CHÍNH PHỦ THIỂU SỐ TRONG NỀN DÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ

Posted on
  • Thứ Năm, 24 tháng 5, 2018
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • Các dạng chính phủ khác nhau
    Trongphần trước, chúng ta biết rằng trong nền dân chủ đại nghị chính phủ phải có được sự ủng hộ ngấm ngầm của đa số trong quốc hội để lên nắm quyền cũng như duy trì quyền lực. Trong phần này, chúng ta cùng tìm hiểu các dạng chính phủ khác nhau từng tồn tại trong các nền dân chủ đại nghị ở phương Tây. Bảng bên dưới cung cấp thông tin về 266 nội các hình thành trong 11 nền dân chủ đại nghị ở phương Tây từ năm 1945-1998. Hình 1 minh họa cho phần trăm mỗi dạng chính phủ và Hình 2 minh họa cho phần trăm thời gian cầm quyền của mỗi dạng chính phủ này.

    Các dạng chính phủ khác nhau ở phương Tây từ năm 1945-1998

    Hình 1: Phần trăm mỗi dạng chính phủ từ năm 1945-1998
      

    Hình 2: Phần trăm thời gian cầm quyền của mỗi dạng chính phủ từ năm 1945-1998

    Chính phủ thiểu số
    Chính phủ thiểu số là chính phủ không có đa số ghế trong quốc hội. Các chính phủ thiểu số có thể là chính phủ thiểu số một đảng hay chính phủ thiểu số của liên minh (đảng). Chắc hẳn bạn đang băn khoăn là tại sao chính phủ thiểu có thể lên nắm quyền, và có thể duy trì quyền lực trong nền dân chủ đại nghị; bởi phe đối lập trong quốc hội kiểm soát đủ số ghế cần thiết để có thể loại bỏ chính phủ bất cứ lúc nào thông qua thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm. Một chính phủ thiểu số chỉ có thể tồn tại bao lâu phe đối lập quyết định không làm như vậy. Điều này có nghĩa rằng bất cứ khi nào chúng ta thấy một chính phủ thiểu số, chúng ta biết rằng phải có một đa số ngấm ngầm trong quốc hội ủng hộ nó.
    Ở một số nước, chúng ta biết chính xác ai hình thành đa số ngấm ngầm này bởi một số đảng không thuộc chính phủ công khai bày tỏ ủng hộ chính phủ, chống lại các cuộc bỏ phiếu lật đổ nó, nhưng không muốn tham gia vào nội các. Đổi lại, chính phủ thường đồng ý bàn bạc với những ‘đảng ủng hộ’ này về các vấn đề chính sách khác nhau. Điều này diễn ra ở Anh vào năm 1977 khi những người Tự do đồng ý ủng hộ Đảng Lao động khi Đảng này đánh mất đa số trong quốc hội. Điều này cũng xảy ra gần đây sau cuộc bầu cử quốc hội Hà Lan vào năm 2010 khi một đảng cực hữu – Đảng tự do (PVV) – công khai ủng hộ chính phủ thiểu số của liên minh giữa Đảng Tự do Dân chủ (VVD) và Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDA).
    Trong một số nước khác, chính phủ không dựa vào sự ủng hộ của các đảng cụ thể mà tìm kiếm đa số trong cơ quan lập pháp tùy theo tình hình cụ thể. Chẳng hạn, chính phủ tìm kiếm sự ủng hộ đa số cho từng dự luật mà nó muốn thông qua. Trong những nước này, không dễ để chỉ ra chính xác ai trong cơ quan lập pháp đang giữ cho chính phủ thiểu số tiếp tục cầm quyền; tất cả những gì chúng ta biết đó là luôn có ít nhất một đảng không thuộc chính phủ đang ngấm ngầm ủng hộ chính phủ. Hệ quả của việc này, cử tri sẽ không thể biết chính xác ai đang chịu trách nhiệm về chính sách và qua đó buộc họ giải trình.
