Phan Thành Đạt
Je désapprouve
ce que vous dites mais je défendrai jusqu’à la mort votre droit de le dire.
(Tôi không tán
thành những gì anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến cùng quyền được nói của anh).
Tự do ngôn luận
là quyền con người quan trọng bậc nhất. Các nhà luật học xếp tự do ngôn luận,
quyền được sống, quyền tự do đi lại, quyền được tôn trọng phẩm giá thuộc các
quyền tự nhiên thuộc thế hệ thứ nhất trong số các quyền cơ bản cần được bảo vệ.
Tự do ngôn luận là quyền được nói và viết ra những suy nghĩ của mình mà không sợ
bị ngăn cấm hay trừng phạt. Tự do ngôn luận chính là nhịp thở của nền dân chủ.
Tự
do ngôn luận thời văn minh Hy Lạp cổ phản ánh quyền được tham gia vào các buổi
thảo luận về chính trị, xã hội của các công dân Athènes ngay từ thế kỉ thứ IV
trước công nguyên. Họ bàn luận về các công việc của thành bang, thảo luận về nội
dung các điều luật. Sau đó, họ tiến hành bỏ phiếu. Tuy nhiên, tự do ngôn luận ở
Athènes chỉ dành cho một số người được gọi là công dân. Những nhóm người khác
trong xã hội như phụ nữ, nô lệ và những người nhập cư không được hưởng quyền
này.
Để đánh giá chế
độ chính trị dân chủ hay độc tài, chúng ta chỉ cần quan sát mức độ tự do báo
chí của các nước. Nếu báo chí bị kiểm soát chặt chẽ và đồng thời trở thành công
cụ tuyên truyền của nhà cầm quyền, nhất định đó là một Nhà nước không tôn trọng
tự do ngôn luận và Nhà nước đó không theo chế độ dân chủ. Nếu đó là Nhà nước có
báo chí tư nhân độc lập, các nguồn thông tin phong phú, công dân có quyền lựa
chọn và tiếp cận thông tin dễ dàng, đó sẽ là Nhà nước dân chủ. Albert Camus cho
rằng báo chí là tiêu chí đầu tiên để đánh giá về mức độ dân chủ. Chế độ dân chủ
sẽ có báo chí tự do. Các tờ báo có chất lượng tốt hay chất lượng kém sẽ cùng
song song tồn tại, còn ở Nhà nước thiếu dân chủ, chỉ có báo chí dở.
Các nhà độc tài
luôn luôn sợ tự do ngôn luận vì quyền lực thứ tư này có thể lật đổ chế độ chính
trị của họ. Bằng mọi cách, họ khống chế các phương tiện thông tin, các tin tức
được đài báo đưa ra bị kiểm soát chặt chẽ. Thông tin phải có lợi cho nhà cầm
quyền để đảm bảo quyền thống trị cũng như những lợi ích kính tế của họ, vì thế
báo chí luôn tuân theo định hướng và phục tùng tầng lớp lãnh đạo. Báo chí góp
phần duy trì quyền lực lâu dài của giai cấp thống trị và kìm hãm sự phát triển
của xã hội.
Con người sống
trong xã hội thiếu thông tin sẽ không có khả năng phát triển tài năng, khả năng
sáng tạo của họ dễ bị thui chột. Khi Nhà nước càng bưng bít thông tin, càng đề
cao nhiệm vụ tuyên truyền, con người sẽ đánh mất tư duy độc lập vì khả năng
phân tích và suy đoán của mỗi người sẽ kém dần và khi đó họ dễ dàng bị sai khiến,
bị phục tùng vô điều kiện. Chế độ độc tài đã điều khiển và kiểm soát được suy
nghĩ của con người vì họ không còn không gian tự do trong trí não nữa.
Bắc Triều Tiên
là ví dụ tiêu biểu khi bàn về những hậu quả nghiêm trọng của chính sách tuyên
truyền trong hơn 6 thập kỉ ở nước này: Đài truyền hình và báo chí của Nhà nước
thông tin rằng Kim Nhật Thành là người sáng lập ra nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Triều Tiên. Ông là mặt trời vĩnh cửu, là người sáng lập ra thuyết tự chủ.
