Chủ nghĩa Tự Do Mới – nguồn gốc của mọi vấn đề chúng ta đang đối mặt

Posted on
  • Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • CTV Phía Trước chuyển ngữ
    George Monbiot 
    Tài chính suy thoái, thảm họa môi trường và thậm chí là sự lên ngôi của Donald Trump – là do Chủ nghĩa Tự do Mới góp phần tạo nên tất cả những điều đó. Tại sao cánh tả lại không thể đưa ra sự thay thế khả dĩ nào khác cho Chủ nghĩa Tự do Mới (hay còn gọi là Chủ nghĩa Tân Tự do)?
    Hệ tư tưởng nào chi phối cuộc sống của chúng ta? Với người Nga có lẽ họ sẽ trả lời là chủ nghĩa cộng sản. Nhưng với phần lớn những người khác thì họ sẽ không thể đưa ra câu trả lời. Không tin bạn hãy thử hỏi xem, có lẽ bạn sẽ nhận được cái nhún vai lắc đầu. Thậm chí là nếu họ đã từng nghe đến thuật ngữ đấy đi chăng nữa thì chắc cũng rất khó khăn để đưa ra định nghĩa nó là gì. Đó chính là “Chủ nghĩa Tự Do Mới”, bạn có biết nó là gì không?
    Biểu hiện và nguồn gốc sức mạnh của Chủ nghĩa Tự Do Mới luôn mai danh ẩn tích, dù nó đóng vai trò quan trọng trong những các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng khác nhau như: cuộc suy thoái tài chính năm 2007-2008, chuyển dịch nguồn lực và của cải ra nước ngoài mà vụ bê bối Panama chỉ là phần nổi của tảng băng; sự thoái hóa dần về giáo dục và chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự gia tăng trẻ em cơ nhỡ, sự bùng nổ người neo đơn; sự suy thoái hệ sinh thái; và sự lên ngôi của Donal Trump. Nhưng chúng ta luôn phản ứng với các khủng hoảng như thể chúng hoàn toàn độc lập và hoàn toàn không để ý rằng chúng có thể được châm ngòi hay thổi phồng cũng chỉ bời cùng một triết lý rõ ràng, một triết lý có hoặc đã từng có một cái tên. Liệu có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh vô hình?
    Chủ nghĩa Tự do Mới lan tràn phổ biến đến nỗi mà chũng ta thậm chí còn chẳng nhận ra nó là một hệ tư tưởng. Chúng ta có vẻ như thừa nhận một mệnh đề rằng đức tin bền vững và không tưởng này mô tả một thế lực trung dung, một quy luật sinh học, giống như thuyết tiến hóa của Darwin. Nhưng học thuyết này nổi lên như một nỗ lực có ý thức nhằm định hình lại cuộc sống loài người và chuyển dịch địa vị quyền lực.
    Chủ nghĩa Tự do Mới nhìn nhận tính cạnh tranh là sự xác định các đặc tính của các mối quan hệ của con người. Nó định nghĩa lại công dân là người dùng, mà những lựa chọn dân chủ được thực hành qua việc mua và bán, mà ở đó việc ban thưởng bằng khen hay xử phạt không có tác dụng nhiều. Nó vẫn bảo vệ quan điểm rằng “thị trường” đem đến những lợi ích mà không thể đạt được bằng kế hoạch hóa.
    Những nỗ lực cản trở cạnh trạnh được xem như là đối nghịch lại với quyền tự do. Thuế khóa và luật định nên được tối thiểu hóa, dịch vụ công cộng nên được tư nhân hóa. Các tổ chức lao động và hiệp thương của các tổ chức công đoàn được phác họa như là những sự biến dạng thị trường gây cản trở cho việc hình thành sự phân cấp tự nhiên giữa kẻ thắng người thua. Bất bình đẳng lại được nhìn nhận là tốt đẹp, như là một phần thưởng về lợi ích, và nguồn phát sinh sự giàu có, rót từ trên xuống rồi khiến cho tất cả mọi người đều giàu lên. Những nỗ lực tạo ra một xã hội công bằng hơn vừa phản tác dụng lại còn ăn mòn đạo đức. Thị trường sẽ đảm bảo cho mọi người có được những gì mà họ xứng đáng.
