
thất bại đó có những ảnh hưởng tiêu cực lên một số cá nhân hay một
số thành phần trong xã hội, hay chỉ với một người thôi, thì cũng đủ
lý do để rà soát lại toàn bộ hệ thống, toàn bộ khung sườn suy nghĩ
(framework), để những sai lầm hay thất bại đó không tái diễn nữa.
Không
phải chỉ chỗ làm của tôi thôi. Hầu như tinh thần chung ở mọi mặt xã
hội tại Úc, và các quốc gia dân chủ cấp tiến và văn minh, đều như
vậy cả. Đại đa số công dân ai cũng muốn thành công, không ai muốn thất
bại, ngoại trừ những người lười biếng. Muốn thành công thì cần phải học
cái hay cái đúng và tránh cái dở cái sai. Cái sai trong nền pháp
trị thường phải trả giá rất đắc, về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Đó
là tinh thần cầu tiến, khoa học, tự tin, liêm chính và trách nhiệm
cần thiết để xây dựng đất nước và con người. Người Tây phương và
quốc gia của họ, và một số quốc gia thuộc Á châu sau này, trở nên hùng mạnh
chủ yếu nhờ tinh thần cầu tiến không ngừng này để canh tân và hoàn
thiện mọi mặt xã hội. Nhờ lối suy nghĩ phê phán, phân tích hệ thống
và lý luận cao siêu, họ luôn nhận diện ra được những cái bất công
bất toàn và bất lương trong xã hội và do đó họ luôn chấp nhận những
ý kiến và sáng kiến mới để tìm cách cải thiện.
Thời
gian đã quá đủ, nếu không phải là quá trễ, để nhìn lại và bình tâm
phân tích nguyên do nào cuộc vận động dân chủ chưa thành công. Đâu là
những bài học và kinh nghiệm cần thiết nhất để giúp nhau nhìn ra
vấn đề, một cách khoa học và hệ thống, hầu có thể cùng nhau đi
những bước tiến và vững trong thời gian tới?
Trên
tinh thần đó, tôi muốn trình bày ba đề nghị chính sau đây.
Một,
nghiên cứu một cách hệ thống cuộc vận động dân chủ cho Việt Nam trong
quá khứ và cho tương lai.
Muốn
đẩy mạnh công cuộc dân chủ về phía trước thì người vận động phải là những tín đồ
dân chủ thật sự. Nghĩa là phải có tư tưởng và hành động dân chủ. Không thể hô
hào dân chủ mà hành xử độc đoán. Trong môi trường/văn hóa dân chủ, mọi người đều
có quyền chia sẻ và bầy tỏ quan điểm của chính mình. Điều này đồng nghĩa với việc
mình phải biết lắng nghe ý kiến người khác. Sự đóng góp ý kiến là một việc lành
mạnh và luôn được khuyến khích. Nhưng thái độ đóng góp ý kiến, thái độ lắng
nghe, thái độ tiếp cận ý kiến, mổ sẻ phân tích, vân vân, là điều mà tất cả
chúng ta cần phải học hỏi. Người thiếu kiến thức, đuối lý, thiếu khả năng tranh
luận nên cố gắng trau dồi kiến thức để có thể đóng góp tích cực hơn. Đừng quay
ra sử dụng những ngôn ngữ thiếu đứng đắn, thiếu giáo dục. Cách lý luận gàn bướng
trở thành hàm hồ, hay tệ hơn là đạp đổ. Những người có thái độ thiếu văn hóa
trong việc góp ý đã tự công khai cho người khác khả năng yếu kém, thiếu kiến thức
của mình.
Trên
đây chỉ là một trong vô số các điều kiện cần thiết và căn bản cho cuộc vận động
dân chủ. Nhưng để giúp mọi người nhìn ra được hướng đi và phương pháp rõ ràng,
cụ thể thì phải cần nghiên cứu khoa học, khách quan. Cho nên cuộc điều nghiên
này sẽ đưa ra những phân tích và kết luận cho những đề nghị cần
thiết cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam trong một hoặc hai thập niên
tới, dựa trên những thất bại đã qua và các thành công nhỏ, nếu có. Để có giá
trị thì cuộc nghiên cứu này đòi hỏi tính chuyên môn cao và tính độc lập hoàn
toàn.