Cũng theo các phương tiện truyền thông của Nhà nước, khi ông ra đời, trên bầu
trời xuất hiện một đàn hạc, khe núi tự nhiên nứt ra, một dòng suối xuất hiện,
hoa nở khắp nơi. Khi ông qua đời, cũng xuất hiện một đàn hạc đến đậu quanh mộ của
ông suốt mấy ngày đêm. Khi tuyên truyền về lãnh tụ Kim Chính Nhật, báo chí viết
ông là nhà quân sự đại tài, ngay từ lúc 6 tuổi, ông đã quan tâm về chiến lược
quân sự. Ông sinh ra trong một túp lều trên núi thiêng Paetku, ngọn núi cao nhất
Triều Tiên, vào ngày sinh của ông, trên bầu trời xuất hiện hai cầu vồng rực rỡ
và một ngôi sao sáng...Trong thực tế, theo các tài liệu của Liên bang Xô viết,
Kim Chính Nhật sinh ra trong một túp lều ở Sibérie. Lúc đó cha ông là lãnh đạo
một nhóm quân du kích cộng sản. Hậu quả của tất cả những chính sách tuyên truyền
dối trá qua nhiều năm tháng khiến cho người dân Bắc Triều Tiên mất đi suy nghĩ
độc lập, họ luôn sùng bái lãnh tụ: Khi một đoàn các bác sĩ làm việc cho một tổ
chức phi chính phủ đến Bắc Triều Tiên để phẫu thuật đục thủy tinh thể cho người
dân. Phóng viên đã phỏng vấn một cụ già sau khi mổ mắt. Điều đầu tiên cụ già cảm
ơn các lãnh tụ Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật đã cho mình nhìn thấy ánh sáng.
Cụ già chỉ mơ ước được gặp lãnh tụ Kim Chính Nhật trước khi chết.
Tự do ngôn luận
gắn liền với tự do về tư tưởng, tự do truyền bá thông tin và tự do biểu đạt những
tình cảm của mình về các vấn đề chính trị xã hội: Biểu tình, tham gia bỏ phiếu,
chất vấn các nhà lãnh đạo, hay tìm kiếm, phổ biến các nguồn thông tin trên mạng
internet cũng là những cách biểu hiện của tự do ngôn luận. Tự do ngôn luận là
điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của chế độ dân chủ (I), vì quyền cơ bản này
đảm bảo cho xã hội phát triển đem lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, tự do
ngôn luận không có giá trị tuyệt đối vì quyền này có những giới hạn do pháp luật
quy định (II). Mỗi người cần phải tôn trọng những ranh giới đó.
I. Tự do ngôn luận,
nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ
Hiến pháp của
các nước luôn đề cao tự do ngôn luận. Mỗi người đều có quyền nói và viết ra
quan điểm của mình trong khuôn khổ của luật pháp. Nhà nước bảo vệ tự do ngôn luận
của công dân thông qua Hiến pháp và các văn bản quốc tế (A). Tuy nhiên giữa văn
bản và thực tế luôn có những điểm khác biệt. Tự do ngôn luận luôn là quyền quan
trọng vì nó đảm bảo lợi ích cho con người và xã hội (B).
A. Tự
do ngôn luận, quyền cơ bản được Hiến pháp và các công ước quốc tế bảo vệ
Các bản Hiến
pháp dân chủ đều có những điều khoản bảo vệ tự do ngôn luận. Các nhà lập hiến ý
thức được tầm quan trọng của quyền này. Họ hiểu rằng tự do ngôn luận chính là tấm
gương phản chiếu các vấn đề chính trị xã hội, giúp người dân hiểu được chế độ
chính trị nơi mình đang sống. Từ đó, họ sẽ có những phản ứng làm thay đổi tình
hình theo chiều hướng tích cực. "Tự do ngôn luận, tự do báo chí
góp phần xây dựng một xã hội dân chủ và con người được sống tự do trong xã hội
đó" (Florent Sogni Zaou, nhà báo thuộc ủy ban báo chí tự do
Côngô). Chính vì vậy, Hiến pháp có nhiệm vụ trước tiên là bảo vệ quyền con người,
trong đó tự do ngôn luận là một trong những quyền được chú ý nhất.
