Phạm Văn Tuấn
Ông Thomas Jefferson là một nhà ngoại
giao, một nhà lý thuyết chính trị, vị sáng lập ra Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ nhưng
ông được ghi nhớ do chức vụ Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ và ông cũng là tác giả
“Bản Tuyên Ngôn Độc Lập”.
Ông Thomas Jefferson đã tin tưởng rằng
“những người nào chịu khó lao động trên mặt đất là những người được Thượng Đế
chọn lựa”. Xã hội lý tưởng của ông vào thời đại đó là một quốc gia gồm các chủ
trại sinh hoạt dưới sự kiểm soát tối thiểu của chính quyền. Ông Thomas
Jefferson tin tưởng rằng đa số người dân có thể tự quản và nên giữ cho chính
quyền vừa đơn giản, vừa ít phí phạm. Do lòng yêu chuộng Tự Do, ông đã tranh đấu
cho các nền tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo và các tự do dân sự khác. Ông mạnh
dạn ủng hộ việc thêm vào Hiến Pháp Hoa Kỳ đạo luật “Dân Quyền” (the Bill of
Rights).
Trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông
Jefferson, lãnh thổ Hoa Kỳ đã tăng gấp hai diện tích nhờ mua lại vùng đất
Louisiana và Hoa Kỳ đã ở vị thế trung lập trong khi các đạo quân của Tướng
Napoléon đánh chiếm nhiều nơi tại châu Âu.
Ông Thomas Jefferson còn có nhiều tài
năng đặc biệt khác. Ông là một trong các vị kiến trúc sư hàng đầu của thời đại.
Chính ông vẽ kiểu cho Điện Capitol của thủ phủ tiểu bang Virginia, vẽ đồ án cho
trường Đại Học UVA (University of Virginia) và họa đồ tòa dinh thự Monticello của
ông. Ông cũng chơi giỏi đàn vĩ cầm trong các ban nhạc thính phòng và do quý trọng
bộ môn Hội Họa, ông đã thu xếp để nhà điêu khắc lừng danh người Pháp Jean
Houdon tới Hoa Kỳ nặn tượng cho ông George Washington.
Ngoài ra ông Thomas Jefferson còn là
Chủ Tịch của Hội Triết Học Mỹ Quốc (the American Philosophical Society), một tổ
chức bao gồm nhiều công cuộc khảo cứu Khoa Học và Văn Hóa. Bộ sưu tập 6,400 cuốn
sách của ông đã là phần chính của Thư Viện Quốc Hội thời đó.
Ông Thomas Jefferson là một luật gia
xuất sắc, đã đề nghị nhiều đạo luật hữu ích, viết ra nhiều tác phẩm với tinh thần
của một công dân cởi mở, thực tiễn, hướng về đại chúng. Chính nhờ ông mà hiện
nay tại Hoa Kỳ, hệ thống tiền tệ theo cách tính thập phân được xử dụng.
Ngày nay, mọi công dân Hoa Kỳ thụ hưởng
được rất nhiều điều tốt lành phần lớn là do lòng tận tụy của ông Thomas
Jefferson đối với các nhân quyền (human rights). Chính ông Thomas Jefferson đã
hoạch định một loại chính quyền mà 37 năm về sau, trong bài Diễn Văn tại
Gettysburg, ông Abraham Lincoln đã mô tả chính quyền Hoa Kỳ phải là “của Dân,
do Dân và vì Dân”.
1. Thuở thiếu thời tại Virginia
Cậu Thomas Jefferson chào đời ngày 13
tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, một miền đất đỏ phía tây của hạt Albemarle,
Virginia, gần ngọn đồi mà sau này có tòa nhà Monticello. Cha của cậu, ông Peter
Jefferson, là một người đo đất có gốc tổ tiên miền Welsh, còn bà mẹ, Jane
Randolph, thuộc một gia đình quý tộc cổ của miền Virginia. Thomas là người con
thứ ba và là con trai lớn của gia đình gồm 4 trai 6 gái. Phần lớn những người
anh chị em này đã chết khi tuổi còn thơ. Thomas đã trải qua 7 năm trong số 9
năm đầu tiên tại Tuckahoe, một nông trại của gia đình Randolph bên bờ sông
James, gần Richmond, tiểu bang Virginia.
Năm Thomas lên 9 tuổi, gia đình
Jefferson dọn trở về Shadwell và tại nơi này, cậu Thomas đã tập đọc và tập viết
tại trường học và cậu cũng được cha dạy kèm. Ông Peter đã dạy cho con học cách
câu cá, cách săn bắn gà lôi rừng (wild turkeys), săn hươu nai gần giòng sông
Rivanna cùng cách cưỡi ngựa. Cậu Thomas cũng học kéo đàn vĩ cầm và biết yêu chuộng
âm nhạc từ dạo đó.
Khi Thomas được 14 tuổi, ông Peter
qua đời. Cậu Thomas trở nên gia trưởng vì là con trai lớn trong nhà. Cậu thừa
hưởng hơn 1,000 mẫu đất cùng với hơn 20 người nô lệ, trong khi gia sản do người
quản gia tên là John Harvie trông nom.