Hai,
phát huy khả năng suy nghĩ phê phán trong mọi tầng lớp người Việt trong
và ngoài nước.
Cả
một dân tộc từ ngàn năm qua bị đầu độc bởi những tư tưởng, chủ
thuyết và các giá trị chính trị và văn hóa có mục tiêu phục vụ cho
chế độ cầm quyền hơn cho người dân, trong đó có Khổng giáo và Cộng
sản. Văn hóa chính trị là cản trở chính của người Việt trong nhiều thập
niên qua. Tôn trọng bằng cấp, suy nghĩ cục bộ, chạy theo các sự kiện
nhất thời, không có tính kỷ luật bảo mật, nặng hình thức nhẹ nội dung,
thù dai v.v... là điều nên dứt đỏ càng sớm càng tốt. Mở mang trí tuệ để nghiên
cứu học hỏi sự thành công lẫn thất bại của nền chính trị Tây phương là vô cùng
cần thiết. Quan trọng nhất là lối suy nghĩ phê phán.
Tập
trung đào tạo lối suy nghĩ phê phán cũng đồng nghĩa với việc giúp
cho người ta có một cái nhìn mới, cái suy nghĩ mang tính đa chiều,
chấp nhận khác biệt, bỏ bớt đi thói quen chụp mũ bừa bãi hay nghe
răm rắp những lời ngon ngọt của các chính trị gia mị dân, chẳng hạn.
Nó giúp cho người ta biết suy nghĩ chín chắn hơn, sử dụng lý luận
để nhận định thay vì cảm xúc. Một khi thu nạp được khả năng này thì
người ta sẽ khó bị tuyên truyền. Khả năng này mang tính phổ quát, phi
chính trị, hữu ích cho mọi người, nhất là cho sinh viên sau khi tốt
nghiệp đi kiếm việc làm, viết đơn xin việc, chuẩn bị phỏng vấn, tiến
thân trên đường sự nghiệp v.v... Tính áp dụng cho kỹ năng này là vô hạn
trong mọi xã hội, giảm thiểu các nạn mê tín dị đoan, các đồ giả và
các tiên tri giả đang lan tràn trên khắp mọi miền đất nước. Sẽ rất
là khó, nếu không phải là bất khả, cấm đoán hay hạn chế nếu người
ta muốn học hỏi về kỹ năng này.
Kỹ
năng này đã được các nhà giáo dục tại Hoa Kỳ quan tâm hơn, nhất là
cho học sinh từ cấp bậc trung học trở lên, sau kỳ bầu cử tổng thống
Hoa Kỳ năm 2016. Một nền dân chủ đích thực cần có những công dân hiểu
biết (informed citizen), có lối suy nghĩ phê phán, nếu không thì nền dân
chủ đó sớm muộn cũng bị suy thoái hay khủng hoảng.
Kỹ
năng phi chính trị này có thể thay đổi toàn diện văn hóa chính trị.
Ba,
phát huy truyền thông nhân ái (compassionate communication) hay còn gọi
là truyền thông bất bạo động (non-violent communication).
Để
cuộc vận động dân chủ thành công thì nên bắt đầu luyện tập truyền thông
nhân ái/bất bạo động. Truyền thông ở đây có nghĩa rộng, bao hàm mọi
cách thức truyền đạt thông tin từ một hay nhiều người sang một hay
nhiều người khác. Trao đổi, thảo luận, tranh luận, phát biểu, cãi
lộn v.v... đều là truyền thông giữa con người với nhau.