Hiến pháp Mỹ
1787 được bổ sung mười điều quan trọng về quyền con người. Các điều này đã được
Nghị viện phê chuẩn vào ngày 15 tháng 12 năm 1791. Điều bổ sung thứ nhất trong
số mười điều có nhiệm vụ bảo vệ tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và quyền biểu
tình. Điều này quy định Thượng viện và Hạ viện sẽ không ban hành bất cứ đạo luật
nào gây ảnh hưởng hay ngăn cấm tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Công dân có quyền biểu tình ôn hòa và tiến hành gửi các bản kiến nghị đề nghị
Nhà nước sửa chữa những sai trái có thể gây thiệt hại cho họ. Sau vụ khủng bố
ngày 11 tháng 9, luật Patriot act ban hành năm 2001 cho phép Nhà nước giới hạn
các quyền tự do của công dân trong những tình huống đặc biệt nhằm bảo vệ trật tự
xã hội và phòng chống các nguy cơ khủng bố. Luật này có những mâu thuẫn với điều
bổ sung thứ nhất của Hiến pháp 1787, vì Nhà nước có thể lợi dụng để vi phạm các
quyền công dân bằng cách theo dõi, bắt bớ, hạn chế tự do ngôn luận, tự do đi lại.
Do đó, cần áp dụng luật này ở mức độ hạn chế và phải có quyết định của tòa án.
Điều 11 Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 có nội dung khái quát nhưng đầy đủ về tự do
ngôn luận. Điều này khẳng định tự do về tư tưởng và tự do bày tỏ các ý kiến là
một trong những quyền quý giá nhất của con người. Công dân có quyền nói viết,
phổ biến tự do các ý kiến của mình, trừ trường hợp lạm dụng quyền tự do ngôn luận
bị pháp luật ngăn cấm. Quyết định số 2009-580 của Hội đồng Hiến pháp Pháp ngày
10 tháng 6 năm 2009 công nhận điều 11 áp dụng cho cả tự do tìm kiếm và truyền
bá thông tin trên mạng internet vì bối cảnh hiện nay, trao đổi và phổ biến tin
tức trên mạng đóng vai trò quan trọng góp phần xây dựng xã hội dân chủ, vì thế
quyền bày tỏ ý kiến và truyền bá thông tin trên mạng được Hiến pháp bảo vệ.
Điều 21 Hiến
pháp Ý năm 1947 ghi nhận mỗi công dân có quyền thể hiện tự do quan điểm, trình
bày suy nghĩ của mình bằng phát ngôn, viết hay bằng các hình thức khác. Báo chí
được tự do và không bị kiểm duyệt. Những hạn chế về tự do ngôn luận do luật
pháp quy định. Các tài liệu, các tác phẩm văn học nghệ thuật trái với các giá
trị đạo đức sẽ bị ngăn cấm theo quy định của luật pháp.
Tuyên ngôn nhân
quyền năm 1948 trong điều 19 công nhận công dân có quyền tự do bày tỏ ý kiến,
và không phải lo lắng về các ý kiến được thể hiện. Tự do ngôn luận gắn với việc
đón nhận, phổ biến và tìm kiếm thông tin dưới bất kì hình thức nào, và không có
ranh giới về thông tin. Điều 10, Công ước về quyền con người của Hội đồng Châu
Âu được 48 nước kí nhận cũng bảo vệ tự do ngôn luận. Tòa án về quyền con người
của Hội đồng Châu Âu đã ra nhiều phán quyết quan trọng bảo vệ tự do ngôn luận
được điều 10 quy định: Phán quyết có tên Fressoz et Roire c. France, ngày 21
tháng 11 năm 1999, Tòa án về quyền con người đánh giá : "Tự do
ngôn luận không chỉ gắn liền với những thông tin hay ý tưởng tích cực được con
người đón nhận vui vẻ vì đó là những thông tin không mang tích chỉ trích và
không gây bất lợi. Tự do ngôn luận còn thể hiện qua các thông tin gây lo lắng,
gây sốc, đụng chạm đến nhiều vấn đề bởi vì tự do ngôn luận thể hiện sự đa dạng
các nguồn thông tin, cùng với sự cảm thông và trí tuệ rộng mở, không có những
điều ấy, đó không phải là xã hội dân chủ".
Tự do ngôn luận
góp phần hoàn thiện con người, giúp con người phát huy được tài năng và sức
sáng tạo khi họ may mắn được sống trong chế độ dân chủ. Tự do ngôn luận thúc đẩy
xã hội phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Con người biết tôn trọng sự thật và
hành động theo những giá trị chuẩn mực của một chế độ chính trị dân chủ, văn
minh.
