Thomas L. Friedman
Phạm Minh Ngọc dịch
Tổng thống Iran phủ nhận Holocaust, Hugo
Chavez coi thường các lãnh tụ phương Tây, còn Vladimir Putin thì thay củ cà rốt
bằng cây gậy. Tại sao? Họ hiểu rõ rằng mức độ dân chủ tỉ lệ nghịch với giá dầu
mỏ. Đấy là qui luật thứ nhất của nền chính trị dựa vào dầu mỏ, chính qui luật
này xác định đặc điểm của thời đại chúng ta.
Khi nghe ông Mahmoud Ahmadinejad, Tổng thống Iran,
tuyên bố rằng Holocaust chỉ là “huyền thoại”, tôi chợt nghĩ: “Liệu ông ta có
dám nói như thế không nếu giá dầu không phải là 60 USD mà chỉ là 20 USD một
thùng thôi?” Khi nghe ông Hugo Chavez, Tổng thống Venezuela, bảo thủ tướng Tony
Blair “cút xéo”, rồi sau đó, khi phát biểu trước những ủng hộ viên, ông ta lại
thoá mạ kế hoạch của Mĩ về việc thành lập khu vực tự do Bắc và Nam Mĩ, tôi lại
tự hỏi: “Liệu tổng thống Venezuela có dám nói như thế không nếu giá dầu không
phải là 60 USD mà chỉ là 20 USD một thùng và đất nước ông phải phát triển kinh
doanh chứ không chỉ đếm những đồng tiền thu được từ việc khai thác dầu?”
Trong mấy năm gần đây, theo dõi các sự kiện diễn ra
trong các nước cũng vịnh Ba Tư, tôi nhận ra rằng Bahrain là nước đầu tiên trong
số các nước Arab thực hiện việc bầu cử công khai và trung thực, có sự tham gia
của phụ nữ, là nước đầu tiên xem xét lại bộ luật lao động để nâng cao tỉ lệ
người có việc làm trong dân chúng và giảm sự phụ thuộc vào dầu khí. Xin nói
thêm là Bahrain là nước sẽ hết dầu mỏ trước các nước vùng Vịnh khác. Cũng chính
Bahrain là nước vùng Vịnh đầu tiên kí hiệp định thương mại tự do với Mĩ. Tôi tự
hỏi: “Chả lẽ đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên?”. Cuối cùng, khi nghiên
cứu tình hình trong thế giới Arab và quan sát cách những người dân chủ Libanon
đòi quân đội Syria rút về nước, tôi lại tự hỏi: “Có phải là sự trùng hợp vô
tình không khi đất nước dân chủ duy nhất trong thế giới Arab lại là nước không
có một giọt dầu nào?”
Càng suy nghĩ về những vấn đề đó tôi càng nhận thức
được sự tồn tại của mối quan hệ, một mối quan hệ trực tiếp, có thể tính toán và
phân tích được, giữa giá dầu mỏ và tốc độ, mức độ và sự ổn định của quá trình
mở rộng hay thu hẹp của những quyền tự do chính trị và tự do kinh tế tại những
nước nhất định. Mấy tháng trước, tôi đã đề nghị với ban biên tập tạp chí Foreign
Policy thử thể hiện những dự đoán mang tính trực cảm của tôi dưới dạng
đồ thị. Trên một trục là giá dầu trung bình của thế giới và trục kia là việc mở
rộng hay thu hẹp các quyền tự do kinh tế và chính trị, được chuyển thành đơn vị
đo lường theo phương pháp của các tổ chức khoa học phù hợp, thí dụ của tổ chức
Freedom House. Tôi đề nghị lấy các thông số như tính chất của các cuộc bầu cử,
việc mở hay đóng cửa các tờ báo, số lượng các vụ bắt người một cách tùy tiện,
số lượng các nhà cải cách được bầu vào quốc hội, việc thực hiện hay đóng băng
các cải cách kinh tế, tư nhân hoá hay quốc hữu hoá các công ty, v.v…
Tôi xin nói ngay rằng thí nghiệm của chúng tôi không
thể coi là tuyệt vời về mặt khoa học vì sự thăng giáng của tự do kinh tế và tự
do chính trị trong một xã hội không thể cân đong đo đếm chính xác được, chúng
cũng không có tính chu kì hoàn hảo. Nhưng nhiệm vụ của tôi không phải là bảo vệ
luận án mà chỉ là kiểm tra một giả thuyết, là khuyến khích các cuộc thảo luận;
tôi cho rằng việc phân tích quan hệ giữa giá dầu và sự thăng giáng của quá
trình dân chủ hoá, dù có một số thiếu sót về phương pháp luận, cũng không phải
là việc làm vô ích. Vì trong tương lai gần, việc tăng giá dầu sẽ trở thành tác
nhân quyết định trong các mối quan hệ quốc tế, cần phải hiểu nó tác động như
thế nào và bằng cách nào đến tính chất và xu hướng của nền chính trị thế giới.
