Đỗ Kim Thêm
Vấn đề
Từ năm
1975, nếu Cộng Sản thức thời biết tận dụng các tiềm lực của miền Nam đúng mức
và chuyển hướng đúng lúc, thì nước Việt Nam thống nhất đã có một vận hội mới để
xây dựng một quốc gia dân chủ, phú cường và văn minh. Nhưng đến năm 2017, thì
các hy vọng chỉ còn là ảo vọng, khi chủ quyền dân tộc tự quyết, tự do và bình đẳng
cho người dân chỉ là lý thuyết; ngược lại, đại hoạ ngoại thuộc, khó khăn kinh tế,
nợ công tràn ngập, cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo đức, khủng hoảng giáo dục, vi
phạm nhân quyền và bất ổn xã hội là thực tế.
Trước
thực trạng này, chính quyền chỉ còn biết dùng bạo lực trấn áp để bảo vệ chế độ,
nên không đủ nỗ lực để giải quyết các đề sinh tử và phát huy dân chủ cho đất nước.
Nghĩ gì và làm gì để chấm dứt mọi tụt hậu hiện tại và xây dựng dân chủ tương
lai, đó là vấn đề khởi đầu của chúng ta.
Thực
ra, nhìn lại lịch sử Cách mạng Pháp sau ngày thành công, các khủng hoảng xã hội
cũng đã xảy ra tương tự. 46 năm sau, Alexis de Tocqueville, môt
trí thức quý tộc người Pháp, đã dựa trên kinh nghiệm phát triển của Mỹ để đề
nghị Pháp cải cách về định chế và đào tạo con người dân chủ trong tác phẩm De
la démocratie en Amérique (1835) mà bài viết này sẽ giới thiệu các luận
điểm chính.
Tác giả
Alexis-Charles-Henri
de Tocqueville sinh năm 1805 tại Verneuil-sur Seine và thuộc dòng dõi quý tộc tại
Normandie, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật vào năm 1824, ông làm Chánh án
tại Versailles và lần lượt đảm nhiệm nhiều trọng trách trong chính quyền.
Ông là Ủy
viên Công cán của Bộ Tư pháp chuyên trách nghiên cứu về hệ thống cải huấn tù
nhân của Mỹ (1830), Báo cáo viên về dự luật hủy bỏ chế độ nô lệ (1839), dự luật
cải cách về chính sách cải huấn (1840), biện pháp trợ cấp tín dụng cho Algérie
(1847). Ông làm Dân biểu Quốc hội Lập hiến (1948) và Bộ trưởng Ngoại giao trong
nội các của Falloux Barrot (1849).
Ông được
phong danh hiệu Hiệp sĩ, Chevalier de la Légion d’Honneur (1837). Với nhiều
danh tác ông đạt nhiều giải thưởng cao qúy và được công nhận là Viện Sĩ của hai
Viện Hàn Lâm Académie des Sciences Morales et Politiques (1838) và Académie
francaise (1841). Sau đảo chính Loius Napoleon Bonaparte vào ngày 2. 12. 1851,
ông bị bắt giam. Khi được trả tự do, ông từ giã chính trường và để dành hết thì
giờ cho du khảo và sáng tác. Ông từ trần vào 1859 tại Cannes.
Tác phẩm
Nhân chuyến du khảo tại Mỹ để tìm hiểu về các biện pháp cải huấn tù nhân mà De la démocratie en Amérique của Tocqueville ra đời. Tác phẩm này là kết quả của một công trình nghiên cứu về những điều kiện xã hội và các định chế của nhà nước nhằm tạo ra một nền dân chủ mà hai nguyên tắc chính là chủ quyền cho toàn dân và tự do và bình đẳng cho cá nhân. Bằng cách phân tích các điểm yếu của nền dân chủ Pháp và các điểm mạnh của nền dân chủ Mỹ, ông muốn đề nghị chính quyền về các biện pháp cải thiện nền dân chủ. Tocqueville nhìn thấy sau ngày Cách mạng Pháp thành công, các chính phủ kế nhiệm đã không đem lại một nền dân chủ ổn định mà còn dùng các biện pháp khủng bố dân chúng để trị an. Nhưng Pháp không thể tránh khỏi khuynh hướng dân chủ hoá; đó là một nhịp tiến lịch sử mà Mỹ đã đi khá xa và Pháp cần noi theo. Ông lập luận là Mỹ có một nền văn minh tuần tự tiến hoá trong thầm lặng, qua thời gian, đem đến một tình trạng ổn định xã hội. Thái độ tích cực tham gia các hoạt động của người dân cũng như sự vận hành hài hoà của các định chế công quyền làm dung hoà được các phân hoá, thí dụ như bảo vệ dân thiểu số (dân da đỏ và dân nô lệ), tiến tới sự bình đẳng xã hội. Cuối cùng, nền dân chủ Mỹ thành hình.
Đại ý
Cuốn I nghiên cứu về các điều kiện địa lý và lịch sử, cấu trúc chính quyền trung ương, điạ phương và bộ máy Tư pháp. Ông thảo luận về các ảnh hưởng của các thế lực xã hội đối với hệ thống chính trị, so chiếu các thế yếu và mạnh của nền dân chủ. Ông phê bình là sinh hoạt dân chủ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng, thành phần theo đa số có khuynh hướng tự mãn và làm phát sinh tình trạng chuyên quyền. Cuốn I được ấn hành vào năm 1835 giúp cho Tocqueville đoạt giải Prix Montyon vào năm 1836.Cuốn II bàn về ảnh hưởng của các sinh hoạt tinh thần, phong tục và tập quán đến sự hình thành của nền dân chủ. Người Mỹ chạy theo tư lợi nhưng gây ảnh hưởng tốt để gia tăng phục lợi xã hội. Tinh thần trách nhiệm cá nhân làm cho họ trở nên năng động và độc lập trong việc tham gia đảng phái, báo chí, hiệp hội và tôn giáo, họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh hoạt chính trị. Sự tách biệt giữa nhà nước và tôn giáo làm cho cả hai hoạt động hữu hiệu hơn. Việc xây dựng các định chế công quyền bắt đầu từ hạ tầng cơ sở. Giải quyết vấn đề của người dân được luật pháp tản quyền cho địa phương. Chính quyền liên bang chuyên giải quyết các vấn đề đối ngoại và cơ cấu tổ chức chung cho trung ương. Giai cấp trung lưu ở Mỹ có tiếng nói mạnh hơn giới qúy tộc châu Âu. Ở Mỹ khuynh hướng theo ý kiến của đa số là phổ biến và có tác động tạo ra tầng lớp cơ hội trong muà tranh cử và tranh giành các chức vụ công quyền sau khi đắc cử. Vì chạy theo tâm lý nhất thời nên dân chúng không cùng nhau hướng về một viễn tượng chung để lo xây dựng tương lai đất nước. Cuốn II ra mắt vào năm 1840 và đưa ông trở thành Viện Sĩ của Académie francaise (1841). Ông kết luận là Pháp không thể phát huy dân chủ vì các trở lực chính: phân quyền không cân xứng, dân chúng thiếu lòng yêu chuộng tự do hoặc lạm dụng, theo chủ nghĩa cá nhân và duy vật, muốn có nhiều quyền bình đẳng trong các điều kiện xã hội (égalité des conditions), trong khi chính quyền Pháp không xây dựng các định chế một cách hữu hiệu hơn để bảo tồn tự do.Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy là Pháp phải tuân thủ nguyên tắc tam quyền phân lập; một cơ quan Tư pháp độc lập và Hành pháp mạnh mẽ; việc tản quyền hành chính cho địa phương phải triệt để hầu nâng cao quyền tự trị của người dân. Muốn đạt được thành quả này, Pháp cần phải cải cách vai trò của tôn giáo và giáo dục, tôn trọng nữ quyền và quyền tự do lập hội và báo chí.Áng văn kinh điển này đã gây chấn động sâu xa tại Pháp và Mỹ và trở thành lý thuyết cơ bản về dân chủ trong khoa học chính trị đối chiếu và được giảng dạy tại hầu hết các đại học trên thế giới. Mỗi khi có các khủng hoảng về dân chủ, tác phẩm này luôn được đem ra thảo luận.