B. Tự do ngôn luận
bảo đảm lợi ích cho con người và xã hội
Có nhiều lí do để
bảo vệ và cổ vũ cho tự do ngôn luận vì nếu công dân có cơ hội được sống trong một
xã hội tự do, sức sáng tạo và khả năng tiếp cận các nguồn thông tin sẽ tốt hơn
so với những người phải sống trong một xã hội khép kín, nơi thông tin bị kiểm
soát chặt chẽ. Con người sẽ có nhiều cơ hội học hỏi để hoàn thiện bản thân
trong môi trường dân chủ. Trình độ hiểu biết và khả năng phân tích sâu sắc các
vấn đề chính trị xã hội là cơ sở để mỗi người phát huy tối đa tài năng của
mình, nhờ đó đóng góp của họ cho xã hội sẽ lớn hơn.
Tự do ngôn luận
là có sở không thể thiếu được giúp con người tìm kiếm sự thật và nâng cao kiến
thức, vì nhờ tiếp cận nhiều nguồn thông tin, con người sẽ đối chiếu và rút ra
được những thông tin chính xác, có cơ sở. Từ đó, mỗi người sẽ đưa ra kết luận
đúng đắn về một vấn đề nghi vấn, hay về một sự kiện lịch sử bị che giấu lâu
ngày. Sự thật là nền tảng đầu tiên cho các giá trị chân thiện mĩ. Sự thật cũng
là cơ sở cho một xã hội ổn định hay một chế độ chính trị tồn tại phát triển lâu
dài. Vì dối trá có thể ru ngủ con người được một thời gian, một thế hệ có thể
tin và nghe theo những điều sai trái, nhưng về lâu dài, sự thật sẽ lại ngự trị
trong xã hội. Con người luôn khao khát tìm hiểu các nguồn thông tin, nhất là những
thông tin đáng ngờ, càng cấm đoán, càng che giấu, con người lại càng muốn tìm
hiểu để biết sự thật. Trong Kinh Thánh, Jésus có lần nói với những người Do
Thái:"Nếu các ngươi tin lời ta, các người sẽ thực sự là những môn đệ của
ta, các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho các ngươi".
Nhờ có tự do
ngôn luận thông qua các phương tiện báo chí, con người tham gia vào các sự kiện
chính trị xã hội. Các tổ chức hội đoàn của xã hội dân sự có quyền chất vấn, kiến
nghị, gây sức ép với nhà cầm quyền, buộc họ phải điều chính các chính sách cho
phù hợp với lợi ích của các nhóm người khác nhau trong xã hội. Nhờ thể hiện ý
kiến của mình trên các phương tiện truyền thông, công dân đã tham gia vào đời sống
chính trị. Họ trở thành những người chủ thực sự của đất nước.
Tự do ngôn luận
giúp xã hội thích ứng và phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một xã
hội bị kiểm soát thông tin, nhà cầm quyền đặc biệt chú ý đến tuyên truyền, xã hội
đó sẽ lạc hậu và dậm chân tại chỗ vì thể chế chính trị trở nên độc đoán và
không thể thích ứng được với những thay đổi của thời cuộc.
Báo chí trong xã
hội dân chủ trở thành phương tiện có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị.
Edmund Burke cho rằng Nghị viện Anh tuy thâu tóm cả ba quyền, nhưng báo chí có
quyền lực thứ tư còn quan trọng hơn cả ba quyền kia. Báo chí trở thành công cụ
đối trọng của chính trị. Báo chí phát hiện tham nhũng, tố cáo thói lạm dụng quyền
lực của nhà cầm quyền. Báo chí góp phần đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời đề
cao các giá trị đạo đức, nâng cao dân trí. Vì thế, để đảm báo tính khách quan,
trung thực của thông tin, xã hội dân chủ rất coi trọng đến tính độc lập và đa
chiều của các tờ báo. Báo chí tư nhân được phép hoạt động. Tuy nhiên, một khi
các tờ báo trở thành công cụ của các đảng phái chính trị, hay chịu kiểm soát của
các nhóm người có ảnh hưởng trong xã hội, tính khách quan của báo chí bị hạn chế
rất nhiều.