Xin ghi nhận: Đồ thị do chúng tôi lập chứng tỏ mối liên hệ trực tiếp giữa giá
dầu và sự thăng giáng của quá trình truyền bá tự do, mối liên hệ rõ ràng đến
nỗi tôi muốn được đề nghị thảo luận qui luật thứ nhất của nền chính trị dựa
trên dầu lửa do tôi phát kiến.
Qui luật đó như sau: Mức độ tự do của các quốc gia dầu
mỏ tỉ lệ nghịch với giá dầu. Theo qui luật thứ nhất của nền chính trị dựa trên
dầu mỏ thì giá dầu trung bình thế giới càng cao, tự do ngôn luận, tự do báo
chí, các thiết chế về bầu cử tự do và trung thực, tinh thần thượng tôn pháp
luật, sự độc lập của toà án và các đảng phái chính trị càng mờ nhạt. Xu hướng
tiêu cực này càng bị khoét sâu thêm bởi tác nhân sau đây: giá dầu càng cao thì
lãnh tụ các quốc gia dầu hoả càng quay lưng lại với dư luận của cộng đồng quốc
tế. Ngược lại, theo qui luật này thì giá dầu càng thấp, các quốc gia dầu mỏ
càng phải tiến gần đến thể chế chính trị minh bạch hơn, càng phải lắng nghe ý
kiến của phe đối lập hơn, càng phải chú ý thiết lập các hệ thống chính trị và
giáo dục cho phép các công dân của họ (cả đàn ông lẫn đàn bà) có cơ hội cạnh
tranh, kinh doanh và thu hút đầu tư nước ngoài một cách tối đa. Giá dầu càng
thấp thì lãnh tụ các quốc gia dầu mỏ càng nhạy cảm với dư luận của cộng đồng
quốc tế.
“Các quốc gia dầu mỏ” là thuật ngữ để chỉ các quốc gia
không chỉ nhận được phần lớn thu nhập quốc dân nhờ vào việc khai thác và xuất
khẩu dầu mỏ mà còn có các thiết chế nhà nước yếu kém và thể chế chính trị độc
đoán. Chắc chắn tôi sẽ đưa những nước sau đây vào danh sách đó: Azerbaizhan,
Angola, Venezuela, Ai Cập, Iran, Kazakstan, Nigeria, Nga, Saudi Arabia, Sudan,
Uzbekistan, Chad và Ginea Xích đạo. (Các nước có trữ lượng dầu khí lớn nhưng đã
thiết lập được thể chế nhà nước vững mạnh với các thiết chế dân chủ bền vững và
một nền kinh tế đa dạng như Anh, Na Uy, Mĩ không chịu tác động của qui luật thứ
nhất của nền chính trị dựa trên dầu dầu khí).
Tất nhiên là các nhà khoa học đã chỉ rõ những hậu quả
nghiêm trọng về chính trị và kinh tế mà các nước giàu tài nguyên có thể gặp từ
khá lâu rồi. Hiện tượng này được gọi là “căn bệnh Hà Lan” hay “sự nguyền rủa
của tài nguyên”. Thuật ngữ “căn bệnh Hà Lan” là để chỉ quá trình suy sụp của
ngành công nghiệp, hậu quả của những khoản thu nhập to lớn bất thình lình đổ về
từ việc xuất khẩu nguyên liệu.