2. Học vấn
Cậu Thomas Jefferson bắt đầu đi học từ
khi được 5 tuổi rồi khi lên 9 tuổi, vào ở nội trú trong trường học điều khiển
do Mục Sư William Douglas, một vị tu sĩ gốc Tô Cách Lan. Về sau, cậu Thomas còn
ghi nhớ rằng các loại bánh nướng trái cây (pies) của ông Douglas ngon tuyệt vời
và các bài giảng của ông cũng rất xuất sắc, ngoại trừ về văn học cổ điển.
Ngoài các môn học thông thường, cậu
Thomas còn được học về tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp. Sau khi cha chết,
Thomas theo học ngôi trường gần Charlottesville của Mục Sư James Maury, một tu
sĩ theo Anh Cát Giáo và cũng là một học giả. Cậu được huấn luyện về lòng nhân đạo
và về niềm tin vào Thượng Đế nhưng cậu không hoàn toàn tin tưởng vào một tổ chức
tôn giáo nào.
Năm 1760 vào tuổi 16, Thomas
Jefferson theo học Đại Học Williams and Mary tại Williamsburg. Đây là thủ đô của
miền thuộc địa Virginia với dân số thời đó chỉ vào khoảng 1,000 người. Thomas
làm quen với xã hội thành thị và trong 2 năm trường, cậu học về Toán học, Văn
chương và Triết học với Tiến Sĩ William Small, một học giả gốc Tô Cách Lan. Năm
1762, Tiến Sĩ Small đã thu xếp để Thomas Jefferson học luật với vị Thẩm Phán
George Wythe, một trong các vị luật gia uyên thâm nhất của địa phương. Ông
George Wythe đã gây ảnh hưởng tới Thomas Jefferson rất nhiều và chính ông Wythe
sau này cũng là một trong các vị ký tên vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Nhờ sự quen biết với hai ông Small và
Wythe, Thomas Jefferson được giới thiệu với Thống Đốc Francis Fauquier. Bốn người
này thường trải qua các buổi chiều tại tư dinh của Thống Đốc, bàn luận về thời
cuộc cũng như dạo các bản nhạc thính phòng. Cũng nhân dịp này, Thomas Jefferson
được gặp Patrick Henry.
Trong thời gian học môn Luật với Thẩm
Phán Wythe, Thomas Jefferson đã quan tâm tới sự căng thẳng chính trị giữa nước
Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bẩy Năm (1756-63), hay còn được gọi
là “Cuộc chiến tranh Pháp và người Da Đỏ” (the French and Indian War) đã loại
người Pháp ra khỏi nước Ấn Độ và lục địa Bắc Mỹ. Người Pháp đã bị người Anh
thay thế và thế lực Anh đã lấn át tại phía tây bán cầu và trên các mặt biển. Nước
Anh nhờ thế đã thụ hưởng được sự phát triển thương mại trên rất nhiều lãnh thổ.
Năm 1760, Vua George III lên ngôi nhưng do sự bất lực của nhà Vua này, đã sinh
ra các bất ổn đối với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.
Tại miền Bắc Mỹ, các doanh nhân thường
buôn lậu với các kẻ địch và các Quốc Hội Lục Địa đã không cung cấp nhân lực và
tiếp liệu cho chính quyền Anh trong khi số nợ nần của nước Anh đã tăng lên do
việc quản trị các vùng đất mới. Để có tiền, Quốc Hội nước Anh đã thông qua Đạo
Luật Tem Thuế (the Stamp Act) vào tháng 3-1765 để gia tăng lợi tức cho nước
Anh. Khi đạo luật này được công bố, Thomas Jefferson đã được nghe Patrick Henry
dùng lời hùng biện, đả kích sự bất công và cho rằng Quốc Hội Anh không có quyền
đánh thuế các thuộc địa Bắc Mỹ. Sau này, Thomas đã kể lại rằng: “Đối với tôi,
ông Henry đã nói hùng hồn giống như Thi Hào Homer đã làm thơ vậy”.
Năm 1767, Thomas Jefferson được nhận
vào Luật Sư Đoàn và bắt đầu hành nghề luật sư một cách khá thành công. Ông đã
chia thời gian qua lại hai địa điểm là Williamsburg và Shadwell. Tại nơi sau
này, ông đã vẽ kiểu và trông coi xây dựng tòa nhà Monticello trên một ngọn đồi
gần đó.
Thomas Jefferson cưới bà góa phụ
Martha Wayles Skelton năm 1772. Bà này là con gái của ông John Wayles, một luật
sư danh tiếng sống gần Williamsburg. Theo chuyện kể lại, chính nhờ âm nhạc mà
ông Thomas đã chiếm được cảm tình của bà Martha vì một nhân vật khác cũng theo
đuổi bà Martha đã phải bỏ cuộc khi nhìn thấy hai người hòa đàn vĩ cầm và dương
cầm (harpsicord). Sau đó, gia đình Jefferson đã an cư tại Monticello, dù cho
tòa nhà lớn này chưa xây xong. Họ có 1 con trai và 5 con gái nhưng chỉ có hai
người con gái sống nổi tới tuổi trưởng thành là Martha (1772-1836) và Mary
(1778-1804). Bà Martha Jefferson qua đời năm 1782, sau 10 năm kết hôn. Ông
Thomas Jefferson đã không lập gia đình nữa mà lo chăm sóc hai người con gái.
