Trong thế giới
đương đại, với trên 200 quốc gia, tồn tại đa dạng các kiểu chế độ chính trị khác
nhau. Làm thế nào chúng ta biết được một quốc gia là dân chủ hay không? Chẳng hạn
Cambodia, Philippines là dân chủ hay độc tài?
Và ngay cả trong
các quốc gia mà chúng ta coi là dân chủ, thì giữa chúng cũng có sự khác nhau rất
nhiều, có những nền dân chủ (chất lượng thấp) như Philippines, song có những nền
dân chủ (chất lượng cao) như Đài Loan. Đâu là tiêu chí phân biệt giữa hai nền
dân chủ này?
Về mặt định
nghĩa, thì chúng ta thường định nghĩa đơn giản rằng: Dân chủ là chính quyền của
dân. Điều này có thể được thể hiện thông qua hai cách:
-
Người dân trực tiếp tham gia vào công việc
cai trị, và ta gọi kiểu tổ chức dân chủ này là DÂN CHỦ TRỰC TIẾP. Nền dân chủ
trực tiếp ra đời từ rất sớm, cách đây 2500 năm trong thế giới Hi Lạp cổ đại, mà
nổi tiếng nhất trong số đó là Athen.
-
Sau khi Athen cùng các thành bang của Hi Lạp cổ đại sụp đổ, nền chính trị thế giới dần bị chi phối bởi các chính thể
chuyên chế. Dân chủ chỉ xuất hiện trở lại vào đầu thế kỷ 19, nhưng ở một hình
thức rất khác. Do quy mô về dân số và diện tích của các nhà nước – dân tộc hiện
đại, cũng như các vấn đề phát sinh từ sự cai trị trực tiếp của người dân, thường
được so sánh với sự cai trị của đám đông, nên kiểu cai trị trực tiếp không còn
được đề cao. Lúc này, người dân thay vì cai trị trực tiếp, họ ủy quyền cho những
người đại diện của mình để cai trị nhân danh mình, và ta gọi kiểu dân chủ này
là DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN. Trong khoảng hơn 200 năm tính đến nay, dân chủ đại diện đã
nhanh chóng lan rộng, và hiện trở thành dạng chế độ chính trị phổ biến nhất
trên thế giới.
Phương tiện qua
đó người dân thực hiện sự ủy quyền của mình chính là BẦU CỬ. Tuy nhiên, trong
thực tế cho thấy, chính phủ hình thành từ “bầu cử” không phải lúc nào cũng là
chính phủ của dân – hay chính phủ dân chủ. Có rất nhiều chính phủ hình thành từ
các cuộc bầu cử song được xếp vào dạng độc tài.
DÂN
CHỦ BẦU CỬ
Vậy đâu là tiêu
chí tối thiểu để một cuộc bầu cử có thể đảm bảo rằng chính quyền được bầu lên
là chính quyền của dân. Đó là các cuộc bầu cử phải đảm bảo tự do, công bằng, và toàn diện.
-
Bầu cử tự do: Mọi người được tự do tham gia bầu cử và ứng cử. Không có bằng chứng cho thấy có sự
can thiệp, đe dọa, hay bạo lực đối với cử tri, ứng viên, đảng đối lập đến mức ảnh
hưởng lớn đến kết quả bầu cử.
- Bầu
cử công bằng: Áp dụng chính xác và công bằng luật bầu
cử. Chính phủ đương nhiệm không cản trở phe đối lập gây quỹ hay tiếp cận đến
truyền thông, cũng như không có các báo cáo về gian lận bầu cử.
- Bầu
cử toàn diện: Mọi công dân trưởng thành có quyền bầu
cử. Không có báo cáo cho người dân bị tước bỏ quyền bầu cử vì các vấn đề về giới
tính, giai cấp, sắc tộc, hay tôn giáo.
Tuy nhiên, để
cho các cuộc bầu cử thực sự đạt được các tiêu chí trên, thì cần phải có một sự
đảm bảo tối thiểu về một số quyền tự do dân sự trong và giữa các cuộc bầu cử.
Đó là các quyền tự do lập hội, tự do biểu đạt, tự do thông tin, và không phân
biệt đối xử.
-
Tự
do lập hội: Các công dân được tự do hình thành và tham gia các
đảng phái chính trị, nghiệp đoàn, các nhóm lợi lích, các phong trào. Không có bằng
chứng cho thấy nhà nước cấm các tổ chức trên hay chúng chỉ được phép tồn tại dưới
sự kiểm soát của chính quyền.
-
Tự
do biểu đạt: Công dân tự do thể hiện sự bất đồng của
mình thông qua các cuộc thảo luận, các bài phát biểu, các cuộc biểu tình, hay các
kiến nghị. Không có bằng chứng cho thấy nhà nước trừng phạt hay kiểm duyệt một
cách hệ thống những quan điểm trái chiều.
-
Tự
do thông tin: Công dân tiếp cận với các nguồn thông
tin khác nhau. Có nhiều kênh thông tin khác nhau nằm ngoài tầm kiểm soát của chính
quyền hay đảng cầm quyền.
-
Không
phân biệt đối xử: Các nhóm thiểu số về văn hóa, sắc tộc,
tôn giáo.. không bị cấm bày tỏ quan điểm chính trị của mình. Không có báo cáo
cho thấy một nhóm nào bị ngăn cấm thể hiện quan điểm của họ trong tiến trình
chính trị trên các cở sỏ trên.