Lần đầu tiên khái niệm “căn bệnh Hà Lan” được phát
biểu vào những năm 1960, khi người ta phát hiện được những mỏ khí đốt với trữ
lượng lớn ở đất nước này. Tại các nước bị “bệnh Hà Lan”, đồng nội tệ tự nhiên
tăng giá đột ngột vì nguồn ngoại tệ chảy vào từ việc bán dầu hoả, vàng, khí
đốt, kim cương hay các nguồn nguyên liệu khác. Kết quả là: hàng công nghiệp
xuất khẩu không còn khả năng cạnh tranh còn hàng nhập khẩu thì xuống giá trông
thấy. Người dân rủng rỉnh tiền trong túi, bắt đầu đổ xô đi mua hàng nhập khẩu,
nền công nghiệp trong nước chết yểu - đấy chính là quá trình suy sụp của nền
công nghiệp. Thuật ngữ “sự nguyền rủa của tài nguyên” nói về quá trình này,
cũng như nói về sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên có ảnh hưởng đến đời sống
chính trị của đất nước, ảnh hưởng đến những ưu tiên về đầu tư và ưu tiên trong
lĩnh vực giáo dục. Vấn đề lúc đó sẽ là ai kiểm soát “van dầu” và ai được chia
bao nhiêu phần của cái bánh chứ không phải là làm thế nào để bảo đảm được khả
năng cạnh tranh hữu hiệu, sáng kiến và sản xuất ra hàng hoá thực cho nhu cầu
tiêu thụ thực.
Bên cạnh các lí thuyết đó, các nhà chính trị học còn
nghiên cứu những vấn đề cụ thể hơn về ảnh hưởng tiêu cực của trữ lượng dầu mỏ
đối với quá trình dân chủ hoá. Một trong những nghiên cứu sâu sắc nhất về vấn
đề này mà tôi được đọc là của Michael L. Ross, nhà chính trị học của đại học
California (Los Angeles). Sau khi nghiên cứu số liệu thống kê của 113 nước
trong giai đoạn từ 1971 đến1997, Ross rút ra kết luận: “Nói chung, quá chú ý
đến việc xuất khẩu dầu mỏ và các khoáng sản khác là một trở ngại đối với tiến
trình dân chủ hoá đất nước nhưng việc xuất khẩu các hàng hoá khác lại không có
hiệu ứng như thế; hiện tượng này được tìm thấy không chỉ ở bán đảo Arab, Trung
Đông và phía Nam sa mạc Sahara mà còn xảy ra ở cả các nước nhỏ nữa”.
Theo tôi, điều đặc biệt có giá trị trong nghiên cứu
của Ross là danh mục các cơ chế tác động tiêu cực của thu nhập quá nhiều từ dầu
mỏ đối với tiến trình dân chủ hoá. Trước hết, đấy là “hiệu ứng thuế”: chính phủ
các nước có nhiều dầu mỏ thường sử dụng các khoản thu nhập vào việc làm “giảm
căng thẳng xã hội, nếu không có những khoản đó thì dân chúng nhất định sẽ đòi
chính quyền phải có trách nhiệm báo cáo” với xã hội hoặc phải đưa thêm đại diện
của dân chúng vào các cơ quan quyền lực. Nếu là tôi, tôi sẽ viết luận điểm ấy
như sau: một trong những khẩu hiệu của cuộc Cách mạng Mĩ là: “Không đóng thuế
nếu không có đại diện”. Các nhà cầm quyền độc tài của những quốc gia dầu mỏ lộn
ngược khẩu hiệu này thành: “không phải đóng thuế thì không có đại diện”. Để giữ
vững chế độ hiện hành, các nhà cầm quyền của các quốc gia dầu mỏ không cần bắt
dân đóng thuế, họ lấy thu nhập từ dầu khí để bù vào khoản thiếu hụt đó, nhưng
như vậy nghĩa là họ cũng không cần nghe ý kiến nhân dân, không đại diện cho
quyền lợi của nhân dân.