Nội dung Khủng hoảng dân chủ tại Pháp
Cách mạng thành công mở ra cho Pháp một vận hội mới để lập một quốc gia theo nền cộng hoà và dân chủ. Nhưng 40 năm sau, Pháp rơi vào một cuộc khủng hoảng mà Tocqueville mô tả các chi tiết trong hai danh phẩm: L´État social et politique de la France avant et de puis 1789 (1836) và L´Ancien Régime et la Revolution (1853).Cách mạng làm cho mọi giá trị truyền thống tâm linh, chính trị, văn hoá và xã hội sụp đổ, nhưng cũng không đem lại một giá trị phổ quát cho bối cảnh mới. Các khái niệm chính yếu trong quá khứ cần phát huy, thí dụ như danh dự, trách nhiệm, luật pháp, ái quốc, tự do và công bình, không còn giá trị. Trong khi các giai cấp hoàng gia, quý tộc và giáo hội Công giáo không còn, thì một xã hội thế tục thành hình với một số tầng lớp mới ra đời: các giới chức cao cấp trong quân đội và hành chánh, các doanh gia và nhà khoa học bắt đầu lên tiếng trong sinh hoạt công quyền. Chính quyền kém hiệu năng và mất phương hướng nên hiến pháp phải thay đổi liên tục. Càng thay đổi chính quyền, đất nước càng hỗn loạn với hàng loạt các cuộc mưu sát hoàng gia, khủng bố chính quyền và nội chiến chống khủng bố; nỗ lực của chính quyền chỉ còn là duy trì trật tự công cộng và không thể giải quyết được toàn bộ các vấn đề xã hội, tạo cho dân chúng có ý thức về dân chủ và đất nước ổn định. Xã hội Pháp tiếp tục chuyển mình trong hướng đi vô định.
Tác phẩm
Nhân chuyến du khảo tại Mỹ để tìm hiểu về các biện pháp cải huấn tù nhân mà De la démocratie en Amérique của Tocqueville ra đời. Tác phẩm này là kết quả của một công trình nghiên cứu về những điều kiện xã hội và các định chế của nhà nước nhằm tạo ra một nền dân chủ mà hai nguyên tắc chính là chủ quyền cho toàn dân và tự do và bình đẳng cho cá nhân. Bằng cách phân tích các điểm yếu của nền dân chủ Pháp và các điểm mạnh của nền dân chủ Mỹ, ông muốn đề nghị chính quyền về các biện pháp cải thiện nền dân chủ. Tocqueville nhìn thấy sau ngày Cách mạng Pháp thành công, các chính phủ kế nhiệm đã không đem lại một nền dân chủ ổn định mà còn dùng các biện pháp khủng bố dân chúng để trị an. Nhưng Pháp không thể tránh khỏi khuynh hướng dân chủ hoá; đó là một nhịp tiến lịch sử mà Mỹ đã đi khá xa và Pháp cần noi theo. Ông lập luận là Mỹ có một nền văn minh tuần tự tiến hoá trong thầm lặng, qua thời gian, đem đến một tình trạng ổn định xã hội. Thái độ tích cực tham gia các hoạt động của người dân cũng như sự vận hành hài hoà của các định chế công quyền làm dung hoà được các phân hoá, thí dụ như bảo vệ dân thiểu số (dân da đỏ và dân nô lệ), tiến tới sự bình đẳng xã hội. Cuối cùng, nền dân chủ Mỹ thành hình.
Đại ý
Cuốn I nghiên cứu về các điều kiện địa lý và lịch sử, cấu trúc chính quyền trung ương, điạ phương và bộ máy Tư pháp. Ông thảo luận về các ảnh hưởng của các thế lực xã hội đối với hệ thống chính trị, so chiếu các thế yếu và mạnh của nền dân chủ. Ông phê bình là sinh hoạt dân chủ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng, thành phần theo đa số có khuynh hướng tự mãn và làm phát sinh tình trạng chuyên quyền. Cuốn I được ấn hành vào năm 1835 giúp cho Tocqueville đoạt giải Prix Montyon vào năm 1836.Cuốn II bàn về ảnh hưởng của các sinh hoạt tinh thần, phong tục và tập quán đến sự hình thành của nền dân chủ. Người Mỹ chạy theo tư lợi nhưng gây ảnh hưởng tốt để gia tăng phục lợi xã hội. Tinh thần trách nhiệm cá nhân làm cho họ trở nên năng động và độc lập trong việc tham gia đảng phái, báo chí, hiệp hội và tôn giáo, họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh hoạt chính trị. Sự tách biệt giữa nhà nước và tôn giáo làm cho cả hai hoạt động hữu hiệu hơn. Việc xây dựng các định chế công quyền bắt đầu từ hạ tầng cơ sở. Giải quyết vấn đề của người dân được luật pháp tản quyền cho địa phương. Chính quyền liên bang chuyên giải quyết các vấn đề đối ngoại và cơ cấu tổ chức chung cho trung ương. Giai cấp trung lưu ở Mỹ có tiếng nói mạnh hơn giới qúy tộc châu Âu. Ở Mỹ khuynh hướng theo ý kiến của đa số là phổ biến và có tác động tạo ra tầng lớp cơ hội trong muà tranh cử và tranh giành các chức vụ công quyền sau khi đắc cử. Vì chạy theo tâm lý nhất thời nên dân chúng không cùng nhau hướng về một viễn tượng chung để lo xây dựng tương lai đất nước. Cuốn II ra mắt vào năm 1840 và đưa ông trở thành Viện Sĩ của Académie francaise (1841). Ông kết luận là Pháp không thể phát huy dân chủ vì các trở lực chính: phân quyền không cân xứng, dân chúng thiếu lòng yêu chuộng tự do hoặc lạm dụng, theo chủ nghĩa cá nhân và duy vật, muốn có nhiều quyền bình đẳng trong các điều kiện xã hội (égalité des conditions), trong khi chính quyền Pháp không xây dựng các định chế một cách hữu hiệu hơn để bảo tồn tự do.Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy là Pháp phải tuân thủ nguyên tắc tam quyền phân lập; một cơ quan Tư pháp độc lập và Hành pháp mạnh mẽ; việc tản quyền hành chính cho địa phương phải triệt để hầu nâng cao quyền tự trị của người dân. Muốn đạt được thành quả này, Pháp cần phải cải cách vai trò của tôn giáo và giáo dục, tôn trọng nữ quyền và quyền tự do lập hội và báo chí.Áng văn kinh điển này đã gây chấn động sâu xa tại Pháp và Mỹ và trở thành lý thuyết cơ bản về dân chủ trong khoa học chính trị đối chiếu và được giảng dạy tại hầu hết các đại học trên thế giới. Mỗi khi có các khủng hoảng về dân chủ, tác phẩm này luôn được đem ra thảo luận.