    Trong một thời gian dài, chính phủ thiểu số bị coi là thiếu tính dân chủ. Nó được coi như thứ không nên xảy ra thường xuyên, và nếu xảy ra, chỉ nên trong thời gian ngắn. Strom là một trong những nhà khoa học chính trị đầu tiên bác bỏ niềm tin này. Ông cho rằng chính phủ thiểu số nên được xem như hệ quả bình thường và ‘mang tính dân chủ’ mà sự cạnh tranh đảng phái trong nền dân chủ đại nghị mang lại. Ông minh họa cho điều này ở thực tế là các chính phủ thiểu số thường xuyên xuất hiện trong các nền dân chủ phương Tây, và chúng có một sự ổn định nhất định. Như Hình 1 cho thấy, khoảng 37,8% các chính phủ hình thành trong các nền dân chủ phương Tây từ năm 1945 đến 1998 là chính phủ thiểu số. Trong các nước như Đan Mạch (82%), Thụy Điển (81%), Na Uy (65%), các chính phủ thiểu số hoàn toàn chi phối. Ngoài tần suất cao về số lượng, các chính phủ thiểu số cũng nắm quyền trong thời gian dài. Chẳng hạn, tính từ sau Chiến tranh Thế giới II đến năm 1998, các nội các thiểu số cầm quyền trong hơn 1/4 khoảng thời gian thời gian đó, và mỗi chính phủ thiểu số nắm quyền trong thời gian trung bình 539 ngày.
    Một vài lý thuyết được đưa ra để giải thích tại sao chính phủ thiểu số có thể tồn tại. Tất cả những lý thuyết này chỉ ra tầm quan trọng của chính sách trong tiến trình hình thành chính phủ. Nếu các chính trị gia chỉ quan tâm đến chức vụ, thì rất khó có giải thích tại sao các đảng không tham gia chính phủ liên minh khi họ có đủ sức mạnh để làm như vậy. Nói cách khác, tại sao các đảng không tham gia chính phủ liên minh, mà để cho chính phủ thiểu số nắm hết mọi chức vụ cùng lợi ích mà các chức vụ này mang lại, dù nó không có sự kiểm soát đa số trong quốc hội? Nhìn chung, câu trả lời nằm ở việc các chính trị quan tầm nhiều hơn về chính sách, quyết định rằng nó có thể đạt được nhiều hơn các mục tiêu chính sách của mình khi không tham gia nội các.
    Strom (1990) cho rằng các chính phủ thiểu số có khả năng tồn tại nhiều hơn trong những nước mà các đảng (đối lập) có một ảnh hưởng mạnh đến chính sách. Sức mạnh của đối lập phụ thuộc vào cấu trúc hệ thống ủy ban trong quốc hội mỗi nước. Tất cả quốc hội có hệ thống các ủy bản giúp đỡ để thực thi các công việc của mình. Trong một số nước, phe đối lập có ít ảnh hưởng đến chính sách bởi vì hệ thống ủy ban hầu như chấp nhận bất cứ điều gì chính phủ đề nghị. Tuy nhiên, phe đối lập có vị thế mạnh hơn trong những nước mà hệ thống ủy ban được thiết kế để phân tán quá trình làm chính sách đến nhiều nhóm, bao gồm các đảng không nằm trong chính phủ liên minh. Mức độ mà các chính sách được tạo ra trong các ủy ban quốc hội, và mức độ mà các đảng đối lập có thể ảnh hưởng lên các ủy ban này, thay đổi tùy theo mỗi nước. Strom cho rằng hệ thống ủy ban của một đất nước càng quyền lực, thì ảnh hưởng của phe đối lập lên nó càng lớn, khiến các đảng đối lập ít có nhu cầu tham gia vào chính phủ liên minh, bởi vì họ có thể định hình chính sách từ bên ngoài chính phủ. Kết quả, chúng ta có thể tin rằng trong những nước như vậy sẽ có nhiều hơn các chính phủ thiểu số. Điều này dẫn đến giải thiết sau:
    -         Giải thiết về sức mạnh phe đối lập: khả năng xuất hiện chính phủ thiểu số cao hơn khi phe đối lập có ảnh hưởng lớn.