Ross gọi cơ chế tác động thứ hai của dầu mỏ lên tiến
trình dân chủ hoá là “hiệu ứng chi tiêu quốc gia”. Thu nhập từ dầu mỏ tạo cho
chính phủ khả năng tăng các khoản “bao cấp” và bằng cách đó giảm được áp lực
dân chủ hoá. Cơ chế tác động thứ ba là “hiệu ứng nhóm xã hội”. Các chế độ độc
tài rủng rỉnh ngoại tệ thu được từ bán dầu có thể dùng tiền để gây khó khăn cho
quá trình hình thành các tổ chức xã hội độc lập; các nhóm này thường hoạt động
tích cực nhất trong việc đòi hỏi quyền lợi về chính trị. Ngoài ra, Ross còn khẳng
định rằng các khoản thu vượt trội từ dầu hoả còn dẫn đến “hiệu ứng đàn áp”,
nghĩa là, chính quyền có thể thoải mái chi tiền cho cảnh sát và các lực lượng
đặc biệt khác nhằm đàn áp các phong trào dân chủ. Cuối cùng, còn một tác động
nữa mà Ross gọi là “hiệu ứng chống hiện đại hoá”. Tiền thu được từ bán dầu có
thể làm giảm đi động lực trau dồi nghề nghiệp, nâng cao trình độ học vấn, đô
thị hoá, nghĩa là các xu hướng đồng hành với tiến bộ kinh tế và nâng cao ý thức
của người dân, nâng cao khả năng tự tổ chức, khả năng đưa ra những đòi hỏi tập
thể và phối hợp hành động, cũng như gây khó khăn cho việc tạo ra trong xã hội
những trung tâm kinh tế độc lập với chính quyền.
Qui luật thứ nhất của nền chính trị dựa trên dầu mỏ
được rút ra từ những luận điểm đó, nhưng qui luật này còn giúp ta hiểu được
tương tác giữa dầu mỏ và các tiến trình chính trị nữa. Tôi phát biểu qui luật
đó là để khẳng định điều sau đây: sự phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ không chỉ
tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước nói chung; có một mối liên hệ
trực tiếp giữa sự thăng giáng của giá dầu mỏ với sự thăng giáng của tiến trình
dân chủ hoá của các quốc gia dầu mỏ. Mối liên hệ này là một thực tế. Các đồ thị
mà chúng tôi lập ra chứng tỏ: chỉ cần giá dầu tăng lên một cách tương đối cao
là tiến trình dân chủ hoá lập tức bị chậm lại.
Trục dầu mỏ?
Lí do để chúng ta phải quan tâm đến mối liên hệ giữa
giá dầu mỏ và tốc độ truyền bá tự do là vì có vẻ như chúng ta đang chứng kiến
giai đoạn khởi đầu của quá trình tăng giá dầu trên toàn thế giới. Nếu điều đó
thực sự xảy ra, mức giá dầu mỏ cao hơn chắc chắn sẽ có những tác động dài hạn
đối với chính sách của các chính phủ yếu và các chính phủ độc tài. Đến lượt nó,
điều này có thể sẽ cải biến thế giới theo hướng không phải là tốt nhất, như
chúng ta từng thấy sau chiến tranh lạnh. Nói một cách khác, không chỉ Bộ trưởng
bộ Tài chính Mĩ mà cả Bộ trưởng Ngoại giao cũng phải thường xuyên quan tâm đến
sự thăng giáng của giá dầu.
Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, giá dầu thế giới tăng
vọt từ 20-40$ lên 40-60$ một thùng. Nguyên nhân của việc tăng giá một phần là
do cảm giác bất an vì những vụ bùng phát bạo lực ở Iraq, Nigeria, Indonesia,
Sudan. Nhưng đấy chủ yếu là do hiện tượng mà tôi gọi là “quá trình làm phẳng
thế giới” và việc tham gia vào thị trường thế giới của 3 tỉ người tiêu dùng từ
Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và đế quốc Nga Xô cũ, tất cả những người đó đều mơ có
nhà ở, có ô tô, có tủ lạnh và lò viba. Nhu cầu nhiên liệu của họ thật lớn và
ngày càng tăng lên. Họ đã và tiếp tục gây áp lực lên giá dầu. Nếu phương Tây
không có những biện pháp triệt để về việc bảo đảm nguồn khai thác và nếu không
tìm được nguồn nhiên liệu thay thế thì trong tương lai gần giá dầu sẽ giữ ở mức
40-60$, mà có thể còn cao hơn.