Báo chí đóng góp
tích cực vào sự phát triển của xã hội. Nhà báo có vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình chuyển đổi thể chế chính trị độc đoán sang thể chế dân chủ theo
cách ôn hòa, vì vậy, họ cần nhận được sự chăm sóc và quý trọng của toàn xã hội.
Khi tự do báo chí được tôn trọng, đó sẽ là điểm khởi đầu của một xã hội dân chủ.
Tuy nhiên, tự do ngôn luận không phải là quyền tự do tuyệt đối vì nó cũng có những
giới hạn nhất định.
II. Tự do ngôn
luận và những giới hạn không thể vượt qua
Thể hiện quyền tự
do ngôn luận phải tuân theo pháp luật và các giá trị đạo đức (A), tự do ngôn luận
cần tôn trọng các quyền tự do khác như quyền được sống, quyền bảo vệ nhân phẩm
và danh dự, quyền tôn trọng đời sống riêng tư... Các quyền này có thể hạn chế tự
do ngôn luận trong những hoàn cảnh cụ thể (B).
A. Tự do ngôn luận
trong khuôn khổ của luật pháp và tôn trọng các nguyên tắc về đạo đức
Hiến pháp cũng
như các đạo luật đều đưa ra những giới hạn nhất định của tự do ngôn luận mà con
người cần phải tôn trọng: Kích động hận thù, cổ vũ bạo lực, khuyến khích phân
biệt chủng tộc, khơi mào cho các xung đột chính trị và tôn giáo, xúc phạm đến
nhân phẩm và danh dự của con người. Tất cả những lí do này đều bị nghiêm cấm,
con người không thể lợi dụng tự do ngôn luận để ủng hộ cái ác hay bênh vực những
điều trái với các giá trị đạo đức. Điều 16, Hiến pháp cộng hòa Nam Phi năm 1996
quy định: Tự do ngôn luận không phải là kêu gọi bạo lực, kích động và cổ vũ chiến
tranh hay khuyến khích hận thù, chia rẽ chủng tộc, giới tính, tôn giáo. (Sau
khi chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid bị xóa bỏ. Nelson Mandela, người da
đen đầu tiên được bầu làm tổng thống, Bản Hiến pháp dân chủ đã được Nghị viện thông
qua và được ban hành năm 1996).
Một ví dụ tiêu
biểu về lạm dụng tự do ngôn luận để kích động hận thù dân tộc và chiến tranh:
Năm 1994, ở Rwanda đã xảy ra nạn diệt chủng do cộng đồng người Hutus tiến hành
đối với người Tutsis. Trong thời gian 100 ngày, nhóm người Hutus chiếm đa số ở
Rwanda đã sát hại hơn 800 nghìn người Tutsis. Đây là một trong những sự kiện
đau buồn nhất mà con người đã chứng kiến trong những năm cuối của thế kỉ XX.
Tình trạng bạo lực không thể kiểm soát nổi, đã khiến hàng triệu người Rwanda di
cư đến các nước xung quanh, rất nhiều người Hutus cũng bỏ nước ra đi vì sợ bị
trả thù. Một trong những nguyên nhân gây ra bạo lực là do các tin tức trên đài
phát thanh quốc gia Rwanda. Trong nhiều ngày, đài này kêu gọi người Hutus tiến
hành thảm sát người Tutsis. Người dân Rwanda phần lớn mù chữ. Họ chủ yếu sống ở
các vùng nông thôn nghèo và lạc hậu, nên họ không có điều kiện tiếp xúc với báo
chí, cũng không kiểm chứng được tính xác thực của các thông tin trên đài. Kết
quả là nhiều người đã tin và hành động theo những thông báo của đài.
Bảo vệ nhân phẩm
và danh dự của con người cũng trở thành những điều kiện cho phép quan tòa hạn
chế tự do ngôn luận bằng cách cấm xuất bản hay thu hồi lại các tài liệu và văn
bản sai sự thật vu khống và nhục mạ con người, nhất là khi nạn nhân là những đối
tượng cụ thể. Điều này chỉ có thể thực hiện khi tự do ngôn luận vượt quá những
quy định của pháp luật. Những vi phạm nhẹ có thể là những vi phạm dân sự, tòa
án có thể tiến hành cảnh cáo hoặc phạt tiền. Các vi phạm nặng có thể là những
vi phạm hình sự. Tuy nhiên, bảo vệ nhân phẩm và danh dự chỉ có thể áp dụng cho
những người đang sống, không thể áp dụng cho người đã chết vì sau khi chết, con
người không còn tư cách pháp nhân và không thể kiện người khác ra tòa, trừ trường
hợp người thân cũng cảm thấy bị xúc phạm, họ có thể làm đơn kiện.