Đây là bảy tiêu
chí (mà có thể tóm lại thành hai nhóm tiêu chí lớn là tiêu chí về bầu cử và tiêu
chí về tự do) mà một quốc gia phải thỏa mãn mới được coi là một nền dân chủ
- dân chủ bầu cử.
DÂN
CHỦ TỰ DO
Tuy nhiên, bảy tiêu chí trên chỉ các các điều kiện tối thiểu để trở thành dân chủ. Rất nhiều nền
dân chủ thỏa mãn các tiêu chí trên, song trong thực tế khi vận hành xảy ra các
vấn đề tham nhũng, lạm quyền, và bất công. Những nền dân chủ như vậy được gọi
là dân chủ chất lượng thấp, hay do chỉ đơn thuần thỏa mãn các tiêu chí tối thiểu
về bầu cử, nên gọi là dân chủ bầu cử.
Còn có những tiêu
chí khác đối với một nền dân chủ ngoài các tiêu chí tối thiểu trên, để cho nó
trở thành một nền dân chủ chất lượng cao, hay còn gọi là dân chủ tự do. Đó là các tiêu chí sau:
-
Chính phủ dân bầu thực sự nắm quyền,
và không bị chi phối bởi các tác nhân - không do dân bầu - như quân đội,
hoàng gia, giới đầu sỏ hay ngoại bang.
-
Ngoài trách nhiệm giải trình theo phương
đứng của người cai trị đối với người dân (đạt được chủ yếu thông qua bầu cử),
thì cũng phải đảm bảo trách nhiệm giải trình theo phương ngang
giữ các quan chức, các nhánh chính quyền với nhau thông qua các cơ chế kiểm
soát và đối trọng, điều này nhằm kiềm chế quyền lực của các nhánh, bảo vệ hiến
pháp và pháp luật.
-
Cung cấp nền tảng đa nguyên về chính trị và dân sự
cũng như tự do cho cá nhân, tổ chức để cho các giá trị và lợi ích đối lập có thể
được bày tỏ, tác động đến tiến trình chính trị.
-
Và cuối cùng, sự tự do và đa nguyên chỉ
có thể được đảm bảo thông qua một nền pháp quyền, trong đó luật pháp được
áp dụng công bằng, nhất quán, và có thể dự đoán. Trong một nền pháp quyền như vậy,
mọi công dân có sự bình đẳng chính trị và pháp lý, và nhà nước và các cơ quan của
nó chịu sự ràng buộc của luật pháp.
Hiện nay (2018),
theo đánh giá của Freedom House thì khoảng 60% các quốc gia trên thế giới được
xếp hạng là dân chủ, và 2/3 trong số đó được xếp hạng là dân chủ tự do. Phần lớn
các quốc gia dân chủ tự do là các quốc gia phát triển, nằm ở Tây Âu, Bắc Mỹ và
một số nước Châu Á như Nhật Bản, Đài loan.
VÍ
DỤ THỰC TẾ
Dựa trên các
tiêu trí trên chúng ta có thể đánh giá xem một quốc gia có phải là dân chủ hay
không, và nếu có thì nó là dân bầu cử hay dân chủ tự do thông qua một số ví dụ
thực tế.
-
Cambodia dù hiện có hệ thống bầu cử đa
đảng với phổ thông đầu phiếu song không được coi là một nền dân chủ (bầu cử).
Vì thủ tướng Hun Sen cùng đảng CPP cầm quyền thao túng tiến trình bầu cử, kiểm
soát truyền thông, và dùng mọi thủ đoạn để ngăn chặn và đánh phá đảng đối lập
chính khiến cho các cuộc bầu cử gần nhất của Cambodia không được coi là cạnh
tranh, tự do và công bằng.
-
Philippines hiện được coi là một nền dân
chủ bầu cử, vì theo tổ chức quốc tế như Freedom House,
các cuộc bầu cử của nó thỏa mãn các tiêu chí bầu cử cũng như các tiêu
chí tự do tối thiểu như kể trên. Tuy nhiên, nó chỉ là một nền dân chủ bầu cử
chứ không phải là một nền dân chủ tự do, vì không thỏa mãn các tiêu chí về
trách nhiệm giải trình, cũng như pháp quyền. Philippines là một trong những nước
có chính quyền yếu kém, tỷ lệ tham nhũng cao, sự chi phối của giới đầu sỏ đối với
tiến trình chính trị, và nền pháp quyền nghèo nàn.
-
Đài Loan hiện được coi là một nền dân chủ
tự do, vì theo tổ chức quốc tế như Freedom House,
thì nó thỏa mãn hết các tiêu chí chúng ta đề cập ở trên. Đài Loan có hệ thống bầu
cử đa đảng, tự do công bằng, chính quyền dân sự thực sự nắm quyền, hệ thống tư
pháp tốt, xã hội tự do và đa nguyên. Hiện Đài Loan được coi là nền dân chủ tốt
nhất Châu Á.
Tài
liệu tham khảo
1. Báo cáo của Freedom House năm 2018,
https://freedomhouse.org/report/freedom-world/freedom-world-2018
3. Larry
Diamond, Defining and Developing
Democracy, The Democracy Sourcebook
4. Mikael
Wigell, Mapping ‘Hybrid Regimes’: Regime
Types and Concepts in Comparative Politics.