Một
trong những vấn đề lớn nhất giữa người Việt với nhau, kể cả giữa
những người đấu tranh cho dân chủ, là truyền thông. Vì không chịu đọc
bản gốc hay không đọc kỹ, vì dễ dàng tin những lời đồn nhảm ác ý,
vì không trao đổi thẳng thắn với nhau sợ mất lòng, vì không sử dụng
ngôn ngữ chính xác để diễn đạt ý tưởng, vì sử dụng ngôn ngữ cảm
xúc quá nhiều thay vì lý luận (chưa kể bị bẫy bởi những kẻ ác ý hay
bàn tay của dư luận viên) v.v... cho nên người Việt dễ hiểu lầm nhau,
dễ gây và xa nhau. Không phải chỉ riêng người Việt, người Tây cũng gặp
những vấn đề tương tự. Nhưng mức độ của vấn đề này thì chúng ta
gấp nhiều lần người Tây phương. Chúng ta chưa kịp nghe là đã có đầy
định kiến; chưa kịp hiểu là đã đánh giá rồi, mà đa phần lại đánh
giá trật nữa, nên làm hư mọi sự. Trong truyền thông của người Việt, thay
vì tìm hiểu một người nói một điều gì đó, trong thâm tâm họ có ý
gì, và họ thật sự muốn gì, thì lại tập trung kết luận họ là gì
trước. Chúng ta quá dễ dàng chụp mũ mạ lỵ nhau, tự biến thành những
quan toà mù để kết tội người khác một cách vô tội vạ. Kết quả: không
chỉ chúng ta làm rối và làm thối mọi sự. Trong quan hệ gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp, cộng đồng, xã hội v.v... cũng làm hư hỏng nốt.
Có cộng đồng Việt Nam nào trên khắp thế giới mà không chia năm xẻ
bảy, tuy có cùng chung mục đích? Khi bất đồng ý kiến hay có vấn đề, chúng
ta đã dùng những ngôn từ nặng nề nhất để dành cho nhau, ngay cả cho
những người bạn cùng chung lý tưởng với mình suốt cuộc đời, để rồi
bây giờ không còn nhìn mặt nhau nữa?
Cái
thói quen này xảy ra một cách vô ý thức tưởng chừng như không có lối
thoát. Chúng ta biết mình bị tổn thương nhưng lại tiếp tục làm như thế
với người khác. Chúng ta phát ngôn bừa bãi, vô ý thức và vô trách
nhiệm. Hậu quả là sự bôi nhọ nhau, kéo nhau xuống vũng lầy, đưa đến
sự leo thang của bạo lực và bạo động. Ai sung sướng hưởng kết quả
này? Chế độ cầm quyền chỉ muốn người dân tuân phục và khiếp nhược,
cảm tính và bạo động, chứ không phải công dân có tư duy và lý luận.
Chế độ nào người dân đó, và người dân nào chế độ đó. Một vòng luẩn
quẩn không lối thoát, rất nguy hiểm trừ phi chính mỗi chúng ta ý thức
rõ ràng về trách nhiệm của mình cho cách hành xử, suy nghĩ và cảm
xúc của mình.
Rất
may trong vấn đề này có nhiều sách vở, tài liệu có thể giúp cho mỗi
chúng ta nhìn ra được nguyên do nào chúng ta thường sử dụng loại
truyền thông mang đầy chia rẽ, và làm sao mỗi chúng ta có thể luyện
tập, một cách ý thức và tự chủ, sử dụng truyền thông nhân ái. Tác
phẩm “Truyền thông bất bạo động: Một ngôn ngữ của cuộc sống” của
tiến sĩ Marshall B. Rosenberg, chẳng hạn, sẽ giúp chúng ta nhìn ra vấn đề
[4]. Nó hoàn toàn hữu ích cho mỗi cá nhân, cho gia đình, và nhất là
cho công cuộc vận động dân chủ hiện nay và mai sau. Ngôn ngữ, lồng trong
tư tưởng và lý luận, sẽ mạnh hơn gươm, hơn thép. Cho nên biết sử dụng
truyền thông nhân ái cho người thân thương và biết truyền đạt lý luận
sắt bén với kẻ thù gian hiểm thì đó chính là sức mạnh vô biên vậy.
Yêu
nước là quan niệm đã bị lợi dụng, lạm dụng và đánh tráo quá
nhiều, cho nên thay vì kêu gọi yêu nước, tôi kêu gọi hãy yêu và hãy như
nước.
Tình
yêu giúp cho chúng ta hướng đến chân thiện mỹ. Yêu người, yêu thiên
nhiên, yêu động vật, yêu công bằng lẽ phải và sự thật. Yêu minh bạch,
yêu công lý, yêu bình đẳng, yêu hòa bình, yêu tinh thần trách nhiệm,
yêu thử thách, yêu trí tuệ, yêu kiến thức, yêu nỗ lực, yêu dấn thân,
yêu sự kính trọng nhau, yêu giá trị đạo đức. Yêu cái gì cũng tốt
cả, ngoại trừ cái tham sân si, cái lười, cái ác, cái độc, nhất là độc
tài và độc đoán. Nhưng trên hết xin hãy yêu người, yêu mạng sống của
mình và những người chung quanh. Mạng sống con người là quan trọng
nhất. Hy sinh là hành động cao cả, nhưng phải đúng lúc đúng chỗ.