    Chúng ta hãy nhìn vào bên trong và tái dựng nguyên lý của nó. Người giàu tự thuyết phục họ rằng họ đạt được giàu có là bằng những gì họ xứng đáng có, và lờ đi những lợi thế như là: giáo dục, thừa kế và đẳng cấp xã hội – những thứ mà có lẽ đã giúp họ bảo vệ sự giàu có. Người nghèo thì bắt đầu nghĩ chính họ là nguyên nhân của những thất bại của họ, dù rằng họ chẳng có thể làm đươc gì nhiều để thay đổi hoàn cảnh.
    Tỷ lệ thất nghiệp không quan trọng, quan trọng là bạn không có việc làm vì bạn không đủ khả năng. Giá nhà đất đắt đỏ đến mức không tưởng thì cũng không quan trọng, quan trọng là nếu thẻ tín dụng của bạn vượt hạn định nghĩa là bạn tắc trắc và hoang phí. Con cái bạn có không có sân trường để chơi có ý nghĩa gì khi con bạn béo phì, đó chỉ có thể là lỗi của bạn mà thôi. Trong cái thế giới mà vận hành bởi sự cạnh tranh, thì những người bị thụt lùi tự định nghĩa họ là những người chiến bại.
    Và một số hậu quả, như Paul Verhaeghe mô tả trong cuốn sách “What About Me?” (Còn tôi thì sao?), là sự lan tràn những hội chứng như tự hủy hoại bản thân, ăn uống vô độ, trầm cảm, cô đơn, lo lắng, và sợ hãi xã hội. Có lẽ là cũng không mấy ngạc nhiên khi mà nước Anh, nơi mà tư tưởng tự do mới được áp dụng cực đoan nhất, chính là thủ đô cô đơn của châu Âu. Chúng ta, tất cả đều là những người tự do mới.
    Thuật ngữ “Chủ nghĩa Tự do Mới” được đề xuất trong một cuộc họp ở Pari năm 1938. Có hai người đàn ông trong số những người tham gia, đa định nghĩa tư tưởng này, là Ludwig vo Mises và Friedrich Hayek. Cả hai đều rời quê hương nước Úc để đến Mỹ. Họ nhìn thấy chủ nghĩa dân chủ được mô tả trong Chính sách kinh tế mới của Franklin Roosevelt cũng như sự đang lên của nhà nước thịnh vượng Anh, là những biểu hiện của chủ nghĩa tập thể mà cũng có hình thái như chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa cộng sản.
    Trong cuốn “The Road to Serfdom” (Đường về Nô lệ), xuất bản năm 1944, Hayek lập luận rằng kế hoạch chính phủ tập trung bằng cách đè nén chủ nghĩa cá nhân, sẽ đương nhiên dẫn đến quyền lực chuyên chế. Cuốn “Đường về nô lệ” cũng được đông đảo người đọc đón nhận, như cuốn “Bureaucracy” (Bộ máy quan lại) của Mises. Nó đã gây sự chú ý của một số người giàu có, những người nhận ra triết lý về một cơ hội giải phóng họ khỏi thuế khóa và luật định. Vào năm 1947, Hayek thành lập tổ chức đầu tiên truyền bá giáo lý của Chủ nghĩa Tự do Mới, tên là “Mont Pelerin Society” (Xã hội Mont Pelerin). Tổ chức này được sự hậu thuẫn về tài chính của các triệu phú và tập đoàn của họ.
    Với sự giúp đỡ ấy, Hayek bắt đầu tạo ra thứ mà Daniel Stedman Jones mô tả trong “Masters of the Universe” (Bá chủ vũ trụ) là “một dạng thế giới tự do mới”, đó là một mạng lưới bắc qua Đại Tây Dương của các nhà nghiên cứu hàn lâm, các doanh nhân, nhà báo và các nhà hoạt động xã hội. Những nhà tài trợ giàu có gây quỹ cho hoạt động của hàng loạt các nhóm, tổ chức chuyên gia, những người tinh chỉnh và thúc đẩy học thuyết này. Trong số các tổ chức đó có Viện Doanh nghiệp Mỹ, Tổ chức Di sản văn hóa, Viện Cato, Viện Kinh tế, Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Viện Adam Smith. Họ cũng tài trợ cho những nhà nghiên cứu hàn lâm hay các khoa viện trong các trường đại học, đặc biệt là các trường đại học ở Chicago và Virginia.