3. Nhà chính trị thuộc địa
Tháng 5 năm 1769, ông Thomas
Jefferson được bầu vào Viện Lập Pháp xứ Virginia (the House of Burgesses) và đã
phục vụ tại nơi này cho tới năm 1775. Ông Jefferson không phải là một nhà hùng
biện nhưng đã tỏ ra là một nhà viết luật nhiều khả năng, với biệt tài dùng tiếng
Anh vừa đơn giản, vừa rõ ràng mà các nhà lập pháp khác có kinh nghiệm cũng phải
sớm công nhận.
Trong các năm còn trẻ, Thomas
Jefferson đã thừa hưởng đất đai của cha để lại, gồm các miền đồi núi Piedmond
thuộc xứ Virginia và do đó, đã liên lạc thường xuyên với các người quý tộc
Tidewater và được chấp nhận vào giai cấp này, nhưng tư tưởng chính trị của ông
Jefferson lại thiên về những người di dân gốc Đức, Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan,
là những kẻ khai phá các miền đất hoang thành những nông trại nhỏ. Tới khi được
bầu vào Viện Lập Pháp Virginia, ông Jefferson là nhân viên trong nhóm chính trị
gia gồm Patrick Henry, Richard Henry Lee và Francis Lightfoot Lee. Những nhân vật
này thường tranh cãi với các nhà quý tộc Tidewater trong các buổi thảo luận về
các vấn đề giữa nước Anh với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.
Vào các năm về trước, việc chống đối
đạo luật Tem Thuế tại các xứ thuộc địa đã khiến cho các vấn đề tài chính của nước
Anh không giải quyết được. Vì vậy vào năm 1767, do sự thúc dục của Giám Đốc
Ngân Quỹ Charles Townshend, Đạo Luật Townshend đã được thông qua theo đó thuế
được đánh lên các món hàng như trà, giấy, thủy tinh, chì, sơn… mà người thuộc địa
Bắc Mỹ phải nhập cảng từ nước Anh. Để họp bàn chống lại Đạo Luật Townshend, các
người yêu nước xứ Virginia thường gặp nhau tại căn phòng Apollo của nhà hàng nổi
danh Raleigh Tavern thuộc thành phố Williamsburg, họ chống lại đạo luật kể trên
và chủ trương không nhập cảng hàng hóa từ nước Anh.
Năm 1774, việc tranh cãi với nước Anh
lại dội lên. Ông Jefferson đã đứng đầu việc tổ chức chống nhập cảng và kêu gọi
tất cả các xứ thuộc địa nên họp lại với nhau và cùng bày tỏ phản ứng. Ông được
chọn làm đại biểu cho hạt (county) Albemarle tại Đại Hội Virginia lần thứ nhất,
rồi từ đại hội này, các đại biểu của xứ Virginia được bầu ra để tham dự Quốc Hội
Lục Địa thứ nhất, nhưng vì bị bệnh và không thể tham dự các buổi họp được, ông
Thomas Jefferson đã gửi tới Đại Hội các bài viết nói rõ quan điểm của mình đối
với cuộc khủng hoảng.
Thomas Jefferson đã lý luận rằng Quốc
Hội Anh không có quyền kiểm soát các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã so sánh các
người Anh đầu tiên định cư tại Mỹ Châu giống như những người Saxons đầu tiên tới
nước Anh hàng trăm năm về trước, và những người Saxons này đã xuất phát từ miền
đất mà ngày nay là nước Đức. Như vậy, các người định cư ban đầu khi tới châu Mỹ,
đã dùng tới các quyền tự nhiên (their natural rights) của họ để di dân. Ông
Jefferson cho rằng các thuộc địa hiện nay có thể trung thành với nhà Vua Anh vì
họ được tự do lựa chọn sự trung thành đó. Vào thời bấy giờ, phần lớn các cư dân
của xứ Virginia đã coi các quan điểm của ông Thomas Jefferson là thái quá. Các
quan điểm này đã được in vào năm 1774 thành một tập sách mỏng có tên là “Quan
điểm tóm lược về các quyền lợi của Bắc Mỹ thuộc Anh” (A Summary View of the
Rights of British America).
Mùa xuân năm 1775, ông Thomas
Jefferson tham dự Đại Hội Virginia thứ hai (the Second Virginia Convention). Đại
Hội này đã chọn ông làm một trong các đại biểu để đi họp tại thành phố
Philadelphia. Quốc Hội Virginia đã nhờ ông Jefferson trả lời một bức thư hòa
bình của Lord North, vị Thủ Tướng Anh thời đó. Thủ Tướng North đã đề nghị rằng
Quốc Hội Anh sẽ không đánh thuế các người định cư tại Bắc Mỹ nếu những người
này chịu đánh thuế chính họ. Dù cho thư trả lời đã ôn hòa hơn là tập sách “Quan
Điểm” nhưng ông Jefferson đã bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Anh và nhấn mạnh rằng
một chính quyền phải được lập nên tại Bắc Mỹ cho các người thuộc địa và không
phải cho người Anh. Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chấp thuận bức thư của ông
Jefferson gửi cho Thủ Tướng North.
4. Tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và
nhà làm luật Virginia
Tại Quốc Hội Lục Địa, ông Thomas
Jefferson đã là một nhân vật dẫn đầu. Sau khi cuộc Chiến Tranh Cách Mạng xẩy
ra, ông Jefferson được yêu cầu thảo ra “Bản Tuyên Bố các nguyên do và sự cần
thiết phải cầm lấy võ khí” (a Declaration of the Causes and Necessity of Taking
up Arms). Quốc Hội sau đó đã thấy rằng bản thảo này “quá mạnh” nên đã nhờ một
nhân vật ôn hòa hơn là ông John Dickinson viết ra một bản thay thế nhưng văn bản
mới gồm phần lớn các quan điểm của ông Jefferson.
Vào mùa xuân năm 1776, ý kiến của các
đại biểu Quốc Hội Lục Địa càng nghiêng về nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc
Mỹ. Ngày 7 tháng 6 năm đó, Richard Henry Lee thuộc xứ Virginiă đã đưa ra một bản
nghị quyết nổi danh, đó là “Các Thuộc Địa Liên Hiệp này phải có quyền và phải
là các xứ tự do và độc lập” (these United Colonies are, and of right ought to
be, free and independent states). Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chỉ định một ủy
ban để soạn thảo ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ủy Ban này gồm: Thomas Jefferson,
John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston. Ủy ban đồng
thanh cử ông Jefferson viết ra bản thảo và đã đồng ý với rất ít thay đổi. Ngày
2 tháng 7, Quốc Hội Lục Địa bắt đầu tranh luận và “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” được
chấp thuận vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là công trình
lừng danh nhất của ông Thomas Jefferson. Bản văn đó đã diễn tả được tính hùng
biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lý, biện hộ thế đứng của cuộc Cách Mạng Hoa
Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi
người. Các ý tưởng này phần lớn không phải là mới lạ vì theo lời ông Jefferson,
mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng
những lời văn vừa bình dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ý, và
bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.
Tháng 9 năm 1776, ông Thomas
Jefferson rời khỏi Quốc Hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu
Virginia (the Virginia House of Delegates). Ông Jefferson tự nhận không có khả
năng phục vụ Quân Đội trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhưng lại có thể trở
thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp,
ông Jefferson đã bắt đầu một chương trình cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan
tới việc phân phối đất đai.
Tại xứ Virginia, một số người giàu có
đã chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối
đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu
cử và giới hạn các cơ hội giáo dục. Ông Thomas Jefferson được bầu vào Hội Đồng
Duyệt Xét (the Board of Revisors). Trong hai năm, ông đã xây dựng được một bộ
luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quý tộc cổ xưa và tương lai, để đặt
nền móng cho một chính phủ của nhân dân.
Giai cấp quý tộc căn cứ vào tài sản
và gia đình đã dần dần phải nhường chỗ cho “giai cấp quý tộc của tài năng và đức
hạnh”, vì các đạo luật sau của ông Thomas Jefferson : (1) Đạo luật tiêu hủy luật
giới hạn về thừa kế (the bill abolishing entails), (2) đạo luật tiêu hủy quyền
thừa kế của con trưởng (the bill abolishing primogeniture), (3) đạo luật tự do
tôn giáo (the statute for religious freedom) nhờ đó đã bảo đảm sự tự do trí tuệ
và phân cách “nhà thờ” và “quốc gia”, hủy bỏ các đặc quyền của “nhà thờ Anh Cát
Giáo” (the Anglican church), giới tu sĩ không còn được hưởng lương bổng của
chính quyền và người dân Virginia không còn phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa,
(4) đạo luật về giáo dục tổng quát (the bill for general education) đã cho phép
mọi người, bất kể tài sản hay nguồn gốc chủng tộc, đều được hưởng nền giáo dục
miễn phí. Đạo luật về giáo dục này tuy chưa được thông qua ngay, nhưng đã là nền
móng cho các hệ thống trường học công lập và thư viện miễn phí của Hoa Kỳ.
Vào các thập niên trước, chỉ những
người có đất đai mới có quyền đi bầu cử nhưng nhờ các đạo luật do ông Jefferson
đề xướng, các vùng đất rộng lớn được chia nhỏ ra, khiến cho nhiều người đã có đất
canh tác và số người đi bầu cũng tăng lên. Ông Thomas Jefferson cũng đưa ra các
đạo luật cho phép các di dân có được quốc tịch Mỹ sau khi đã sinh sống tại
Virginia hai năm. Ngoài việc cứu xét lại hệ thống luật pháp của xứ Virginia và
luật đất đai, ông Jefferson còn sửa đổi cả Hình Luật (Criminal Law). Ông
Jefferson còn dự tính chấm dứt chế độ nô lệ nhưng ông đã không làm mạnh vì cho
rằng người dân của xứ thuộc địa này chưa sẵn sàng với việc cải cách đó. Dù sao,
ông Thomas Jefferson vẫn tin tưởng rằng chế độ nô lệ thì sai nhầm về luân lý và
không thể tồn tại vĩnh viễn tại các xứ Bắc Mỹ.
5. Thống Đốc Tiểu Bang và Dân Biểu Quốc
Hội
Trong 2 năm 1779 và 1780, Quốc Hội xứ
Virginia đã bầu ông Thomas Jefferson làm Thống Đốc tiểu bang 2 lần, mỗi nhiệm kỳ
1 năm. Trong thời gian nhậm chức của ông, xứ Virginia đã phải chịu đựng nhiều hậu
quả nặng nề của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. Theo lời yêu cầu của Tướng George
Washington, ông Jefferson đã lấy bớt các tài nguyên và nhân lực bảo vệ xứ
Virginia để dùng trợ giúp Quân Đội Cách Mạng và trong số các nhân vật tới
Virginia tuyển quân, có ông James Monroe và cũng vì thế, hai ông Monroe và
Jefferson đã trở nên đôi bạn lâu năm.