Ví dụ vụ việc nổi
tiếng liên quan đến cuốn sách Bí mật quan trọng (le grand secret) :
Bác sĩ Gubler đã cho xuất bản cuốn sách có tên Bí mật quan trọng sau
khi Tổng thống François Mitterand qua đời vài ngày. Cuốn sách miêu tả Tổng thống
François Mitterand đã bị bệnh hiểm nghèo ngay từ khi mới nhận chức được vài
tháng từ năm 1981. Cuốn sách tiết lộ nhiều vấn đề về sức khỏe của François
Mitterand và đời sống riêng tư của ông. Trong nhiều năm, người Pháp không hề biết
về tình hình sức khỏe của ông, mặc dù cứ 6 tháng một lần, phiếu khám sức khỏe của
tổng thống lại được công bố. Cuốn sách gây ra những luồng dư luận khác nhau, có
ý kiến cho rằng tổng thống không trung thực. Vợ và các con của François
Mitterand đã đệ đơn kiện lên Tòa án cấp đệ nhị Paris và yêu cầu phải thu hồi khẩn
cấp cuốn sách vì nó xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của người đã khuất và của
những người thân của ông. Hơn nữa bác sĩ Gubler đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Cuốn sách đã được viết sẵn, chỉ chờ thời điểm thuận lợi để xuất bản. Tác giả có
mục đích không trong sáng, ông muốn thu được nhiều lợi nhuận trong hoàn cảnh
này, vì chỉ sau 48 giờ kể từ lúc xuất bản, đã có 40 nghìn cuốn được bán hết.
Tòa án đã tiến hành thu hồi khẩn cấp cuốn sách. Bác sĩ Gubler và nhà xuất bản
Plon đã đưa đơn kiện đến Tòa án tối cao, nhưng các quan tòa đã bác đơn. Ông tiếp
tục gửi đơn đến Tòa án quyền con người của Hội đồng châu Âu vì cho rằng nước
Pháp đã vi phạm tự do ngôn luận theo điều 10, Công ước về quyền con người năm
1950. Ngày 18 tháng 5 năm 2004, Tòa án châu Âu ra phán quyết: "Điều
cần thiết hạn chế quyền tự do ngôn luận có thể thích hợp trong giai đoạn đầu,
nhưng hạn chế tự do ngôn luận trong giai đoạn sau là không còn phù hợp",
nghĩa là khi tổng thống François Mitterand mới mất, việc xuất bản ngay cuốn
sách là hoàn toàn không hợp lí, vì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến kí ức của người
đã khuất và gây tác động không tốt đến danh dự gia đình, xúc phạm đến tình cảm
của người thân. Việc Tòa án Paris thu hồi khẩn cấp cuốn sách không vi phạm điều
10, Công ước về quyền con người. Nhưng khi Tòa án tối cao tiếp tục ngăn cấm
không cho xuất bản cuốn sách nữa. Quyết định đó đã vi phạm tự do ngôn luận. Vì
với thời gian, mọi chuyện sẽ nguôi dần và tự do ngôn luận cần được đề cao.
B. Tự do ngôn luận,
quyền cơ bản có thể bị hạn chế vì lợi ích quốc gia
Bộ luật tổ chức
các vùng ở Pháp cho phép thị trưởng các thành phố và người phụ trách các vùng
miền có thể hạn chế một số quyền tự do của công dân để đảm bảo trật tự xã hội
trong những tình huống đặc biệt. Các điều kiện của trật tự xã hội bao gồm an
toàn xã hội, giữ vững sự bình yên và giữ gìn môi trường xã hội trong sạch, lành
mạnh. Nếu các cuộc biểu tình gây bất ổn và có nguy cơ biến thành bạo lực, nếu
việc xuất bản một cuốn sách hay một bức tranh gây chia rẽ những nhóm người khác
nhau trong xã hội và có thể gây ra bạo lực, để ngăn chặn trước những thiệt hại,
Nhà nước có thể hạn chế các quyền tự do để đảm bảo lợi ích quốc gia và trật tự
công cộng. Điều luật này giống với luật Patriot act ở Mỹ, tuy nhiên dựa trên lí
do bảo vệ trật tự xã hội và lợi ích quốc gia, Nhà nước có thể dễ dàng vi phạm tự
do ngôn luận, do vậy, việc áp dụng luật này cần có những hướng dẫn cụ thể và cần
có sự giám sát của tòa án.