Từ quan điểm chính trị, điều đó có nghĩa là một loạt
quốc gia dầu mỏ với các thiết chế chính trị yếu kém hoặc có các chính phủ độc
tài chắc chắn sẽ phải đối đầu với việc đánh mất tự do, đối đầu với tệ tham
nhũng ngày một gia tăng cũng như sẽ phải chứng kiến các hành động độc tài, phi
dân chủ của nhà cầm quyền. Lãnh tụ của các nước đó hoàn toàn có thể hi vọng vào
sự gia tăng đáng kể thu nhập từ dầu mỏ, tiền sẽ giúp họ tăng cường lực lượng vũ
trang, mua chuộc các nhà bất đồng chính kiến, mua phiếu của cử tri hay mua sự
ủng hộ của xã hội và coi thường các tiêu chuẩn và trật tự quốc tế. Chỉ cần đọc
bất kì tờ báo nào, trong bất kì ngày nào, ta cũng thấy sự hiện diện của xu
hướng đó.
Lấy thí dụ bài đăng trong tháng 2 năm 2005 trên
báo Wall Street Journal kể lại chuyện các giáo chủ ở Tehran đã
nhận được nhiều tiền từ việc dầu tăng giá đến nỗi họ cho các nhà đầu tư nước
ngoài “đằng sau quay” thay vì trải thảm đỏ mời họ vào. Bài báo có nói đến hãng
điện thoại di động của Thổ Nhĩ Kì là Turkcell đã kí hợp đồng với Iran về việc
thành lập công ty điện thoại di động đầu tiên tại nước này. Vụ làm ăn thật hấp
dẫn: công ty đồng ý trả cho Iran 300 triệu dollar để được cấp phép thành lập xí
nghiệp với vốn đầu tư 2,25 tỉ dollar và sẽ tạo ra 20 ngàn việc làm cho người
Iran. Nhưng các giáo chủ trong quốc hội đã tìm cách đóng băng hợp đồng, họ viện
cớ rằng các gián điệp nước ngoài sẽ lợi dụng mạng di động. Ali Ansari, một
chuyên gia về Iran thuộc trường đại học Saint-Andrew (Scotland) kể với chúng
tôi rằng các nhà phân tích Iran kêu gọi cải tổ kinh tế cả chục năm qua. “Nhưng
tình hình ngày càng xấu đi”, Ali nói, “Họ đã nhận được tiền từ dầu mỏ và không
cần cải cách kinh tế gì hết.”
Còn bài báo nói nữa về Iran trên tờ Economist ngày
11 tháng 2 năm 2006: “Khi bụng đã no thì người ta cũng dễ say mê tinh thần dân
tộc lắm, Tổng thống Ahmadinejad là người gặp may hiếm có, ông ta tin rằng năm
nay thu nhập từ dầu mỏ sẽ là 36 tỉ dollar, nhờ đó ông ta có thể mua được lòng
trung thành của nhân dân. Trong dự thảo ngân sách đang được quốc hội xem xét,
chính phủ đã hứa sẽ xây dựng 300 ngàn ngôi nhà mà hai phần ba trong số đó nắm ở
bên ngoài các thành phố lớn và giữ nguyên mức bao cấp về nhiên liệu, riêng
khoản này đã chiếm 10% tổng sản phẩm quốc nội rồi!”
Hay trường hợp Nigeria. Nước này qui định tổng thống
chỉ được nắm quyền tối đa là hai nhiệm kì, mỗi nhiệm kì 4 năm. Olusegun
Obasanjo được bầu năm 1999, sau giai đoạn cầm quyền của các quân nhân và sau đó
được tái cử trong cuộc phổ thông đầu phiếu vào năm 2003. Ông ta đã giành được
sự ủng hộ trên khắp thế giới vì đã cho tiến hành điều tra các vụ vi phạm nhân
quyền của các tướng lĩnh Nigeria, đã thả các tù chính trị và những cố gắng
trong việc loại bỏ tệ tham nhũng. Lúc đó, giá dầu là 25$ một thùng. Hôm nay,
khi giá dầu là 60$ một thùng, Obasanjo cố gắng thuyết phục quốc hội thay đổi
hiến pháp để ông ta có thể cầm quyền thêm nhiệm kì thứ ba nữa. Wunmi Bewaji,
một trong các lãnh tụ đối lập, cho biết các nhà làm luật đã được đề nghị khoản
hối lộ là 1 triệu dollar nếu họ đồng ý thông qua tu chính hiến pháp. “Hiện nay
người ta đề nghị 1 triệu dollar một phiếu”, VOA News đã dẫn
lại trong một bài viết đề ngày 11 tháng 3 năm 2006 như thế. “Chính các quan
chức cao cấp tại Thượng và Hạ viện phối hợp làm việc đó”.