    Chủ nghĩa Tự do Mới ngày càng tiến hóa và phát triển rầm rộ. Hayek có quan điểm là chính phủ nên điểu hòa cạnh tranh để tránh việc độc quyền suy thoái. Trong số những người lãnh đạo cải cách ở Mỹ như Milton Friedman, tin rằng sức mạnh độc quyền có thể là phần thưởng xứng đáng của hoạt động hiệu quả.
    Trong quá trình chuyển dịch, sự biến chuyển này bỗng mất tên gọi. Vào năm 1951, Friedman đã rất vui mừng khitự cho rằng mình là một người của Chủ nghĩa Tự do Mới. Nhưng rất nhanh sau đó, thuật ngữ “Chủ nghĩa Tự Do Mới” biến mất. Và vẫn rất lạ là thậm chí tư tưởng này ngày càng mạnh mẽ và sự biến chuyển ngày càng mạch lạc thì cái tên bị mất vẫn không hề được thay thế bởi bất kỳ một tên gọi chung nào khác.
    Lúc đầu, mặc dù được nguồn hỗ trợ dồi dào, Chủ nghĩa Tự Do Mới vẫn chỉ đứng bên lề. Hiệp định Hậu chiến phổ biến gần như toàn cầu như là: Sắc lệnh kinh tế của John Maynard Keynes được áp dụng rộng rãi, mục tiêu chung cho toàn nước Mỹ và rất nhiều nước Tây Âu là không còn thất nghiệp và giảm tỷ lệ đói nghèo, thuế suất cho thu nhập của người giàu ở mức cao và chính phủ cố gắng đo lường hậu quả xã hội mà không quá bối rối, dịch vụ công và các mạng lưới an toàn được phát triển.
    Nhưng trong những năm 1907, khi mà các chính sách của Keynes bắt đầu bị phá vỡ và các cuộc khủng hoảng kinh tế tấn công cả hai bên bờ Đại Tây Dương, tư tưởng tự do mới bắt đầu thành tư tưởng chính. Friedman nhấn mạnh, “khi đến thời điểm mà bạn phải thay đổi … sẽ có một sự thay thế sẵn sàng để bạn lựa chọn”. Với sự hậu thuẫn của các nhà báo cùng phe và những nhà tư vấn chính trị, các thành tố của Chủ nghĩa Tự Do Mới, đặc biệt là phương thuốc về chính sách tiền tệ, được chính quyền của Jimmy Carter ở Mỹ và chính phủ của Jim Callaghan ở Anh áp dụng.
    Sau khi Margaret Thatcher và Ronal Reagan lên nắm quyền, thì toàn bộ chính sách của Chủ nghĩa Tự do Mới được áp dụng như là: cắt giảm thuế lớn cho người giàu, giảm quyền lực các tổ chức công đoàn, bãi bỏ nhiều luật, tư nhân hóa, thuê khoán nước ngoài và cạnh tranh hóa dịch vụ công cộng. Qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Hiệp ước Maastricht và Tổ chức Thương mại Thế giới, các chính sách tự do mới được áp đặt trên hầu khắp thế giới mà không cần trưng cầu dân chủ. Điều đáng chú ý nhất là cả các đảng cánh tả cũng chấp nhận các chính sách đó. Stedman Jones viết: “Thật khó để có thể một thứ chủ nghĩa không tưởng nào khác mà lại được thừa nhận tuyệt đối như vậy”.
    Có vẻ như không bình thường khi mà một chủ nghĩa đầy hứa hẹn và tự do lại được xướng lên bởi một khẩu hiệu “không có sự thay thế”. Nhưng như Hayek nhấn mạnh trong một chuyến đến Chile của nhà độc tài Pinochet, một trong những nước đầu tiên áp dụng đầy đủ chương trình hành động này, rằng “Cá nhân tôi có xu hướng nghiêng về một nền độc tài tự do hơn là một chính phủ dân chủ mà chẳng có tự do. Tự do mà Chủ nghĩa Tự Do Mới đề cập đến nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng thực ra nó có nghĩa là tự do cho con cá lớn, không phải cho con cá nhỏ.