Trường hợp mục
sư Terry Jones ở bang Florida đốt một số trang kinh Coran để thể hiện sự giận dữ
của mình đối với đạo hồi và các tổ chức khủng bố hồi giáo cực đoan, vị mục sư
này còn có ý định đốt gần 3000 trang kinh Coran đúng vào ngày 11 tháng 9, số lượng
trang bị đốt tương ứng với số lượng các nạn nhân của vụ khủng bố. Ông cũng kêu
gọi những người khác làm theo. Trước những những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy
ra đối với sự an toàn của người Mỹ và những đe dọa đến trật tự công cộng, tòa
án đã ngăn cấm hành động này, đồng thời phạt mục sư Terry Jones 271 đôla. Hành
động đốt kinh Coran là một biểu hiện thái quá của tự do ngôn luận, nhưng điều
nguy hiểm hơn cả là nó kích động hận thù tôn giáo, xúc phạm đến đức tin của người
hồi giáo, gây chia rẽ giữa cộng đồng này với phương Tây. Việc ngăn chặn hành động
khiêu khích này là điều cần thiết.
Nhạc rap cũng là
một kiểu biểu hiện của tự do ngôn luận, một số bài hát có nội dung thái quá vì
có nhiều câu chửi và kích động bạo lực. Nhạc rap là một thể loại âm nhạc mới,
xuất hiện trong những năm 70 ở Mỹ. Loại nhạc này do những thanh niên da đen sống
ở các khu vực nghèo, các ghetto ở Mỹ sáng tạo ra. Những lời nói có vần điệu dựa
trên nền nhạc, đôi khi nội dung của các bài rap rất tục tĩu, nhưng là tiếng nói
phản kháng những bất công trong xã hội: như tình trạng đói nghèo, phân biệt chủng
tộc, bất bình đẳng, nạn thất nghiệp mà người da đen phải hứng chịu. Loại nhạc
này phù hợp với văn hóa châu phi, nên nhiều ca sĩ nhạc rap giỏi thường là người
da đen. Nhạc rap hiện nay đã trở thành thể loại âm nhạc phổ biến đối với một bộ
phận giới trẻ, tuy nhiên loại nhạc này được cải biên và thích ứng cho phù hợp với
văn hóa của mỗi nước.
Một tòa án ở
Pháp đã yêu cầu chính quyền thả một ca sĩ nhạc rap vì một bài hát có câu
"Nước Pháp là một đứa con gái mất nết, cần phải hôn nó cho đến chết"
(la France est une salope, il faut la baiser jusqu’à la mort), vì nhạc rap theo
vần điệu và đôi khi tác giả sử dụng ngôn từ rất mạnh, có người cho rằng ca sĩ
này đã bôi nhọ đất nước. Một đại biểu quốc hội khác đã yêu cầu tòa án ra lệnh bắt
một nhóm nhạc rap vì một bài hát có câu kích động bạo lực như việc ám sát các bộ
trưởng.
Tự do ngôn luận
là quyền tự nhiên của con người, quyền này thể hiện sự khác biệt giữa chế độ
dân chủ và chế độ độc tài vì trong chế độ dân chủ, con người có quyền nói ra những
suy nghĩ của mình mà vẫn cảm thấy yên tâm vì sẽ không bị đe dọa hay bắt bớ, còn
ở chế độ độc tài, con người không dám nói ra những suy nghĩ thật của mình. Để
thể hiện điều mình muốn nói, đôi khi cần phải vòng vo, nói bóng nói gió, vì nếu
nói thẳng, họ có thể phải gánh chịu nhiều hậu quả. Do đó xã hội luôn ở trong
tình trạng tạm bợ, hình thức. Xã hội chỉ có thể ổn định và phát triển khi sự thật
trở thành giá trị cơ bản và báo chí được cởi trói.
P.T.Đ.
Nguồn:
http://boxitvn.blogspot.com/2015/03/tu-do-ngon-luan.html