Nội dung Khủng hoảng dân chủ tại Pháp
Cách mạng thành công mở ra cho Pháp một vận hội mới để lập một quốc gia theo nền cộng hoà và dân chủ. Nhưng 40 năm sau, Pháp rơi vào một cuộc khủng hoảng mà Tocqueville mô tả các chi tiết trong hai danh phẩm: L´État social et politique de la France avant et de puis 1789 (1836) và L´Ancien Régime et la Revolution (1853).Cách mạng làm cho mọi giá trị truyền thống tâm linh, chính trị, văn hoá và xã hội sụp đổ, nhưng cũng không đem lại một giá trị phổ quát cho bối cảnh mới. Các khái niệm chính yếu trong quá khứ cần phát huy, thí dụ như danh dự, trách nhiệm, luật pháp, ái quốc, tự do và công bình, không còn giá trị. Trong khi các giai cấp hoàng gia, quý tộc và giáo hội Công giáo không còn, thì một xã hội thế tục thành hình với một số tầng lớp mới ra đời: các giới chức cao cấp trong quân đội và hành chánh, các doanh gia và nhà khoa học bắt đầu lên tiếng trong sinh hoạt công quyền. Chính quyền kém hiệu năng và mất phương hướng nên hiến pháp phải thay đổi liên tục. Càng thay đổi chính quyền, đất nước càng hỗn loạn với hàng loạt các cuộc mưu sát hoàng gia, khủng bố chính quyền và nội chiến chống khủng bố; nỗ lực của chính quyền chỉ còn là duy trì trật tự công cộng và không thể giải quyết được toàn bộ các vấn đề xã hội, tạo cho dân chúng có ý thức về dân chủ và đất nước ổn định. Xã hội Pháp tiếp tục chuyển mình trong hướng đi vô định.
Chủ
đích của Tocqueville không phải chỉ mô tả thực trạng xã hội mà còn mưu tìm cho
nước Pháp một mô hình dân chủ. Theo ông cần phải tìm hiểu tình trạng nguyên thuỷ
của dân chủ. Một trật tự xã hội thành hình là do những suy nghĩ và hành động
chung của mọi người; tất cả ràng buộc nhau thành một thói quen, phong tục chung
và trở nên gắn bó nhau trong sinh hoạt xã hội.
Thông
thường, quyền lợi vật chất dễ làm cho con người tìm cách đoàn kết nhau. Nhưng
qua thời gian, có thể quyền lợi kinh tế sẽ không còn là một mục tiêu chung và ý
thức về tự do là một lý tưỏng để duy trì. Ông dè dặt hơn khi đề cao vai trò của
các định chế, dù là có tầm quan trọng trong lý thuyết, nhưng tìm cách áp dụng định
chế trong thực trạng xã hội là khó, và đạt được hiệu năng vận hành lại càng khó
hơn. Do đó, theo ông, nhận thức về ý nghĩa cao đẹp của tự do là khởi điểm cho
người dân phát huy dân chủ. Khi có các quan tâm, thì việc xây dựng một trật tự
nền tảng cho dân chủ khởi đầu.
Ý nghĩa
của tự do
Tự do
có nghĩa là chúng ta sẽ hoàn toàn có thể giải quyết các vấn đề như chuyện riêng
tư và không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, chính quyền hay luật pháp. Hình thức của
tự do là ngôn luận, đi lại, lập hội và báo chí. Thực ra, đó chỉ là một số điều
kiện cơ bản nhất của tình trạng tự do toàn diện.
Tocqueville
đặt ý nghiã của tự do trong một nội dung toàn diện và khuôn khổ hiến định. Quyền
tự do hiến định là cao cả nhất vì bảo đảm điều kiện cho mọi sinh hoạt của người
dân, nhất là sự toàn vẹn nhân phẩm. Ông phân biệt tự do của cá nhân và tự do
trong xã hội, vì đó là hai vấn đề không giống nhau.
Cá nhân
sống trong tự do là một hình thức và các cá nhân sống chung nhau trong xã hội
là một hình thức khác. Cá nhân phải có tự do riêng trong suy nghĩ và hành động,
nhưng xã hội cần phải có một khuôn khổ để tạo điều kiện cho việc người dân suy
nghĩ và hành động chung. Cả hai loại tự do này phải được đảm bảo bởi hiến pháp
và hệ thống luật pháp. Việc thực hiện quyền bình đẳng trong mọi sinh hoạt tự do
làm cho nền tảng của dân chủ thành hình.
Nhưng
thực tế khác hẳn. Bất ổn xã hội triền miên làm cho người dân càng ngày càng muốn
xa rời các sinh hoạt chính trị. Khi phải chứng kiến bạo lực của chính quyền,
thì họ cũng không còn biết cách sử dụng quyền tự do do cách mạng mang lại, mà
quyền này không còn nguyên vẹn từ lâu khi bị chế độ chuyên quyền tước đoạt;
không phải là các giá trị trừu tượng của tự do bị tổn thương mà là vì người dân
thực sự không còn tự do. Do đó, họ cũng không còn xem tự do là như một vấn đề
nhận thức thuần lý về một khái niệm trừu tượng, mà chỉ mơ màng đến một lối sống
tự do.
Yêu lối
sống tự do
Người
dân ở một trạng thái tâm lý mà Tocqueville gọi là lòng yêu chuộng tự do hay là
một sở thích (Goût de liberté), mơ ước có một cơ hội để biểu hiện tự
do trong mọi sinh hoạt.
Có hai
nguồn gốc chính về lòng yêu chuộng tự do, một là lòng ích kỷ để theo đuổi các mục
tiêu riêng, hai là nhu cầu cần có tự do trong hành động. Hai đòi hỏi này có sức
thu hút đặc biệt và tạo cho người dân có thói quen để thực hành quyền tự do.
Thực
ra, thông thường thì đa số người dân không luôn đề cao tự do chính trị. Hiểu biết
hạn hẹp là vấn đề. Thậm chí có trường hợp làm ngưởi dân còn có lập luận ngược lại,
họ đặt quyền lợi riêng tư lên trên mà không nhất thiết phải ca ngợi tự do chính
trị. Họ cho rằng tự do còn làm trở ngại để họ theo đuổi các mục tiêu của mình.
Chỉ có một thiểu số hiểu biết về ý nghĩa cao cả của tự do và xem là một loại
giá trị phổ quát.
Vai trò
của Hiến pháp
Nhưng
toàn bộ vấn đề tự do cần được hiến pháp và luật pháp quy định. Nhờ thế mà mọi
người có cơ sở để suy nghĩ và hành động nhằm thể hiện một lối sống tự do. Lý do
là vì tự do toàn diện và hiến định bao giờ cũng tốt đẹp hơn một vài tự do riêng
lẻ được luật pháp thông thường kết hợp lại.
Đề cao
tự do khi người dân có nhận thức, yêu chuộng tự do khi họ có cảm xúc, nhưng duy
trì tự do là vai trò của Hiến pháp. Hiến pháp phải quy định các định chế, các
phong tục tập quán để có cách hướng dẫn người dân nhận ra tầm quan trọng của tự
do. Nhờ thế, lòng yêu chuộng tự do, vồn tiềm tàng trong lòng mọi người, có cơ hội
được phát huy.