Đừng hy sinh một cách vô ích và vô lý khi chưa cần thiết. Đấu tranh
là quyết tâm phải sống để thấy thành quả mình góp phần xây dựng
nên, và để tiếp tục đóng góp cho tiến trình dân chủ đầy cam go trong
thời gian tới.
Tại
sao phải như nước? Vì nước là hơi thở, là sự sống. Trong các bí quyết
truyền lại, Lý Tiểu Long nhấn mạnh một triết lý hay: hãy như nước, bạn
ơi (be like water, my friend) [5]. Nước chảy đá mòn. Không có gì linh
động, uyển chuyển, biến hóa, vô dạng, vô hình, đa nguyên, như nước cả.
Không có gì mạnh mẽ và có sức tàn phá cao độ trên trái đất này như
nước. Sức dân được ví như sức nước.
Để
bắt đầu tiến trình này, trong bối cảnh đất nước ngày hôm nay, tôi cho
rằng chúng ta cần bình tĩnh sáng suốt để nhìn rõ mọi hiểm nguy,
thử thách, cơ hội, tiềm năng và điểm yếu của mình và của chế độ
cầm quyền. Không nên lấy trứng chọi đá để mất đi tiềm lực cần
thiết. Hãy hoạt động có tổ chức để nương tựa vào nhau, xây dựng sức
mạnh. Hãy tìm cách phát huy suy nghĩ phê phán. Hãy cố gắng đối xử
nhau một cách văn minh và nhân bản bằng truyền thông nhân ái để xây
dựng lại một văn hóa đã bị độc hóa quá lâu mà rồi không ai còn có
thể đối thoại một cách nghiêm túc với nhau.
Không
đối thoại được thì xây dựng được cái gì chung chứ!
Những
điều căn bản đó, tuy nói dễ nhưng làm vô cùng khó. Nó đòi hỏi thay
đổi thói quen suy nghĩ. Nó bắt đầu bằng cái tư duy, tư tưởng. Phải
có ý thức và quyết tâm thì mới thực hiện được. Nhưng muốn làm
người tử tế văn minh, muốn dân tộc thoát khỏi gọng kìm của độc tài
áp bức, muốn đất nước sánh vai với các con rồng con hổ, thì phải
bắt đầu bằng cái đầu thôi.
Phạm
Phú Khải
Úc
Châu, 04/05/2018
Tài
liệu tham khảo:
1.
Triết lý được định nghĩa là “lẽ tinh vi quyền diệu trong triết học”, mà triết học
là “môn học nghiên cứu về nguyên lý của vũ trụ/vạn vật”, theo Việt Nam Tự Điển
của Hội Khai Trí Tiến Đức. Theo tự điển tiếng Anh như Oxford Dictionary of
English thì triết học là sự nghiên cứu về bản chất căn bản của kiến thức, thực
tế và hiện hữu, đặc biệt khi được xem như là một lĩnh vực học thuật. Do đó triết
học chính trị có thể được định nghĩa là sự nghiên cứu các vấn đề nền tảng về
nhà nước, chính quyền, chính trị, bang giao quốc tế, tự do, công lý, hòa bình
v.v…
2.
Ngày nay những ai muốn tìm hiểu triết học chính trị chỉ cần dùng
Google thì sẽ tìm kiếm bao nhiêu tài liệu gốc hay được soạn thảo lại
một cách hệ thống. Nếu không đọc được tiếng Anh thì nhóm Tinh Thần Khai Minh,
thành lập năm 2014, có đăng tải vô số tài liệu được dịch sang tiếng
Việt về tự do, dân chủ và pháp quyền.
3.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã nói nhiều về đề tài này. Mời đọc “Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai” của Tập Hợp
Dân Chủ Đa Nguyên.
4.
Marshall B. Rosenberg, “Nonviolent Communication”, A Language of Life,
PuddleDancer Press, 2015.
5.
Có thể xem phát biểu này của Bruce Lee qua các phim ảnh hay phỏng vấn
trên Youtube (dùng google để truy tìm).