    Tự do khỏi các tổ chức công đoàn và hiệp thương tập thể nghĩa là tự do giảm lương. Tự do khỏi luật pháp nghĩa là tự do đầu độc sông ngòi, hãm hại người lao động, áp dụng lãi suất bất công và đề xuất công cụ tài chính kỳ dị. Tự do khỏi thuế khóa nghĩa là tự do khỏi sự phân phối tài sản mà có thể nâng mức sống của người dân lên.
    Trong “The Shock Doctrine”, Naomi Klein cho biết, những nhà lý luận tự do mới ủng hộ việc dùng khủng hoảng để áp đặt những chính sách bất thường trong khi người dân đang chú ý hơn vào những thứ khác. Ví dụ như, trong “Hậu quả của cuộc đảo chính Pinochet”, Friedman mô tả cuộc chiến tranh với Iraq hay cơn bão Katrina là cơ hội để tái cấu trúc mạnh mẽ hệ thống giáo dục ở New Orleans.
    Ở những nơi chính sách tự do mới không thể áp đặt nội địa hóa, thì chúng lại được áp đặt quốc tế hóa, thông qua những Hiệp định Thương mại Quốc tế kết hợp “giải quyết tranh chấp đầu tư nhà nước” như là: những tòa án nước ngoài mà ở đó các tập đoàn có thể tạo áp lực để lọai bỏ các biện pháp bảo vệ môi trường và xã hội. Khi Quốc hội có thể bỏ phiếu để hạn chế bán thuốc lá, bảo vệ nguồn nước từ những công ty khai thác mỏ, đóng băng các luật lệ về năng lượng hay hạn chế các hãng dược phẩm tách khỏi nhà nước, thì các tập đoàn có thể khởi kiện, và thường là thành công. Dân chủ cũng chỉ thành trò diễn trên sân khấu mà thôi.
    Một nghịch lý khác của Chủ nghĩa Tự Do Mới là cạnh tranh toàn cầu dựa trên định lượng và so sánh toàn cầu. Kết quả là công nhân, người tìm việc và các loại dịch vụ công phải chịu một chế độ đánh giá và điều hành ngột ngạt, cố chấp để ghi nhận người chiến thắng và trừng phạt kẻ thua cuộc. Chủ nghĩa mà Von Mises đề xuất được hứa hẹn là sẽ giải phóng chúng ta khỏi cơn ác mộng quan liêu của chế độ kế hoạch hóa tập trung, kỳ thực lại tạo ra một cơn ác mộng tương tự.
    Chủ nghĩa Tự Do Mới lúc đầu không hề được hình dung là một sự dối trá, nhưng nó nhanh chóng thể hiện những kết quả ngược lại so với mục tiêu ban đầu. Tăng trưởng kinh tế chậm dần rõ rệt trong kỷ nguyên tự do mới (từ năm 1980 ở Anh và Mỹ) so với những thập kỷ trước đó, nhưng không hề giảm với tầng lớp rất giàu. Bất bình đẳng trong phân phối cả về thu nhập lẫn của cải, sau 60 năm có chiều hướng giảm bất bình đẳng, đến thời đại này lại gia tăng nhanh chóng bởi sự thất bại của các tổ chức công đoàn, chính sách thuế giảm, tăng tô, tư nhân hóa và dỡ bỏ luật lệ.
    Việc tư nhân hóa hay thị trường hóa các dịch vụ công như năng lượng, nước sinh hoạt, tàu điện, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đường giao thông và nhà tù đã cho phép các tập đoàn thiết đặt các trạm thu phí trước các công trình thiết yếu và thu cước sử dụng đối với cả công dân và chính phủ. Tô là một thuật ngữ khác cho thu nhập không tốn sức lao động. Khi bạn trả giá đã đội lên cho một vé tàu, thì chỉ một phần là bù lại cho chi phí vận hành như là xăng dầu, lương nhân viên, bảo trì toa xe hay các chi phí khác. Phần còn lại phản ánh thực tế là họ ép bạn vào thế buộc phải sử dụng dịch vụ mà không có sự lựa chọn nào khác.