Hoàn cảnh
cá nhân và thực tế địa phương
Tocqueville
không đề cao giá trị lý thuyết của tự do mà là khía cạnh áp dụng trong hoàn cảnh
cá nhân và thực tế địa phương. Để quyết định cho định mệnh của mình, cá nhân phải
nhận ra tự do là điều kiện đầu tiên mà để từ đó họ tạo một khởi đầu mới.
Dù tự
do có vai trò định đoạt, nhưng cá nhân vẫn không thể thoát ra khỏi hoàn cảnh xã
hội, đó là một sự nối kết bất khả phân. Ông đặt tự do cá nhân trong mối tương
quan với hoàn cảnh xã hội và ngược lại. Tự do không chỉ giải phóng con người ra
khỏi mọi ràng buộc xã hội vì không còn cần đến luật lệ và phong tục tập quán.
Con người không phải là thần thánh hay thú vật, mà là có ý thức về giá trị của
tự do và thực hiện tự do trong khung cảnh xã hội.
Đa số
nghệ sĩ và trí thức thường có thói quen phê bình các vấn đề bất công xã hội,
nhưng lại muốn xa lià thực tế và hướng về tự do tuyệt đối; lý tưởng này là mơ mộng
và sai lầm. Cần tìm hiểu mối tương quan này là một khởi đầu cho các nỗ lực nối
tiếp. Mục tiêu này chỉ đạt được khi mỗi người có cơ hội đồng đều để có thể tham
gia, đó là một điều kiện quan trọng nhất.
Thực tế
ngược lại. Ý thức chính trị chỉ là ưu tư của thiểu số, tìm cách huy động cho đa
số tham gia chính sự là cà một vấn đề khó khăn; chuyện nước non thường được
chính quyền tập trung để dễ quyết định, nên cơ hội tham gia của người dân là
chuyện xa vời. Theo Tocqueville, tản quyền cho người dân để thực thi quyền tự
do trên căn bản địa phương và cá nhân, đó là mục tiêu của hiến pháp trong gia
đoạn mới.
Trung
ương tập quyền
Suốt một
thời kỳ dài, trung ương tập quyền là một chiều hướng chung của Luật Hiến pháp
không phải cho Pháp mà cả châu Âu. Hình ảnh một nước Pháp không gì khác hơn là
một quốc gia đơn nhất và tập trung cai trị bằng các biện pháp của Luật Hành
chánh. Khẩu hiệu “một nhà nước thống nhất và bất khả phân” (La nation
une et indivisble) gây tác hại gây không những đến các sinh hoạt đảng
phái, hiệp hội và giai cấp, mà còn đến các cơ cấu hành chánh địa phương. Dù có
các lý thuyết về chủ quyền quốc gia tối thượng của Bodin và Hobbes mở lối,
nhưng các vấn đề quyền cai trị địa phương và tinh thần tự trị cuả dân chúng đều
không được phát huy.
Cách mạng
đã thay thế chủ quyền tối thượng của hoàng gia bằng chủ quyền toàn dân và mục
tiêu của các cuộc phổ thông đầu phiếu là để tìm ra giới lãnh đạo tài năng cho đất
nước. Do đó, cách cai trị đất nước, một vấn đề hiến định, trở thành một mô hình
mà Pháp làm cho các nước khác noi theo. Cách mạng không phải chỉ làm cho quyền
lực của hoàng gia và quý tộc không còn, mà ảnh huởng của các nghiệp đoàn và hiệp
hội tư nhân cũng biến mất. Dân chúng manh nha ý tưởng về một quyền dân chủ tự
quản và đòi hỏi có tự do nhiều hơn.
Theo
quan điểm của chính quyền, đổi mới đất nước có nghĩa là tăng cường quyền lực
cho chính quyền trung ương, làm mất ảnh hưởng của các cơ quan quyền lực trung
gian (les pouvoirs intermediaires), và các cơ quan hành chánh
địa phương (administration des comtés). Để đạt được mục tiêu này
dân chúng cần có một bộ máy hành chánh để kiểm soát việc thi hành quyền tự do.
Do đó, giải quyết các vấn đề công quyền lệ thuộc vào bộ máy hành chánh hiệu
năng.
Những
biến cố dồn dập đủ loại khiến cho người dân có ý thức là các vấn đề nội chính
trở nên quan trọng và cần ưu tiên giải quyết bằng cách cải tổ Luật Hành chánh.
Nhưng đi vào cụ thể trong các hình thức và nội dung về quyền tự quản của người
dân, một vấn đề cấu trúc chuyên môn mà hầu như người dân không biết đến các chi
tiết nên họ không thể tự giải quyết. Tập trung hay phân tán quyền lực trong hệ
thống hành chánh công quyền là một vấn đề hiến định, nhưng có quan hệ trực tiếp
đến việc áp dụng Luật Hành chánh địa phương trong thực tế.
Theo
ông, càng tập trung quyền lực thì càng dễ tìm các biện pháp táo bạo để giải quyết
các vấn đề sôi bỏng của thời cuộc, nhưng khi tản quyền thì càng khó kiểm soát
hơn và khả năng chống đối luôn có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Chính quyền địa
phương suy yếu và cấu trúc hành chánh mới chưa thành hình để thoả mãn nhu cầu
dân chúng cho phù hợp, nên động loạn xã hội càng nhiều. Đa số quan tâm đến tự
do kinh tế hơn là chính trị. Họ thường cân nhắc các loại tự do theo cách dung
hoà quyền lợi. Chính quyền chú ý đến nguyện vọng của đa số, vì đúng theo luật
thủ tục và muốn trấn áp thiểu số, mà ông gọi là sự chuyên quyền của đa số. Đối
với dân chúng thì chính quyền vừa vô trách nhiệm vừa không khả năng, từ đó họ bắt
đầu có ý tưởng thù nghịch. Đó là căn bệnh của Pháp, một tình trạng xấu xa tất yếu,
rất tự nhiên và cũng vô phương chữa trị.
Dù theo
chủ trương tản quyền, nhưng kiền thức theo sách vở giáo khoa chỉ là phương tiện
và ý thức và hành sử quyền tự do trong thực tế là trọng tâm cần theo đuổi. Khi
cá nhân có kinh nghiệm trong các vấn đề đời sống hằng ngày và ý thức được trách
nhiệm trước các vấn đề địa phương, đó là khởi điểm. Hai ý thức này đến từ lòng
yêu chuộng tự do và công bình trong môi trường sống thực tế, đó là các đức tính
cần phát huy.
Theo
Tocqueville, có hai giải pháp để giải quyết khủng hoảng dân chủ. Một là phải giới
hạn quyền tự do trong phạm vi thuần túy cá nhân; giải quyết chính sự là vấn đề
của chính quyền trung ương mạnh và tầng lớp trí thức nhiệt tình. Ông phản đối
giải pháp này vì không hữu hiệu, mà kinh nghiệm của Pháp đã chứng minh. Khi một
khi chính quyền đã tướt đoạt tự do của dân chúng, thì họ không còn quan tâm đến
việc dung hoà quyền lợi của người dân trong các định chế chính trị.
Hai là
tạo ý thức về tự do và dân chủ cho người dân trong việc quyết định vận mệnh của
cá nhân và đất nước, họ biết sử dụng lý trí và kiềm chế mọi đam mê. Muốn có ý
thức trách nhiệm, khôn ngoan trong nhận định và dung hoà mọi quyền lợi là một
thói quen mà người dân cần có, thì giáo dục công dân có vai trò chủ yếu.
Làm sao
có thói quen và áp dụng thói quen? Tự do là một quyền tự nhiên. Biến quyền này
để sử dụng người dân cần có một đức tính và một thói quen áp dụng; Thói quen
này sẽ có kết qủa của giáo dục qua thời gian dài; từ đó, nó biến thành một định
chế xã hội.