Năm 1781, các đoàn quân Anh đánh chiếm
xứ Virginia. Miền này đã không thể chống cự được và chính ông Jefferson cũng
suýt bị bắt vào ngày 4 tháng 6 năm đó, khi các đội quân của Tướng Banastre
Tarleton càn quét miền Monticello. Ngày 2 tháng 6, nhiệm kỳ thống đốc của ông
Jefferson chấm dứt. Ông Jefferson bị chỉ trích là đã không thể chống cự được
Quân Đội Anh và sự việc này đã làm tổn thương danh dự của ông Jefferson trong
nhiều năm, dù cho một cuộc điều tra về sau đã xóa đi sự kết tội này. Sau đó,
ông Thomas Nelson Jr. là vị sĩ quan đứng đầu đoàn Dân Quân của xứ Virginia đã
thay thế ông Jefferson làm Thống Đốc.
Ông Thomas Jefferson trở lại
Monticello, lòng cay đắng và đã quyết định sẽ mãi mãi từ bỏ mọi công vụ. Ông bắt
đầu viết tác phẩm: “Ghi chép về Tiểu Bang Virginia” (Notes on the State of
Virginia, 1784-85). Đây là cuốn sách chứa đựng rất nhiều dữ kiện của xứ
Virginia và nhiều niềm tin và lý tưởng của ông Jefferson.
Tháng 9 năm 1782, bà vợ Martha của
ông Jefferson qua đời, đã khiến cho ông vừa điên dại, vừa rối trí. Trong nhiều
tháng trường, ông Jefferson đã không cầm bút viết gì cả và nói chuyện với rất
ít người quen. Ông đã nói với bạn bè về cái chết của vợ: “một sự kiện duy nhất
đã xóa sạch mọi chương trình của tôi và đã đặt tôi vào một khoảng trống mà tôi
không còn tinh thần nào để lấp đầy nữa”.
Năm 1783, ông Thomas Jefferson được bầu
vào Quốc Hội. Ông nhận nhiệm vụ này bởi vì ông cho rằng công vụ sẽ khiến cho
tinh thần ông ra khỏi thảm kịch cá nhân. Trong thời gian làm việc tại Quốc Hội,
ông Jefferson lại bận rộn với nhiều công việc làm luật nhưng lần này, trên tầm
vóc quốc gia. Ông đã là chủ tịch của nhiều ủy ban. Ông đã viết ra nhiều bản
phúc trình quan trọng như:
(1) Phúc trình về chính quyền dùng
cho lãnh thổ phía Tây (On Government for the Western Territory): đây là tài liệu
căn bản cho sự phát triển của Hoa Kỳ. Ngay từ đầu cuộc Chiến Tranh Cách Mạng,
nhiều xứ thuộc địa đã tranh giành các miền đất thuộc phía tây của rặng núi
Appalachian. Dưới sự lãnh đạo của ông Thomas Jefferson, tiểu bang Virginia đã từ
bỏ việc giành đất từ năm 1784 và các tiểu bang khác cũng noi theo, nhờ đó Lãnh
Thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) đã được tạo nên. Sau đó chính quyền đã gặp
các vấn đề làm sao xếp đặt và quản trị miền đất mới. Quốc Hội Hoa Kỳ thời đó đã
chỉ định hai ủy ban để cứu xét các vấn đề và ông Jefferson đã là chủ tịch của cả
hai ủy ban. Năm 1784, ông Jefferson đệ trình một bản dự thảo về cách tổ chức
hành chính của các miền đất phía tây theo đó, toàn vùng sẽ được phân chia thành
nhiều tiểu bang mới, mỗi tiểu bang sẽ được chấp nhận vào Liên Bang theo căn bản
hoàn toàn bình đẳng với 13 tiểu bang nguyên thủy.
(2) Nhận xét về cách thiết lập đơn vị
tiền tệ (the Notes on the Establishment of the Money Unit): bản phúc trình này
đã đưa tới việc chấp nhận hệ thống thập phân hiện nay của Hoa Kỳ, gồm các loại
tiền xu bằng đồng, tiền hào (dime) bằng bạc và tiền Mỹ kim (dollar). Loại tiền
5 xu (nickel) và tiền 2 mỹ kim đã không thuộc đề nghị của ông Jefferson.
Ngoài ra còn có các đạo luật về đất
đai năm 1784 và 1785 của ông Jefferson được dùng làm căn bản cho các chính sách
đất đai sau này của Hoa Kỳ.