    Những ai làm chủ hay điều hành dịch vụ đã tư nhân hóa hoặc bán tư nhân hóa đều thu lợi khổng lồ vì vốn đầu tư ít mà thu phí lại nhiều. Ở và Nga và Ấn Độ, thành phần thiểu số quyền lực chính trị nắm tài sản quốc gia thông qua những thương vụ bán tống, bán tháo. Ở Me-hi-co, Carlos Slim kiểm soát hầu hết các dịch vụ điện thoại đi động và cố định và sớm trở thành người giàu nhất thế giới.
    Quá trình tư bản hóa, như Andrew Sayer mô tả trong “Tại sao chúng ta không thể đáp ứng người giàu” (Why We Cant Afford the Rich)cũng có ảnh hưởng tương tự. Ông lập luận, giống như “tô”, lãi suất là dạng thu nhập do đầu cơ và tích lũy không mất công. Vì người nghèo càng nghèo và người giàu càng giàu, nên người giàu gia tăng quyền kiểm soát với tài sản trọng yếu, chính là tiền. Khoản trả lãi suất vay nợ là một dạng biến chuyển tiền từ người nghèo sang người giàu. Khi mà giá cả bất động sản và việc rút vốn nhà nước đẩy người dân phải gánh vác các khoản nợ (giống như việc chuyển đổi tiền tài trợ cho sinh viên sang các khoản vay cho sinh viên), thì các nhà băng và bộ máy điều hành cũng cạn tiền.
    Sayer cho rằng bốn thập kỷ qua người ta chứng kiến việc chuyển dịch tài sản không chỉ từ người nghèo sang người giàu, mà giữa những người giàu ở mức khác nhau như là từ những người kiếm tiền bằng việc sản xuất hàng hay dịch vụ sang những người kiếm tiền bằng việc quản lý tài sản có sẵn và thu nhập bằng tiền thuê, lãi suất hay giá trị gia tăng. Thu nhập mất sức được thay thế bằng thu nhập không tốn công.
    Chính sách Chủ nghĩa Tự Do Mới bủa vây ở mọi nơi bởi những thất bại của thị trường. Không chỉ những ngân hàng quá lớn thất bại, mà cả những tập đoàn phải chi trả cho các dịch vụ công. Như Tony Judt chỉ ra trong “Bất động sản không lành mạnh” (Ill Fares the Land), Hayek đã quên mất rằng những dịch vụ xương sống của quốc gia không được phép sụp đổ, có nghĩa là không thể cho phép cạnh tranh đối với các dịch vụ này. Kinh doanh lấy phần lãi, còn nhà nước thì phải chịu rủi ro.
    Thất bại càng lớn thì chủ nghĩa này lại càng trở nên cực đoan. Các chính phủ lợi dụng các khủng hoảng tự do mới để đổi lỗi và tận dụng cơ hội để giảm thuế, duy trì tư nhân hóa dịch vụ công, lấp các lỗ hổng trong mạng an toàn xã hội, dỡ bỏ luật định cho các tập đoàn và áp thêm luật cho công dân. Nhà nước nhúng mũi vào mọi ngóc ngách của kinh tế quốc doanh.
    Có lẽ ảnh hưởng nguy hại nhất của Chủ nghĩa Tự Do Mới không phải là những cuộc khủng hoảng tài chính mà mà khủng hoảng chính trị. Khi phạm vi nhà nước bị thu hẹp, thì khả năng chúng ta thay đổi vận mệnh cuộc sống của chúng ta thông qua bầu cử cũng bị hạn chế. Thay vào đó thuyết Chủ nghĩa Tự Do Mới khẳng định, con người có thể thực hiện lựa chọn thông qua chi tiêu. Nhưng có người có nhiều tiền hơn để chỉ tiêu so vơi người khác, với những người tiêu dùng hay cổ đông lớn thì dân chủ và phiếu bầu không chia đều. Kết quả là tầng lớp nghèo và trung bình bị tước quyền lực. Khi mà các đảng cánh hữu và cánh tả trước đó áp dụng chính sách tự do mới tương tự, tước quyền có nghĩa là tước quyền công dân. Không ít người bị tách ra lề khỏi hệ thống chính trị.