Thực tế
cho thấy là dân chúng chỉ trông chờ chính quyền ban phát ân huệ, nên họ không
có cơ hội và thói quen hành sử tự do. Để thay đổi, không cần phải có một bộ máy
hành chánh khổng lồ mà là một chính quyền địa phương hữu hiệu và dân chúng năng
động có ý thức và trách nhiệm. Những đặc điểm này ông tìm thấy nơi các định chế
và con người của nước Mỹ.
Các đặc
điểm về định chế dân chủ của nước Mỹ
Tocqueville
không ca ngợi đất nước và con người trong một cảm nghĩ thoáng qua như là một du
khách; vì công việc chính của ông tại Mỹ là nghiên cứu về chính sách cải huấn
phạm nhân. Từ tháng Năm 1831 đến tháng Hai năm 1832, ông và người bạn đồng sự
là Gustave de Baumont du hành qua các vùng New England, New York, New Orleans
và Michigan. Nhân dịp này, ông nhận ra nhiều giá trị ưu việt trong hệ thống
công quyền mà Pháp cần bổ sung.
Dân chủ
địa phương
Ông thấy
có sự dị biệt trong sinh hoạt địa phương ở Mỹ với Pháp. Lợi điểm duy nhất của
trung ương tập quyền của Pháp là chính quyền sẽ dễ huy động nguồn lực của dân
chúng trong một số thời điểm nhất định, nhưng về lâu dài thì khó mà đổi mới các
sức mạnh này. Trong việc giải quyết các vấn đề địa phương, lối suy nghĩ và hành
động của dân châu Âu vốn dĩ là suy yếu. Ông không đề cập đến các vấn đề hiệu
năng của Luật Hành chánh như chúng ta thường đòi hỏi ngày nay, mà đề cao kinh
nghiệm của người dân trong việc tham gia các sinh hoạt cộng đồng.
Ông lập
luận, dù khi đất nước có một chính quyền trung ương do dân cử, nhưng không có
cơ sở địa phương tự trị thì cũng không thể có tinh thần tự do. Tại Mỹ, cơ sở
quyền lực địa phương là dựa trên sự tham gia của dân chúng. Họ có một thói quen
trong suy nghĩ và hành động nhằm thể hiện tinh thần tự do.
Ông tự
hỏi tại sao các người di dân định cư tại các tiểu bang New England lại có sự gắn
bó với địa phương, dù không phải là nơi họ sinh trưởng. Ông giải thích là vì họ
cảm thấy có một tinh thần độc lập mạnh mẽ và tự tin về khả năng giải quyết các
vấn đề địa phương. Ý thức này không đến từ tinh thần cách mạng truyền thống mà
đến từ ý thức tự do của cá nhân, họ biến việc tham gia sinh hoạt cộng đồng là một
thói quen, một nhu cầu trong thực tế. Họ có một khả năng chuyển hoá một cái gì
thật nhỏ bé và cụ thể ở nơi nào mà họ có sức (où il y a de la force). Họ tạo
thay đổi và tận hưởng thành quả của mình và không có tâm trạng chờ đợi được ban
phát ân huệ. Người dân Mỹ hiểu nhau và giúp bảo vệ quyền lợi nhau khá chặt chẻ.
Dù trong tinh thần thủ lợi cá nhân, nhưng các tính toán kinh tế này của họ đều
có giá trị áp dụng trong sinh hoạt chính trị.
Theo
ông, sở thích tự do (Goût de liberté) của người Pháp sẽ thành một hạnh
phúc chung (public happiness) kiểu Mỹ, khi họ ý thức được việc tham gia
các sinh hoạt tại địa phương, một niềm vui và kinh nghiệm mới mà dân Pháp cần
có. Các đặc điểm này sẽ dễ thành hình khi có một hệ thống tản quyền địa phương
hỗ trợ.
Địa
phương tản quyền
Ông phê
bình là ai cũng mang ảo tưởng về một chính quyền trung ương là sẽ có khả năng
giải quyết các vấn đề địa phương. Ông phân biệt có hai loại công vụ trong sinh
hoạt công quyền. Một liên hệ đến toàn quốc và quốc tế, hai ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi địa phương.
Để giải
quyết các loại thứ nhất, chính quyền trung ương mạnh sẽ giải quyết được vấn đề.
Ngược lại, trong loại thứ nhì, chính quyền trung ương mạnh sẽ làm cho ý thức
chính trị của người dân giảm đi. Tản quyền hành chánh không thuần túy là phải
giao toàn bộ công việc cho các công chức địa phương để họ giải quyết, mà là gây
ý thức về tinh thần tự quản của nguời dân, một đặc sắc trong định chế công quyền
của Mỹ. Chính quyền liên bang không giải quyết các vấn đề của tiểu bang và địa
phương, mà người dân sẽ phải giải quyết khi họ tác động đến các sự vận hành dân
chủ trong các cơ sở địa phương (communes, township democracy)
Địa
phương tự trị là một môi trường giáo dục để người dân yêu thích và thể hiện
tinh thần tự do. Họ không cần đến các biện pháp tài trợ từ trung ương; vì không
lệ thuộc vào sự ban phát, nên họ cũng không bị trung ương khống chế bằng các biện
pháp ngân sách; họ đóng thuế và kiểm soát các nguồn thu chi này. Ý thức về tự
do của người dân Mỹ ở địa phương là then chốt mà người dân châu Âu không thể
sánh bằng.
Sách vở
giáo khoa thường đề cao về một nền dân chủ tham dự (participatory democracy).
Thực ra, đó là sự phát triển học thuyết về sau và khác hẳn với suy luận nguyên
thủy của Tocqueville. Một nền dân chủ tham dự luôn coi trọng ý kiến của dân
chúng trong các dự án mà quyền lợi của họ có liên quan. Các dự án này thường là
do chính quyền đề xuất và cần đến ý kiến của người dân để chung quyết. Ở đây,
có sự khác biệt; quan điểm của Tocqueville không lệ thuộc vào bất cứ một dự án
cụ thể nào, mà là một loại ý thức hành động để thể hiện tự do toàn diện, một
phương cách để tạo đoàn kết điạ phương, một quyền bình đẳng trong nền dân chủ.
Ông đề
cao các yếu tố địa lý, lịch sử, xã hội và phong tục gây thuận lợi cho sự hình
thành này. Người dân Mỹ đã biết tận dụng các lợi thế này mà quan trọng nhất là
xã hội Mỹ cởi mở nên đã tạo ra một tiến trình tự giáo dục thường xuyên cho từng
người trong xã hội, nhờ thế mà sinh hoạt dân chủ sinh động.
Hiến
pháp hài hoà
Trong sự
vận hành của nền dân chủ, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số phải tôn trọng;
tiếng nói của thiểu số không còn được quan tâm. Người dân luôn tôn trọng mọi
hình thức của pháp luật, nhưng tôn trọng ý kiến của thiểu số cũng là vấn đề;
không phải lúc nào ý kiến của đa số cũng đúng tuyệt đối và phù hợp với luật
pháp. Qua thời gian, nhận thức của người dân luôn thay đổi, nên ý kiến cũng có
thể thay đổi theo. Sự thống trị của đa số dễ đưa tới tình trạng chuyên quyền;
đó là một tình trạng nguy hiểm thường trực cho xã hội Mỹ.