Clement Nwankwo, một trong những người tranh đấu vì
công lí ở Nigeria, trong lần đến thăm Washington vào tháng 3 vừa qua, đã kể cho
tôi nghe rằng: ngay khi giá dầu tăng, “các quyền tự do lập tức bị phương hại
nghiêm trọng, việc bắt người diễn ra một cách rất tùy tiện, nhiều nhân vật đối
lập bị giết, các thiết chế dân chủ bị ngưng hoạt động”. Dầu chiếm 90% xuất khẩu
của Nigeria, ông nói thêm, điều đó phần nào giải thích việc tăng một cách đột
biến số vụ bắt cóc người nước nước ngoài tại thung lũng có nhiều mỏ dầu là
Niger. Nhiều người Nigeria tin rằng người nước ngoài ăn cắp “vàng đen” của họ
vì quần chúng gần như không nhìn thấy bất kì thu nhập nào cả.
Trong các quốc gia dầu mỏ, thường không chỉ toàn bộ
nền chính trị xoay vần quanh việc kiểm soát đường ống mà việc nhận thức tình
hình trong xã hội cũng bị méo mó. Nếu dân chúng nghèo mà quan chức giàu thì đấy
không phải là chính phủ không thể mở rộng giáo dục, sáng kiến, thượng tôn pháp
luật và tinh thần kinh doanh. Đấy là do một số người nhận được tiền từ dầu mỏ,
còn họ thì không. Dân chúng bắt đầu nghĩ rằng muốn giàu thì phải loại bỏ những
người ăn cắp dầu, chứ không phải là xây dựng một xã hội biết đầu tư cho giáo
dục, tinh thần kinh doanh và sáng kiến. “Nếu Nigeria không có dầu mỏ thì phương
trình chính trị sẽ khác hẳn”, Nwankwo đã nói như thế. “Nếu dầu mỏ không bảo đảm
được thu nhập thì vấn đề đa dạng hoá nền kinh tế sẽ được đặt ra, doanh nghiệp
tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng hơn và dân chúng có thể phát triển khả năng
sáng tạo của mình”.
Trên thực tế, giá dầu và tốc độ truyền bá tự do có mối
liên hệ chặt chẽ đến nỗi ngay các nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng cũng có thể
đình hoãn các cuộc cải cách kinh tế và chính trị một khi giá dầu tăng đột ngột.
Xin nhớ lại trường hợp Bahrain, nước này biết rằng dầu mỏ của họ đang cạn kiệt
và trở thành một thí dụ điển hình về việc giảm thu nhập từ dầu mỏ có thể khuyến
khích công cuộc cải cách. Nhưng nước này cũng không đứng vững trước sức quyến
rũ của việc tăng giá dầu. “Mọi việc hiện nay đều tốt vì giá dầu tăng. Điều này
có thể tạo ra thói tự mãn cho các quan chức”, Jasim Husain Ali, trưởng phòng
nghiên cứu kinh tế của trường đại học tổng hợp Bahrain đã nói như thế trong bài
phỏng vấn của báo Gulf Daily News số ra gần đây. “Đấy là một
xu hướng nguy hiểm vì thu nhập từ dầu mỏ là không ổn định. Có thể là theo tiêu
chuẩn của vùng Vịnh thì Bahrain đã đa dạng hoá nền kinh tế nhưng theo tiêu
chuẩn quốc tế thì chưa”. Tôi không lấy làm ngạc nhiên khi một nhà báo trẻ ở
Tehran nói với tôi rằng: “Nếu chúng tôi không có dầu mỏ thì có thể chúng tôi đã
như Nhật rồi”.
Địa chất quan trọng hơn tư tưởng
Dù rất kinh trọng Ronald Reagan, tôi vẫn không tin
rằng ông ta đã tiêu diệt được Liên Xô. Liên Xô tan rã là do một loạt nguyên
nhân, nhưng chắc chắn rằng việc hạ giá dầu trên thị trường thế giới vào cuối
những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã đóng vai trò chủ chốt. (Giáng sinh năm
1991, Liên Xô chính thức thôi tồn tại, giá dầu lúc đó là 17$ một thùng.)