    Chris Hedges nhấn mạnh rằng sự phát triển của chủ nghĩa phát xít xây dựng nền móng không phải từ hoạt động chính trị mà từ bất hoạt động chính trị, những người thua cuộc thường có cảm giác là họ không hề có tiếng nói hay vai trò gì trong việc thiết lập hệ thống chính trị. Khi tranh luận chính trị không còn là tiếng nói cho chúng ta, con người lại phản ứng với những câu khẩu ngữ, những biểu tượng và cảm giác. Ví dụ như trong hiện tượng ngưỡng mộ Trump, thực tế và lý luận dường như đã không còn quan trọng.
    Theo Judt, khi tương quan tương tác giữa người dân và nhà nước chỉ còn là ra lệnh và sự tuân theo, thì ràng buộc duy nhất giữa người dân và nhà nước là quyền lực nhà nước. Khi việc phục vụ các dịch vụ công của chính quyền biến thành việc mị dân, đe dọa và xa hơn nữa là áp đặt, ép buộc người dân phải tuân theo, thì chính phủ sẽ dần không coi trọng đạo đức, nhân phẩm, và một chế độ toàn trị mà Hayek lo ngại sẽ có nguy cơ hình thành.
    Giống như chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa Tự Do Mới là vô thần, ở đó người ta không tin vào Chúa. Thế nhưng đó lại là sự xâm nhập của tư tưởng “xác sống”; và một trong những lý do mà nó có thể xâm nhập được vào xã hội chính là tính ẩn danh, thậm chí là một mạng lưới ẩn danh.
    Học thuyết vô hình về bàn tay vô hình được phát huy bởi những người hậu thuẫn vô hình. Từ từ và rất từ từ, chúng ta mới bắt đầu khám phá ra một vài cái tên trong số đó. Như là Viện “Nghiên cứu các vấn đề kinh tế” đã lên tiếng mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông chống lại các đạo luật áp dụng cho ngành công nghiệp thuốc lá, lại được tài trợ bí mật bởi Hiệp hội Thuốc Lá Anh Mỹ từ năm 1963. Chúng ta còn khám phá ra Charles và David Koch, hai người giàu nhất thế giới, sáng lập ra Viện nghiên cứu mà đã hình thành “Phong trào Tiệc Trà”. Trong quá trình thành lập nhóm chuyên gia tư vấn, Charles Koch đã lưu ý “để tránh những dị nghị không mong muốn, phương thức định hướng và điều hành tổ chức sẽ không được quảng bá rộng rãi”
    Những khẩu hiệu, lời lẽ tuyên truyền được Chủ nghĩa Tự Do Mới sử dụng thường che đậy ý nghĩa thực sự và không giống như những gì mà nó thể hiện. “Thị trường” nghe có vẻ như một hệ thống tự đem đến cho chúng ta sự bình đẳng, giống như là sức hút trái đất hay áp lực không khí vậy. Nhưng thực ra lại là sự nhằng nhịt các quan hệ quyền lực. Những gì thị trường muốn lại có xu hướng mang ý nghĩa là những gì các tập đoàn và các ông chủ của họ muốn. “Đầu tư”, như là Sayer viết, mang hai nghĩa không liên quan nhiều đến nhau. Một nghĩa là cấp vốn cho các hoạt động hiệu quả, hữu ích cho xã hội, nghĩa khác là đi mua lại những tài sản sẵn có rồi củng cố lại và đem cho thuê, cho vay lấy lãi hay hưởng cổ tức rồi vốn hóa lại. Việc sử dụng cùng một thuật ngữ để miêu tả các hoạt động khác nhau là nhằm ngụy trang nguồn tài sản, khiến cho chúng ta bối rối, nhầm lẫn giữa việc bòn rút tài sản và việc tạo ra tài sản.
    Một thế kỷ trước, những người giàu mới phất bị xem thường bới chính những người thừa hưởng tài sản của họ. Trong quá khứ, các doanh nghiệp sản xuất mong muốn sự chấp nhận của xã hội bằng cách núp danh là họ sống bằng hoa lợi cổ tức. Ngày nay thì ngược lại, những người kiếm tiền bằng hoa lợi hay thừa kế lại lấy mác là các doanh nghiệp sản xuất. Họ tuyên bố là họ phải nhọc công để có những thu nhập không mất sức.