Ông chấp
nhận nguyên tác đa số, nhưng không thể để nó làm thành một loại làm rào cản cho
sinh hoạt dân chủ, mà cũng cần nên có các thế lực đối nghịch khác phát sinh.
Các nhà lập hiến đã tìm ra một giải pháp tương ứng khả thi: đó là kiểm soát và
cân bằng khi cho phép có những loại đối lực khác để thiểu số vẫn có cách gây được
tiếng vang và làm cho quyền của đa số ít nguy hiểm hơn.
Ông thí
dụ về quyền phủ quyết của Hành pháp. Dù Tổng thống Mỹ luôn lệ thuộc vào triển vọng
để được tái đắc cử; nhưng Hiến pháp cho phép Tổng thống có quyền phủ quyết một
số vấn đề, kể cả trong chính sách đối ngoại. Vì thế, Tổng thống có thể đi ngược
lại nguyện vọng của đa số.
Ông đề
cao vai trò án lệ và tính độc lập của ngành Tư pháp. Các chánh án và luật sư có
hiểu biết chuyên nghiệp và được hưởng một quy chế bảo vệ. Một hệ thống Tư pháp
luôn đề cao án lệ hơn là những nguyên tắc chung về luật pháp; nên qua các án lệ
nổi danh, toà án có ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ và hành động của người
dân. Ngoài ra, một hệ thống bồi thẩm đoàn mở rộng, nên hoạt động Tư Pháp không
hoàn toàn cách biệt với sinh hoạt xã hội mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến việc
phát triển công lý và tự do chính trị.
Ông
không tin chế độ lưởng đảng là hữu hiệu mà còn xem là một hệ thống bốc lột trá
hình, vì sau khi thắng cử thì các bậc trưởng thượng trong Đảng sẽ thay phiên
nhau chia chác các chức vụ béo bở trong tinh thần tự mãn và gây tham nhũng tệ hại;
ông ca ngợi tinh thần tự do lập hội trong các sinh hoạt địa phương, một vai trò
trung gian tích cực để người dân chống lại sự chuyên quyền của đa số.
Giáo dục
tạo khôn ngoan thiết thực
Khác với
John Stuart Mill, Tocqueville không đề cao hệ thống giáo dục cổ truyền là một
môi trường tạo ra ý thức về tự do. Ngược lại, hành động, thói quen và kinh nghiệm
của người dân mà giáo dục thành hình. Khi người dân Mỹ trực tiếp tham gia lập hội,
bồi thẩm đoàn và chính quyền địa phương, đó là trường học bổ ích. Thể chế dân
chủ điạ phương dạy cho người dân có được ý thức về hành sử quyền tự do. Nền dân
chủ của Mỹ đã không biến người dân là nạn nhân của các trò chơi lý thuyết mà
các triết gia của nước Pháp gây ra thế kỷ XVIII, vì không có kinh nghiệm mà người
dân Pháp phải hứng chịu bao nhiêu điêu đứng trong lịch sử.
Ý thức
về công lý thường là do luật giới đem lại cho người dân, nhưng việc áp dụng hiểu
biết trong thực tế là vai trò của người dân. Nó trở thành một đức tính cao quý
về khôn ngoan trong thực tiễn. Do đó, họ sẽ đem lại trật tự xã hội, một điều kiện
khởi đầu cho một nền dân chủ lâu dài.
Mối quan hệ giữa bình đẳng và tự do
Không
quan tâm đến chính sự và chỉ lo cho kinh tế cá nhân là một tình trạng nguy hiểm
cho sự phát triển nền dân chủ, nhưng tùng phục sự chuyên quyền của đa số một
cách vô ý thức lại là một tình trạng nguy hiểm khác. Chính ý thức về tự do và thể
hiện công bình là cần thiết để thoát ra khỏi hai tình trạng nguy hiểm này. Để đạt
được lý tưởng của một nền dân chủ, mối quan hệ giữa công bình và tự do cần đặt
ra.
Ông
chúng minh là hai ý thức này liên hệ trong một cấu trúc và bổ sung nhau. Khi mọi
người hiểu được tự do thì họ sẽ biết được giá trị của công bình. Đó là một lý
tưởng chung mà người dân cần theo đuổi khi tham gia chính sự.
Vì con
người quên mối quan hệ sở thích về tự do (Goût de liberté) và yêu
chuộng công bình (l´amour de l´égalité) nên làm cho xã hội
càng tồi tệ hơn. Dù cả hai tiềm tàng trong con người, nhưng trong thực tế có thể
người ta chọn một thứ nào đó là ưu tiên, có thể là cạnh tranh nhau. Làm sao
thúc đẩy cho người dân yêu chuộng cả hai giá trị này để cả hai tương tác nhau
trong sinh hoạt chung, đó là vấn đề.
Vai trò
của lãnh đạo
Quyền tự
do chọn lựa giới lãnh đạo là vấn đề chính trong một xã hôi dân chủ. Nhưng
Tocqueville nghi ngờ là người dân không luôn luôn sáng suốt trong việc chọn lựa
này, đôi khi họ dùng cảm xúc thay cho lý trí, không phải lúc nào họ cũng ưu tư
chính sự, mà là cơm áo, đó là một cơ hội tốt cho giới mị dân thu phục cảm tình
trong muà bầu cử. Ông đồng ý là giới lãnh đạo có thể có thực tâm theo dõi nguyện
vọng của dân chúng, nhưng chắc gì họ có đủ khả năng để giải quyết vấn đề sau
khi thắng cử
Ông
không lạc quan khi cho là bầu cử theo đúng luật thủ tục sẽ chọn được người lãnh
đạo anh minh và liêm chính. Những ưu điểm của nguyên tắc phổ thông đầu phiếu
không thể bảo đảm để giải quyết toàn bộ các vần đề tâm lý xã hội. Sai lầm của một
cử tri trong chuyện chọn mặt gởi vàng là thường tình, thì sai lầm của đa số
cũng có thể xãy ra mà sự chuyên quyên của đa số càng nguy hại hơn.
Độc tài
của đa số
Ông cảnh
báo là dân chúng Mỹ cũng không nên chấp nhận mù quáng về những nguyên tắc dân
chủ tổng quát, nên dè dặt hơn trước quyết định của đa số, vì đó là một trò nguy
hiểm; họ cần phải điều chỉnh ý thức cho phù hợp với tình hình thực tế hàng ngày
của cá nhân và địa phương.
Tocqueville
không những gay gắt về sự chuyên quyên của đa số mà còn về tinh thần sùng bái
cá nhân và tâm lý bầy đàn, cả hai đều nguy hiểm như nhau. Cá nhân và đa số đều
muốn yên vui, ổn định và sung túc. Nhưng giới lãnh đạo có thể tìm cách thích ứng
nguyện vọng này trong khi họ lại vi hiến, nhất là khi họ tạo ra được một loại
áp lực thiểu số phải phục tùng đa số, một loại tâm lý bầy đàn hướng về ý kiến của
đa số. Ông bi quan hơn khi cho rằng khi đa số tạo áp lực quá mạnh, đó là một
hình thức thảm hại, một tinh thần nô lệ mới.
Ông lập
luận là tại sao quyết định của đa số không thể sai lầm, tại sao là thuần lý và
không là một cảm xúc nhất thời. Ai theo tâm lý của đám đông và mà không sử dụng
lý trí để phán xét, đó là trò nguy hiểm cho tự do. Dù các định chế hữu hiệu là
liều thuốc giúp xây dựng nền dân chủ, nhưng ông cũng không quên ca ngợi các đặc
điểm về con người dân chủ của Mỹ.