    Dĩ nhiên bạn có thể thắc mắc tại sao một đảng lựa chọn ảnh hưởng lên chính sách từ bên ngoài chính phủ thay vì từ bên trong. Dù mọi quốc gia cho phép một số mức độ ảnh hưởng của đối lập lên chính sách, song ảnh hưởng này không bao giờ mạnh hơn ảnh hưởng khi ở trong chính phủ. Vậy, tại sao không ảnh hưởng lên chính sách từ trong nội các? Tại sao không tận dụng các lợi thế của các chức vụ để ảnh hưởng lên chính sách? Có nhiều lý do, hầu hết liên quan đến triển vọng bầu cử trong tương lai.
    -         Thứ nhất, các đảng không muốn nhận trách nhiệm cho chính sách một khi chúng được thực hiện; và khi các chính sách thất bại thì trách nhiệm đó thuộc về các đảng cầm quyền. Thực vậy, có bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng các đảng đương quyền có xu hướng đánh mất phiếu bầu trong kì bầu cử kế tiếp. Trong một nghiên cứu về 20 nền dân chủ trong 20 năm qua, Powel thấy các chính phủ đương quyền mất đi khoảng 2% phiếu bầu của nó trong cuộc bầu cử tiếp theo. Bằng cách không tham gia chính phủ, các đảng đối lập có thể đạt được một số mục đích chính sách của mình trong khi ít phải chịu trách nhiệm khi các chính sách này sai lầm.
    -         Thứ hai, một đảng có thể phải đưa ra một cam kết trước bầu cử về việc không tham gia vào chính phủ liên minh với các đảng khác. Việc phá vỡ lời hứa có thể là một hành động tự sát về mặt bầu cử trong cuộc bầu cử tiếp theo.
    -         Thứ ba, các đảng đối lập sẽ có sự linh hoạt lớn hơn trong việc lựa chọn các chiến dịch tranh cử của họ trong các kì bầu cử tương lai bởi vì họ không có tiểu sử trong quá khứ về việc nằm quyền, thứ có thể giới hạn nên họ.
    Đây là những lý do khả dĩ giải thích tại sao các đảng có thể lựa chọn không tham gia chính phủ trong một số nước, thay vào đó, ảnh hưởng lên chính sách từ bên ngoài, với tư cách đối lập.  
    Luebbert đưa ra giải thích hơi khác một chút về sự tồn tại của các chính phủ thiểu số. Giống như Strom, ông cho rằng các chính phủ thiểu số xuất hiện nhiều hơn trong các nước mà các đảng đối lập có tiếng nói mạnh đối với chính sách. Song thay vì tập trung vào hệ thống ủy ban lập pháp, ông cho rằng khả năng của các nhóm đối lập trong việc gây ảnh hưởng lên chính sách phụ thuộc nhiều vào việc liệu các mối quan hệ lợi ích nhóm trong quốc gia đó theo kiểu nghiệp đoàn hay kiểu đa nguyên.
    -         Một đất nước theo mô hình đa nguyên là đất nước trong đó các nhóm lợi ích cạnh tranh trong một thị trường chính trị bên ngoài tiến trình làm chính sách chính thức.
    -         Trái lại, một đất nước theo mô hình nghiệp đoàn là đất nước trong đó các nhân tố xã hội và kinh tế chủ chốt có vai trò chính thức về mặt thể chế trong việc tham gia vào làm chính sách. Trong những nước này, các nhóm lợi ích được tổ chức thành hệ thống tổ chức cấp bậc, trong đó các tổ chức đứng đầu ngồi lại với nhau và với chính phủ để thảo luận về chính sách. Như Luebbert chỉ ra, chủ nghĩa nghiệp đoàn ‘cho phép, thực sự là đảm bảo, nhiều nhóm khác nhau tiếp cận với việc làm chính sách’. Chẳng hạn, các bộ ở Thụy Điển và Na Uy khi thảo luận các chính sách hay dự luật có ảnh hưởng đến một nhóm lợi ích nào đó thì buộc phải từ vấn nhóm đó trước. Do đó, nội các không nắm toàn quyền trong việc đưa ra các quyết định kinh tế xã hội trong các nước theo mô hình nghiệp đoàn. Các nhóm lợi ích, và các đảng chính trị đại diện cho các nhóm này, có nhiều cách khác nhau thể thể hiện tiếng nói của mình đến nội các.