Việc giá dầu tiếp tục hạ đã buộc chính phủ hậu cộng
sản của Boris Yeltsin tuân thủ pháp luật và trật tự pháp lí, chứng tỏ sự cởi mở
hơn đối với thế giới bên ngoài, cũng như tỏ ra sẵn sàng xây dựng một hệ thống
lập pháp mà các nhà đầu tư quốc tế đòi hỏi.
Sau đó là Tổng thống Putin. Xin hãy suy nghĩ về những
thay đổi trong con người Putin trong giai đoạn khi mà giá dầu tăng vọt từ 20$
một thùng lên mức 60$ như ngày hôm nay.
Khi giá dầu ở mức 20-40$, ông là một tổng thống mà tôi
xin gọi là “Putin Một”. G. Bush, sau cuộc gặp lần đầu tiên vào năm 2001, đã nói
rằng ông nhìn thấy “tâm” Putin, rằng đây là một người có thể tin được. Nếu Bush
nhìn vào tâm Putin hôm nay, “Putin Hai”, “Putin – 60$ một thùng” thì ông sẽ
thấy tâm ông ta đen đến mức nào, đen như một chai dầu mỏ vậy.
Ông sẽ nhìn thấy rằng Putin đã lợi dụng số của cải như
tự trên trời rơi xuống để nuốt chửng (quốc hữu hoá) công ty dầu mỏ cực kì to
lớn của nước Nga, công ty Gazprom, hàng loạt tờ báo và đài truyền hình cũng như
các xí nghiệp và các định chế đã có thời tồn tại một cách độc lập.
Vào đầu những năm 1990, khi giá dầu còn thấp, ngay cả
các quốc gia dầu mỏ Arab như Kuweit, Saudi Arabia, Ai-Cập là những nước có
nguồn dự trữ khí rất lớn cũng đã nói đến cải cách kinh tế cũng như đã thực hiện
những bước đầu chập chững theo hướng cải cách chính trị. Nhưng ngay khi giá dầu
bắt đầu lên, toàn bộ quá trình cải tổ lập tức chậm lại, đặc biệt là trong lĩnh
vực chính trị.
Cùng với việc các quốc gia dầu mỏ ngày càng tích lũy
được thêm nhiều của cải, họ hoàn toàn có khả năng thay đổi toàn bộ hệ thống
quan hệ quốc tế và tính chất của cơ cấu quốc tế đã hình thành sau chiến tranh
lạnh.
Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, mọi người đều tin
tưởng sâu sắc rằng đây là khởi đầu của một tiến trình phát triển không thể đảo
ngược được của thị trường tự do và dân chủ hoá. Sự lan truyền trên khắp thế
giới những cuộc bầu cử tự do sau đó đã tạo ra cảm giác rằng tiến trình này là
một thực tế.
Nhưng hôm nay, tiến trình này gặp phải một làn sóng
của chủ nghĩa độc tài dầu mỏ, sinh ra từ giá dầu là 60$ một thùng. Bất thình
lình, các chế độ ở Iran, ở Nigeria, ở Nga và Venezuela bắt đầu ra khỏi tiến
trình dân chủ hoá tưởng như không thể nào ngăn chặn được. Tại những nước đó,
các nhà độc tài được toàn dân bầu lên sử dụng ngay những đồng dollar bất ngờ ập
xuống đầu họ để làm mỗi một việc là được tự do sử dụng quyền lực, mua trọn gói
những người bất đồng chính kiến và những ủng hộ viên, bóp cổ khu vực tư nhân.
Thế mà đã có lúc tưởng rằng tất cả những điều đó đã là
quá khứ. Làn sóng dân chủ hoá đi theo sau sự sụp đổ của bức tường Berlin đã gặp
phải làn sóng đen của chủ nghĩa độc tài dầu mỏ ngang sức ngang tài.
Mặc dù chủ nghĩa độc tài dầu mỏ không tạo ra mối đe
doạ về mặt tư tưởng và chiến lược to lớn đối với phương Tây như chủ nghĩa cộng
sản nhưng tác động lâu dài của cũng có khả năng phá vỡ sự ổn định trên thế
giới.