Các đặc
điểm về con ngưòi dân chủ của nước Mỹ
Lòng vị
kỷ
Tocqueville
thấy tinh thần thủ lợi cá nhân thể hiện rõ trong người Mỹ. Trong mọi sinh hoạt
hằng ngày, họ có thói quen cân nhắc lợi hại và sử dụng tự do trong mọi tính
toán, nhưng họ không gây hại cho sinh hoạt dân chủ hay ổn định chính trị. Giới
đạo đức không lên án các hành vi này là xấu, mà xem là cần phải biện minh về
lòng chân thành của con người trong tinh thần tư lợi nhưng thuần lý và đúng luật
Tinh thần
thủ lợi theo Tocqueville cũng khác hẳn quan điểm của Adam Smith, một loại bàn
tay vô hình hướng về nền kinh tế thị trường; qua sự vận hành này, thị trường
thành hình và các thành phần tham gia sẽ cùng hưởng lợi, tạo thành phúc lợi tập
thể và thịnh vợng cho đất nước. Ông xem tự do và thủ lợi như là hai động lực
thúc đẩy cho cá nhân hành động, một đức tính cần có một số kiến thức và chân lý
nhất định. Suy luận của Tocqueville không theo khuôn khổ tư duy của nền kinh tế
thị trường và phù hợp với chúng ta trong thời đại hiện nay.
Đức tin
tôn giáo
Tocqueville
không phải là một tín đồ Thiên Chúa giáo thuần thành nên ông nhìn tôn giáo
trong khía cạnh xã hội học hơn là thần học. Ông không quan tâm đến nỗ lực tìm
chân lý hay sự bất tử của linh hồn, mà tìm cách lý giải chức năng của tôn giáo
là làm nối kết con người trong mối quan hệ xã hội. Ông cũng thấy là sự tách rời
giáo quyền ra khỏi thế quyền là cần thiết, vì sự kết hợp hai loại quyền lực này
gây bao tác hại như kinh nghiệm của Pháp trước Cách mạng. Nhưng mức độ ảnh hưởng
của tôn giáo trong xã hội như thế nào là khả chấp?
Ông cho
là một đất nước mà không có sinh hoạt tôn giáo là chuyện không tưởng và sẽ gây
nguy hại cho trật tự xã hội. Cứu khổ theo tôn giáo có một giá trị nhất định cho
đời sống cá nhân tín đồ, ông đã thấy ảnh hưởng này ở Pháp, nhưng khi đến Mỹ ông
thấy vai trò tôn giáo lại càng quan trọng hơn, vì nó ảnh hưởng cho sự phát triển
chung cho nền dân chủ. Theo ông tôn giáo có hai chức năng chính.
Một là,
tôn giáo có vai trò đạo đức xã hội và luật pháp cần đặt ra một khuôn khổ giới hạn.
Tìm chân lý và hy vọng được cứu vớt là nhu cầu tâm linh tối hậu của tín đồ,
nhưng toàn thể xã hội cần vượt qua những lo sợ và hy vọng của cá nhân, mà tạo
ra sự ổn định và phát triển trong tinh thần duy trì tự do, đó là mục tiêu chung
và quan trọng hơn.
Hai là,
nội dung của giáo điều cũng cần thiết cho xã hội. Tôn giáo dạy rằng không có gì
quan trọng cho con người hơn là cuộc sống, con người có đức tin sẽ yêu cuộc sống
và yêu con người hơn, giúp cho người tâm quan tâm đến người và những sinh hoạt
thường nhật. Nhờ thế, họ vượt qua tinh thần vị kỷ và tha thiết tham gia sinh hoạt
với tha nhân. Sự dân thân của các tu sĩ ảnh hưởng đến sinh hoạt của giáo dân và
sự phát triển điạ phương, làm cho tín hữu sẽ quan tâm đến láng giềng, cộng đồng
và xã hội; họ cảm thấy gắn bó nhau và có đóng góp thiết thực hơn. Qua tình đồng
đạo và lòng vị tha mà lòng ái quốc cũng sẽ phát triển trong chừng mực qua thời
gian.
Lòng
thương cảm
Dù đức
tin là khởi điểm cho hành động của tín đồ, nhưng Tocqueville không đề cao việc
từ bỏ hay chấp nhận giáo điều, mà làm sao qua tiến trình suy tưởng người ta đạt
đến một kết quả để làm căn bản cho hành động. Thực tế hơn, ông quan tâm đến ý
thức về hành động của con người thế tục.
Ông đề
cập đến một tâm hồn bất ổn thường trực, sống trong lo âu, nhưng lại là một trạng
thái thôi thúc hành động và không bất lực trước mọi bất trắc; nỗ lực làm thay đổi
thế giới của con người quan trọng hơn là tìm tới một tâm linh sâu thẩm. Ông muốn
biến nội dung của giáo điều trở thành những ý tưởng thật đơn giản trong thực tế.
Ý tưởng này không gì khác hơn là đặt tâm hồn thương cảm cá nhân trong mối quan
hệ xã hội và có trách nhiệm với tha nhân.
Nhận
xét
Ưu điểm
Với De
la démocratie en Amérique Tocqueville để lại cho hậu thế một danh tác.
John Stuart Mill xem đây là một công trình về văn minh học vì Tocqueville đã
tài tình khi vượt qua khỏi phạm vi chinh trị học đối chiếu và triết lý chính trị.
Wilhelm Dilthey ca ngợi tài năng uyên bác của Tocqueville trong mọi khía cạnh lịch
sử, tôn giáo, xã hội học, điạ lý, phong tục tập quán và nhân văn mà một du
khách hay một học giả không thể nào nhận thức được về đất nước rộng lớn và phức
tạp trong một thời gian ngắn. Kể cả đến hiện nay chưa có một nhà nghiên cứu nào
có thể trình bày về đề tài này trong mức độ toàn diện này như Tocqueville.
Dù có
quá nhiều lý thuyết về dân chủ và các học giả đào sâu theo từng chuyên đề khác
nhau, nên không thể nói là lý thuyết nào là toàn diện và thuyết phục nhất. Các
nền dân chủ hưng vong qua thời gian và các học thuyết về dân chủ đều có những
giá trị tham khào nhất định, nhưng phải công nhận là lý giải của Tocqueville có
một giá trị cao nhất khi đề cập các đặc điểm về định chế và con người dân chủ,
nó không chỉ làm mô hình cải cách cho Pháp và châu Âu trước đây mà còn cho Việt
Nam hiện nay.
Khuyết
điểm
Tuy
nhiên, thành tích này có những giới hạn nhất định. Sử dụng khái niệm về dân chủ
và công bình quá rộng, khi so sánh với tác dụng của văn minh, nên tác giả khó
kiểm chứng chính xác về tác dụng cho sự hình thành của dân chủ. Các hình thức
và hậu quả các khái niệm dân chủ này được các tác giả hiện đại đi vào các khảo
hướng chuyên biệt hơn. Tocqueville đồng hoá dân chủ là quyết định của đa số và
cảnh báo về tính áp đảo toàn bộ của nó trong mọi sinh hoạt. Suy luận này không
còn chính xác khi vai trò đảng phái, truyền thông, xã hội dân sự, đoàn thể áp lực
và hợp tác quốc tế; tất cả có tác động làm thay đổi ý kiến của đa số.