    Kết quả, chúng ta thấy nhiều hơn các chính phủ thiểu số trong các nước theo mô hình nghiệp đoàn bởi các đảng đối lập thấy không quá cần thiết phải tham gia vào trong chính phủ. Điều này dẫn đến giải thiết sau:
    -         Giải thiết nghiệp đoàn: các chính phủ thiểu số xuất hiện nhiều hơn trong các nước theo mô hình nghiệp đoàn.
    Strom cũng cho rằng các chính phủ thiểu số ít có khả năng xuất hiện trong các nước sử dụng cơ chế bỏ phiếu phê chuẩn bởi vì các chính phủ thiểu số tiềm năng sẽ phải đối mặt với một hàng rào cao hơn về tiêu chuẩn nắm quyền (tức phải có sự ủng hộ của đa số quốc hội mới được lên nắm quyền) so với ở các nước không đòi hỏi cơ chế bỏ phiếu này. Nếu phải có một cuộc bỏ phiếu phê chuẩn, thì các đảng đối lập phải lựa chọn công khai ủng hộ chính phủ thiểu số. Tuy nhiên, một số đảng, chỉ có thể ngấm ngầm cho vay sự ủng hộ của mình cho chính phủ, và sẽ không ủng hộ một chính phủ thiểu số nào đó khi phải bỏ phiếu công khai.
    -         Giải thiết bỏ phiếu phê chuẩn: các chính phủ thiểu số ít có khả năng hình thành ở nơi đâu đòi hỏi cơ chế bỏ phiếu phê chuẩn.
    Cuối cùng, một giải thích khác cho sự tồn tại của các chính phủ thiểu số tập trung vào sự chia rẽ trong phe đối lập. Nhìn chung, một chính phủ thiểu số có thể sống sót và tương đối ổn định nếu các đảng đối lập không thể đạt được đồng thuận về việc thay thế nó. Chẳng hạn, Đảng Quốc đại, đứng đầu chính phủ thiểu số, có thể chi phối Ấn Độ trong nhiều năm bởi vì các đảng đối lập không thể đồng thuận về một giải pháp thay thế phù hợp. Một hoàn cảnh tương tự xảy ra với đảng Dân chủ Xã hội ở Thụy Điển và đảng Dân chủ Thiên chúa giáo ở Italy. Các đảng này có thể hình thành các chính phủ thiểu số bởi các đảng đối lập (đứng ở hai đầu của phổ ý thức hệ) có các quan điểm chính sách xung đột nhau quá lớn. Các đảng này, thường được gọi là các đảng ‘mạnh’, có thể yêu cầu cầm quyền một mình bởi vì các đối thủ của họ không thể hình thành chính phủ thay thế họ. Điều này dẫn Laver và Shepsle đi đến giải thiết:
    -         Giả thiết đảng mạnh: các chính phủ thiểu số có khả năng xuất hiện nhiều hơn khi có một đảng ‘mạnh’.
    Tóm lại, chíng phủ thiểu số có thể hình thành ở những nước có 1) đảng đối lập có thể ảnh hưởng mạnh đến việc hình thành chính sách, 2) các quan hệ nhóm lợi ích được tổ chức theo mô hình nghiệp đoàn, 3) không có yêu cầu bỏ phiếu phê chuẩn, và 4) một đối lập chia rẽ.
    Nguồn: Matt Golder, Nandenicheck Sona Golder, William Roberts Clark. Principles of Comparative Politics
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org