Một số chế độ đáng ghét nhất trên thế giới sẽ có thêm
phương tiện để làm những việc đen tối trong một thời gian dài nữa. Còn một số
nước có chế độ chính trị dân chủ nghiêm chỉnh như Nhật Bản và Ấn Độ sẽ phải quị
lụy trước các chế độ độc tài như Iran và Sudan và phải nhắm mắt trước các hành
động của các nước này vì bị phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ của các nước đó. Đối
với sự ổn định thế giới, việc đó sẽ chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả.
Xin nhấn mạnh một lần nữa điều sau đây. Tôi biết rằng
mối liên hệ mà những điều trình bày bên trên chỉ ra là không thật hoàn hảo và
nhiều độc giả có thể dẫn ra hàng loạt ngoại lệ. Nhưng tôi cho rằng, những
nguyên tắc nói tới bên trên thể hiện một xu hướng chung, được phản ánh trong
các bản tin thời sự hàng ngày: sự gia tăng giá dầu mỏ đã có ảnh hưởng tiêu cực
đến tốc độ truyền bá tự do tại nhiều quốc gia. Khi số lượng các nước với tác
động tiêu cực đủ lớn thì họ sẽ đầu độc nền chính trị thế giới.
Chúng ta không thể cản trở hay ủng hộ việc cung ứng
dầu mỏ vào bất kì nước nào, nhưng chúng ta có thể tác động lên giá dầu nếu
chúng ta khởi sự thay đổi số lượng và chủng loại năng lượng mà chúng ta tiêu
thụ. Khi nói “chúng ta”, tôi có ý nói đến cả nước Mĩ cũng như các nước nhập
khẩu dầu mỏ vì Mĩ tiêu thụ 25% năng lượng toàn cầu.
Suy tư về việc chúng ta sẽ làm gì để có thể thay đổi
cơ cấu năng lượng tiêu thụ nhằm góp phần hạ giá dầu mỏ không còn là công việc
và thú vui của các nhà bảo vệ môi trường hay vấn đề lương tâm của ai nữa. Hiện
nay, đây đã là vấn đề an ninh quốc gia.
Như vậy là các chương trình thăng tiến dân chủ của Mĩ
sẽ trở thành vô nghĩa và nhất định sẽ thất bại nếu không bao gồm các kế hoạch
thông minh và dài hạn về việc tìm các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ và làm
giảm giá dầu.Hôm nay, điều quan trọng không phải là bạn ủng hộ chính sách đối
ngoại nào. Tất cả và từng người chúng ta phải chấp nhận thế giới quan của “hoà
bình xanh”. Không thể trở thành người thực tế trong chính sách đối ngoại và người
bảo vệ dân chủ hữu hiệu nếu không đồng thời là người bảo vệ môi trường và suy
nghĩ về việc sử dụng có hiệu quả nguồn năng lượng.
Bạn muốn biết thêm?
Những ai quan tâm đến vấn đề liên hệ giữa nguồn lợi
dầu mỏ và sự phát triển của các hệ thống chính trị xin đọc bài viết Michael L.
Ross, “Does oil Hinder Democracy?”, trên tờ World Politics số
tháng 4 năm 2001. Còn Richard M. Auty trong tác phẩm Sustaining
Development in Mineral Economies: The Resource Curse Thesis, xuất bản
năm1993, New York: Routledge, đưa ra lí giải tại sao các nước giàu tài nguyên
khoáng sản thường không phát triển được. Jeffrey D. Sachs và Andrew M. Warner
cụ thể hoá các luận điểm này trong tác phẩm Natural Resource Abundance
and Economic Growth, Washington: National Bureau of Economic Research,
1995. Nhà chính trị học Javier Corrales chứng minh giá dầu cao góp phần củng cố
vị trí của các nhà độc tài hiện đại trong bài báo “Hugo Boss” trên tờ Foreign
Policy số tháng 1-2 năm 2006. Moises Nairn trong bài “Globoquiz: Guess
the Leader”, đăng trên tờ Newsweek International ra ngày 1
tháng 12 năm 2004 so sánh sự giống nhau đến kinh ngạc giữa Hugo Chavez và
Vladimir Putin, và sự giống nahu đó đều do dầu hoả mà ra. Trong một bài báo
khác trên tờ Foreign Policy số tháng 1-2 năm 2004, tác giả này
phân tích sự dịch chuyển của Moskva về phía các quốc gia dầu hoả.
Nguồn:http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8097&rb=0402