Ông đề
cao các khiá cạnh văn hoá, luật pháp và đạo đức, ít chú trọng đến kinh tế để giải
thích cho tiến trình dân chủ hoá. Ngày nay, khía cạnh kinh tế rất quan trọng
trong việc tài trợ cho chiến dịch tranh cử, gây ảnh hưởng cho kết quả đầu phiếu
và phân bổ các chức vụ sau khi thắng cử.
Ông sai
lầm khi đề cao tinh hình ổn định của nước Mỹ, nhất là về mặt nội chính. Hai thập
niên sau ngày tác phẩm ra đời, nội chiến Mỹ bùng nổ, đó là một thí dụ phản chứng
cho các luận đề của Tocqueville về xã hội Mỹ.
Dù nói
về các nguyên tắc dân chủ và phổ thông đầu phiếu, nhưng Tocqueville chỉ nghĩ tới
nam giới da trắng, vì người da den và phụ nử trong thời điểm này chưa có quyền
đầu phiếu. Do đó, khái niệm dân chủ này không thể xem là toàn diện cho xã hội
và là một thành tựu của văn minh.
Một bằng
chứng khác là sau 20 năm sau ngày De la démocratie en Amérique ra
đời, tỷ lệ tham gia bầu cử của người dân Mỹ là 13,3 % so với toàn dân số và mức
độ cạnh tranh giữa các đảng phái là 52,1%. Do đó, tiến trình dân chủ hoá của Mỹ
là một kết quả khiêm nhường. Trình độ phát triển dân chủ của dân Mỹ trong giai
đoạn này có thể so sánh với Bolivie, Brazil và Singapore trong những năm 1980.
Năm
1830 trình độ phát triển kinh tế của Mỹ còn sơ khai, vì chỉ có 10,6 triệu dân
da trắng và 2,3 triệu là da đen, phần lớn dân chúng còn sống ở nông thôn, và mức
độ đô thị hoá chưa mở rộng, chỉ có 8,5 triệu dân số sống ở thành thị. Vấn đề bất
công xã hội không thuần tuý chỉ giới hạn trong ý thức của tự do và thành tựu của
giáo dục, mà còn có nhiều cách giải thích khác hơn, không nhất thiết đưa tới
tình trạng nguy hiểm cho dân chủ như Tocqueville cảnh báo.
Dân chủ
hoá cho Việt Nam theo Tocqueville
Các lý
giải của Tocqueville về dân chủ hoá, dù là dành cho nước Pháp sau năm 1835,
nhưng lại có thể áp dụng cho Việt Nam vào năm 2017.
Thành
tích chung của chính quyền hậu cách mạng Việt Nam cũng như Pháp là tiêu tan mọi
giá trị truyền thống dân tộc và chưa định hình được các giá trị phổ quát mới
làm căn bản cho đất nước và con người; cả hai đều không có thiện chí cải cách
chính trị triệt để; đa số dân chúng của hai nước cũng có điểm tương đồng là vô
cảm trước các biến chuyển của chính sự.
Giống
như Pháp trước đây, hiện nay Việt Nam cần cải cách các định chế là dân chủ đại
nghị với tam quyền phân lập, kinh tế thị trường, thể chế pháp quyền và xã hội
dân sự. Dân chúng cần được hưởng một nền giáo dục tự do, nhân bản và khai phóng
để có kiến thức mới, ý thức mới và động lực khích lệ xây dựng thể chế mới. Do
điều kiện địa lý và truyền thống văn hoá dị biệt, nên thể chế liên bang của Mỹ
không phù hợp cho Việt Nam.
Điểm
khác nhau của hai nước là chế độ Cộng Sản tại các nước Đông Âu đã sụp đổ từ năm
1989, mà đến nay dân Việt vẫn chưa hay là lịch sử thế giới đã sang trang và
không có được cơ hội để học tập các lý thuyết dân chủ của phương Tây, nên cũng
không có các suy nghĩ và hành động như Tocqueville đề cập.
Một chẩn
đoán khác có thể là đúng hơn cho Việt Nam là thế hệ hậu chiến đang mang một hội
chứng khó chữa trị: Stockholm Syndrom. Hiện tượng này xảy ra
vào năm 1973, khi một băng cuớp ngân hàng Thụy Điển giam cầm các nạn nhân,
nhưng qua thời gian sống quá lâu với kẻ cướp, càng ngày họ càng dành thiện cảm
nhiều hơn cho các hung thủ và quên mình là nạn nhân đang mất tự do. Cũng mang
tâm trạng tương tự, giới trẻ Việt chịu sự giáo dục Đảng trị trong 42 năm qua,
tình cảm sâu đậm tự nhiên dành cho bạo quyền nảy sinh là tất yếu, nên họ khó có
cảm xúc cần đổi mới chính trị.
Ngược lại,
Việt Nam có một tin vui chung đúng theo tinh thần của Tocqueville: Càng ngày
càng có nhiều công cuộc đấu tranh đòi quyền lợi cụ thể của người dân địa phương,
họ không còn chờ đợi được ban phát ân huệ của chính quyền, đó là một khởi đầu
cho các nỗ lực kế tiếp.Khác với thời Tocqueville sống, khi dân chủ hoá là xu thế
không thể trành mà Pháp cần phải tăng tốc để thực hiện; thì Việt Nam hiện gặp
khó khăn hơn Pháp, khi cục diện thế giới cực kỳ biến động và giá trị phổ quát của
nền dân chủ tại các nước phương Tây đang suy giảm: Mỹ không còn phép lạ và lòng
hào hiệp để giúp Việt Nam và các nước châu Âu đang trỗi dậy một phong trào mị
dân với tinh thần dân tộc cực đoan. Cả hai khuynh hướng này gây bất lợi cho giới
đấu tranh trong việc vận động quốc tế về dân chủ. Dù các nguyên tắc vận hành của
nền dân chủ tại Mỹ và châu Âu đang băng hoại, nhưng các giá trị lý thuyết về
dân chủ truyền thống của các nước này vẫn còn tương đối cao đẹp hơn nền dân chủ
nhân dân, người dân Việt cần có ý thức phản tỉnh để so sánh về các giá trị này
và hành động trong gạn lọc. Dĩ nhiên, thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo
đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi
nhân quyền và dân quyền và bảo vệ non sông gấm vóc và mội trường thiên nhiên là
các đường lối thực tiễn. Còn lại gì trong chúng ta hôm nay? Có còn chăng là sự
tỉnh thức trong tình tự dân tộc để thảo luận hoà ái về các vấn đề Goût
de liberté kiểu Pháp, public hapiness kiểu Mỹ và hồi
sinh tinh thần Diên Hồng của Viêt Nam; hy vọng các giá trị này
sẽ là những khởi điểm để tìm hiểu và mến yêu trong muộn màng. Khi chuyện nước
non trong hiện tại còn quá mờ mịt và đa số dân chúng phải chịu lắm cảnh lầm
than, thì con đường dân chủ hoá ngày một thêm xa và không thể chờ đợi là sẽ có
phép lạ làm thu ngắn.
Nhưng nếu
mạt vận của đất nước còn kéo dài và dũng khí của con người còn khan hiếm, thì
chừng nào Việt Nam sẽ trở lại các điểu kiện sinh hoạt bình thường về mọi mặt để
có thể phát triển thành một quốc gia dân chủ, phú cường và văn minh là chuyện
không ai biết và vượt khòi phạm vi của bài giới thiệu sách này.
Nguồn: http://basamnews.info/2017/01/09/11-277-gioi-thieu-sach-nen-dan-chu-cua-nuoc-my/