6. Bộ Trưởng tại Nước Pháp
Vào tháng 5 năm 1784, Quốc Hội Hoa Kỳ
đồng ý cử ông Thomas Jefferson qua nước Pháp để tham gia cùng các ông John
Adams và Benjamin Franklin trong việc thương lượng các hiệp ước thương mại. Tới
năm sau, do ông Franklin từ chức Bộ Trưởng tại Pháp, ông Jefferson được lên kế
tiếp chức vụ. Về sự việc này, có người đã hỏi ông Jefferson: “Có phải Ngài đã
thay thế ông Franklin không? “, thì ông Jefferson đã trả lời bằng câu: “Thưa
không, tôi kế tiếp ông ấy vì không có ai có thể thay thế ông Franklin”. Thực vậy,
ông Thomas Jefferson đã là người theo rất gần các đường hướng của ông Benjamin
Franklin đáng kính. Ông Jefferson đã lưu lại châu Âu cho tới mùa thu năm 1789
và đã khéo léo thi hành các phương pháp ngoại giao trong hòa bình.
Vào thời điểm này, nước Pháp đang sôi
sục vì phong trào Cách Mạng. Các người cải cách đã coi ông Thomas Jefferson là
một nhân vật dẫn đầu về Tự Do vì các bài viết chính trị và những cải tiến luật
pháp của ông tại xứ Virginia. Hầu Tước De Lafayette, một người đã từng chiến đấu
trong cuộc chiến giành Độc Lập của Hoa Kỳ, cũng như các người ôn hòa khác, thường
xin các lời khuyên của ông Jefferson nhưng ông Jefferson đã cố gắng đứng ngoài
nội tình chính trị của nước Pháp. Dù thế, ông vẫn thảo ra Bản Hiến chương các
Dân Quyền (Charter of Rights) đệ trình lên Vua Pháp. Văn kiện này và các tài liệu
khác của ông Jefferson đã nghiêng về đường lối ôn hòa bởi vì, mặc dù có cảm
tình với cuộc Cách Mạng Pháp do những nguyên nhân tương tự như cuộc Cách Mạng
Hoa Kỳ, ông Jefferson nhận thấy rằng đại chúng Pháp chưa sẵn sàng với một chính
phủ có nhân dân đại diện giống như tại Hoa Kỳ.
Khi qua nước Pháp, ông Thomas
Jefferson đã mang theo cô con gái Martha rồi tới năm 1787, cô Mary cũng sang
theo. Cả hai cô con gái này đã theo học trường dòng tại Paris. Cũng trong thời
gian phục vụ tại nước Pháp, ông Thomas Jefferson đã đi thăm nhiều nơi tại châu
Âu và đã học hỏi được rất nhiều, nhất là về Canh Nông và Kiến Trúc. Ông đã quan
tâm tới cách trồng lúa của người dân Ý và đã đưa lén hạt lúa giống về Hoa Kỳ để
trồng tại hai xứ South Carolina và Georgia. Ông Jefferson cũng báo cho Quốc Hội
Hoa Kỳ biết về sự phát minh ra máy dập (a stamping press), loại máy có thể sản
xuất hàng loạt các bộ phận cơ khí. Về kiến trúc, ông Jefferson đã nghiên cứu,
tìm hiểu nhiều dinh thự trong đó có Tòa Nhà Maison Carrée tại Nimes, để sau này
ông vẽ nên Điện Capitol Mới tại Richmond của tiểu bang Virginia.
Vì muốn làm ổn định các công việc tại
Hoa Kỳ, ông Jefferson đã nộp đơn xin rời khỏi nước Pháp vào năm 1789 và ông đã
xuống tầu về xứ vào tháng 10 năm đó.
7. Chính Khách của Hoa Kỳ
Trong thời gian ông Thomas Jefferson
công tác tại nước Pháp, mọi công dân Mỹ đều bận rộn với việc tổ chức chính quyền.
Các nhà chính trị Bắc Mỹ đã hội họp vào năm 1787 và thảo ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ
(the Constitution of the United States). Trong thời kỳ soạn thảo, ông James
Madison, một người bạn, đã gửi tới ông Jefferson một bản thảo và tuy đồng ý với
các điểm nêu ra trong bản thảo này, ông Jefferson đã nhấn mạnh rằng bản văn còn
thiếu phần ghi các dân quyền. Sau khi Bản Hiến Pháp được đồng thanh chấp thuận,
ông James Madison đã bổ túc bằng 10 tu chính án, văn kiện này về sau trở nên Đạo
Luật Dân Quyền (the Bill of Rights).
Ông Thomas Jefferson cùng với hai cô
con gái trở về Monticello, Virginia, trước lễ Giáng Sinh năm 1789, khi đó Bản
Hiến Pháp đã được thông qua và Tổng Thống George Washington đang chờ đợi ông với
chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong Nội Các mới. Ông Jefferson đã nhận nhiệm vụ
này sau một thời gian do dự.
Ông Thomas Jefferson đã là vị Bộ Trưởng
Ngoại Giao đầu tiên của Hoa Kỳ và trong suốt thời gian tại chức, ông Jefferson
đã là trung tâm của một cơn lốc chính trị vừa phức tạp, vừa cay đắng. Sự khác
biệt về chính kiến đã xẩy ra giữa ông Jefferson và ông Hamilton, Bộ Trưởng Ngân
Khố và về sau, với ông John Adams.
Ông Alexander Hamilton (1755-1804)
sinh ngày 11-1-175l tại đảo Nevis, miền Tây Ấn thuộc Anh, với cha mẹ gốc Pháp
và Tô Cách Lan. Khi được 15 tuổi, cậu Alexander được gửi theo học tại trường
King’s College (ngày nay là Đại Học Columbia). Ông Hamilton đầu quân vào đại đội
Pháo Binh của tiểu bang New York, sớm mang lon Đại Úy rồi được giới thiệu với
Tướng George Washington. Từ năm 1777 tới 1781, ông Alexander Hamilton đã phục vụ
trong bộ tham mưu của Tướng George Washington với cấp bậc Trung Tá.
Trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, ông
Hamilton chủ trương rằng quốc gia Hoa Kỳ cần phải có một chính quyền trung ương
thật mạnh, được cai trị bởi những người quý tộc có nguồn gốc hoặc giàu có, hoặc
gia thế, và ông tin tưởng rằng chế độ Quân Chủ giới hạn như của nước Anh là một
hình thức chính quyền tốt đẹp nhất. Cùng với các ông James Madison và John Jay,
ông Alexander Hamilton đã viết một loạt bài luận văn chính trị và ký tên là
Nhóm Liên Bang (the Federalist). Các luận văn này ngày nay được coi là các bài
bình luận cổ điển về Hiến Pháp (Federalist Papers). Ông Hamilton cũng đồng ý việc
Quốc Hội nhận lãnh các món nợ nần của các tiểu bang trong cuộc Chiến Tranh Cách
Mạng. Đề nghị này đã gây nên các phản đối mãnh liệt, nhất là tại tiểu bang
Virginia và các tiểu bang phía nam, là các nơi đã trả hết nợ. Các tiểu bang này
không muốn trả nợ dùm cho các địa phương khác.
Trái ngược với ông Alexander Hamilton
thiên về chính quyền trung ương Liên Bang, ông Thomas Jefferson lại tin tưởng
mãnh liệt vào quyền lợi của tiểu bang. Ông Hamilton thân Anh Quốc thì ông Jefferson
lại ưa thích cuộc Cách Mạng Pháp. Ông Jefferson chống đối các chương trình nâng
đỡ kỹ nghệ và vận chuyển đường biển của ông Hamilton vì ông muốn Hoa Kỳ là một
quốc gia của các nhà nông. Đề nghị của ông Hamilton về Ngân Hàng Quốc Gia
(national bank) cũng làm cho ông Jefferson lo ngại, cho rằng một ngân hàng như
vậy sẽ đưa đến việc đầu cơ tài chính và làm tổn thương các quyền lợi của nông
dân. Cuối cùng, Tổng Thống George Washington đã thiên về ý kiến của ông
Hamilton và chấp thuận việc thành lập Ngân Hàng Quốc Gia.
Ông Jefferson đã làm phát triển lý
thuyết “cấu tạo giới hạn” (strict construction) theo đó chính quyền trung ương
chỉ nên có các quyền hạn được nói rõ trong Bản Hiến Pháp, trong khi ông
Hamilton đáp lại bằng cách “cắt nghĩa rộng rãi” (loose interpretation) của Hiến
Pháp theo đó những gì mà Hiến Pháp Hoa Kỳ không rõ ràng chối bỏ thì chính quyền
trung ương có thể thi hành. Hai nhân vật trái ngược nhau này đã là các nhà lãnh
đạo của hai đảng phái chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ: đảng Liên Bang (the
Federalists) theo các nguyên tắc của ông Hamilton và đảng Dân Chủ-Cộng Hòa (the
Democratic Republicans) với ông Jefferson để rồi về sau trở thành đảng Dân Chủ
ngày nay (the modern Democratic party).
Mặc dù các bất đồng và thù hận rõ
ràng đối với ông Alexander Hamilton, ông Thomas Jefferson vẫn ở trong Nội Các
cho tới cuối năm 1793 vì lòng trung thành đối với Tổng Thống George Washington.
Đối với các chính sách đối ngoại, Tổng
Thống Washington thường ủng hộ đường lối của ông Jefferson nhưng lại muốn Hoa Kỳ
đứng trung lập trong các cuộc tranh chấp giữa hai nước Anh và Pháp. Ông
Jefferson về mặt đối ngoại cũng đã cố gắng vận động nước Anh từ bỏ các đồn lũy
nằm trong Lãnh Thổ Tây Bắc, đồng thời với việc đòi hỏi lưu thông tự do dành cho
các tầu thuyền trên giòng sông Mississippi.
Vào cuối nhiệm kỳ Tổng Thống thứ nhất
của ông George Washington, ông Jefferson đã cùng các nhân vật nội các khác yêu
cầu Tổng Thống Washington lãnh thêm một nhiệm kỳ thứ hai, trong khi nội tâm của
ông lại quá chán nản với công việc hành chính và muốn vượt thoát ra khỏi “nghề
làm chính trị đáng ghét”. Cuối cùng, ông Jefferson đã van nài được Tổng Thống
Washington chấp thuận đơn xin từ chức của ông.
Tháng giêng năm 1794, ông Jefferson
trở lại Monticello, hy vọng tìm lại hạnh phúc nơi các người bạn hàng xóm và
sách vở, bận rộn với các công việc nông trại và có thời giờ sống cho mình.