    Những kiểu ẩn danh và mạng lưới nhập nhằng với chủ nghĩa tư bản hiện đại không định danh và định vị như mô hình nhượng quyền thương mại mà ở đó nó đảm bảo rằng người lao động không biết là họ đang làm việc cho ai; các công ty đăng ký qua một mạng lưới thuê ngoài bí mật phức tạp đến nỗi mà cảnh sát không thể tìm được chủ sở hữu; họ dàn xếp đóng thuế để lừa gạt chính phủ và các báo cáo tài chính mà không ai có thể hiểu được.
    Cách thức ẩn danh của Chủ nghĩa Tự Do Mới được bảo đảm nghiêm ngặt. Những người bị ảnh hưởng bời Hayek, Mises và Friedman có xu hướng phủ nhận thuật ngữ “tự do mới” và quan điểm có phần xác đáng rằng cách dùng thuật ngữ ấy ngày nay chỉ mang tính miệt thị. Nhưng họ lại chẳng để xuất sự thay thế nào. Một vài người cho rằng họ là những người chủ nghĩa tự do cổ điển hay đơn thuần là những người theo chủ nghĩa tự do, nhưng các định nghĩa này đều gây ra hiểu nhầm và làm lu mờ ý nghĩa thực, khi mà họ cho rằng chẳng có gì mới và đặc sắc trong “Con đường Nô lệ”, “Bộ máy quan lại” hay tác phẩm kinh điển của Friedman, “Chủ nghĩa tư bản và tự do”.
    Với tất cả những điều đó, phải ghi nhận những thành quả của dự án tự do mới, ít nhất là trong những giai đoạn đầu. Nó thực sự là tư tưởng độc đáo mang tính đột phá được đẩy lên bởi mạng lưới liên kết chặt chẽ của các nhà tư tưởng và hoạt động xã hội với một kế hoạch hành động rõ ràng. Người ta rất kiên định và quyết tâm. “Con đường Nô lệ” trở thành con đường dẫn đến quyền lực.
    Chiến thắng của Chủ nghĩa Tự Do Mới phản ánh sự thất thủ của cánh tả. Khi tự do kinh tế dẫn đến cuộc khủng hoảng năm 1929, Keynes đã vạch ra một lý thuyết kinh tế đầy đủ để thay thế chủ nghĩa tự do kinh tế. Khi mà nhu cầu quản lý theo lý thuyết của Keynes vấp phải sự cản trở trong những năm 70, thì đã có một sự thay thế trong tư thế sẵn sàng. Nhưng khi mà Chủ nghĩa Tự Do Mới sụp đổ vào năm 2008 thì lại chẳng có sự thay thế nào. Và đó là điều kiện để “xác sống” bước vào. Khi cánh tả và trung lập không đưa ra được một mô hình chung nào cho các tư tưởng kinh tế 80 năm qua.
    Mọi hy vọng dành cho Lord Keynes được thừa nhận là thành vô vọng. Để đề xuất các giải pháp theo học thuyết Keynes giải quyết các cuộc khủng hoảng của thế kỷ 21 là để lờ đi ba vấn đề rành rành. Đó là, khó khăn trong việc thay đổi con người mà vẫn loanh quanh với những tư tưởng cũ; những khiếm khuyến bộc lộ trong những năm 70 vẫn còn đó; và quan trong nhất, họ chẳng có giải pháp gì cho những tình trạng khó khăn trầm trọng nhất đó là khủng hoảng môi trường. Học thuyết Keynes dựa trên việc kích thích nhu cầu tiêu dùng để kích thích tăng tăng trưởng kinh tế. Nhu cầu tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế lại là động cơ phá hủy môi trường.
    Những gì mà cả học thuyết Keynes và Chủ nghĩa Tự Do Mới thể hiện cho thấy rằng cả hai đều chưa đủ để chống lại sự sụp đổ hệ thống. Một sự thay thế khác bền vững phải được nghiên cứu và đề xuất. Đối với Đảng Lao động, Đảng Dân Chủ và phía cánh tả, nhiệm vụ chính là nên phát triển chương trình kinh tế Apollo, với một nỗ lực chủ đích kiến tạo một hệ thống mới đáp ứng nhưng nhu cầu của thể kỷ 21.
    Nguồn:http://phiatruoc.info/chu-nghia-tu-do-moi-nguon-goc-cua-moi-van-de-chung-ta-dang-doi-mat-cuoi/
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org