Nhưng cuộc sống ẩn dật này đã không kéo dài được lâu. Các người Dân Chủ-Cộng
Hòa đã ủng hộ và đề nghị ông Thomas Jefferson làm ứng viên, ra tranh cử chức vụ
Tổng Thống với ông John Adams, một ứng viên của đảng Liên Bang. Cuối cùng, ông
Adams đã nhận được 71 phiếu cử tri và được bầu làm Tổng Thống. Ông Jefferson đứng
thứ hai và theo luật lệ thời bấy giờ, đắc cử Phó Tổng Thống. Trong thời gian tại
chức này, ông Jefferson đã không hoạt động tích cực được vì các nhân viên hành
chính cao cấp phần lớn thuộc đảng Liên Bang. Ông Jefferson bèn tìm cách củng cố
đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và đã đạt được sự ủng hộ của các nông gia cỡ nhỏ, các người
định cư biên giới và giới lao động miền Bắc. Liên lạc giữa hai ông Jefferson và
ông Adams càng trở nên căng thẳng cho đến khi cả hai nhân vật này tuyệt giao với
nhau vào năm 1800.
Trong thời gian làm Phó Tổng Thống và
do chủ tọa Thượng Viện, ông Thomas Jefferson đã viết ra cuốn “Sách Hướng Dẫn
các Thực Hành Nghị Viện” (Manual of Parliamentary Practice) mà ngày nay, Quốc Hội
Hoa Kỳ còn xử dụng nhưng với hình thức đã được sửa đổi.
Vào nhiệm kỳ Tổng Thống của ông John
Adams, đã có nhiều chỉ trích chính quyền từ các báo chí và các diễn giả. Để hạn
chế các cuộc tấn công này, Quốc Hội Hoa Kỳ của thời đó đã thông qua vào năm
1798 bốn biện pháp gọi là “Các đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn” (the
Alien and Sedition Acts). Các biện pháp này gồm:
(1) Đạo luật quốc tịch
(Naturalization act): người ngoại quốc phải cư ngụ tại Hoa Kỳ đủ 14 năm mới được
phép nhập tịch,
(2) Đạo luật ngoại kiều (alien act):
cho Tổng Thống có quyền trục xuất các ngoại kiều nào bị xét là “nguy hiểm cho
hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ”,
(3) Đạo luật ngoại kiều thù nghịch (alien
enemies act, ngày nay còn áp dụng): khiến cho các công dân của một quốc gia thù
địch có thể bị trục xuất hay bị cầm tù trong thời chiến,
(4) Đạo luật chống nổi loạn (sedition
act): cho phép kết án nặng nề các kẻ âm mưu hay có hành động chống chính quyền.
Tại khắp nơi, dân chúng đã lên tiếng
phản đối các đạo luật kể trên vì các đạo luật này tước đi các tự do ngôn luận
và báo chí, nhất là của đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và ông Jefferson đã đứng đầu công
cuộc chống đối các hạn chế đó. Ông Jefferson và ông James Madison đã bí mật
giúp đỡ việc soạn thảo ra các “Nghị Quyết năm 1798” (the Resolutions of 1798) của
các Viện Lập Pháp Virginia và Kentucky theo đó, các tiểu bang có quyền vô hiệu
hóa các hành động của Liên Bang bị coi là vi hiến. Mục đích của các nghị quyết
này là xét lại giá trị của các đạo luật đã được chính quyền Liên Bang thông qua
để bảo vệ các quyền lợi của tiểu bang và duy trì các tự do cá nhân. 30 năm về
sau, ông John Calhoun đã áp dụng quan điểm này vào lý thuyết vô hiệu hóa các đạo
luật liên bang (theory of nullification of federal laws).
8. Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ
Năm 1800, các đảng viên đảng Dân Chủ-Cộng
Hòa lại chỉ định ông Jefferson làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Aaron
Burr của tiểu bang New York làm ứng viên Phó Tổng Thống. Đảng Liên Bang tái đề
cử Tổng Thống John Adams và chọn nhà ngoại giao Charles C. Pinckney của tiểu
bang South Carolina đứng chung liên danh. Các đảng viên Liên Bang đã cảnh cáo
dân chúng Mỹ rằng ông Jefferson là một nhà “cách mạng”, một kẻ vô chính phủ và
một người không có đức tin. Một tu sĩ của miền Connecticut đã viết để ám chỉ
ông Jefferson: “tôi không tin rằng Thượng Đế sẽ để một kẻ vô thần ngồi trên đầu
của Quốc Gia”. Nhưng đảng Liên Bang đã chia rẽ nội bộ. Ông Hamilton đã cãi nhau
với ông Adams và đã viết ra tập sách mỏng chỉ trích. Thêm vào đó là ảnh hưởng của
đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn, tất cả đã làm lợi cho đảng Dân Chủ-Cộng
Hòa.
Tới kỳ kiểm phiếu, ông Jefferson
giành được 73 phiếu cử tri so với 65 phiếu của ông Adams. Các người thuộc đảng
Dân Chủ-Cộng Hòa đã ăn mừng nhưng rồi họ lại sớm thất vọng khi biết tin mỗi cử
tri Dân Chủ-Cộng Hòa đã bỏ một phiếu cho ông Jefferson và một phiếu cho ông
Burr, như vậy hai ông này đã bằng phiếu nhau dù rằng ý định của cử tri đoàn là
bầu ông Jefferson làm Tổng Thống. Tới lúc này, Viện Dân Biểu (the House of
Representatives) phải đứng ra dàn xếp. Viện này lại gồm phần lớn những người
thuộc đảng Liên Bang, họ ưa thích ông Burr hơn bởi vì họ cho rằng ông Burr dễ
điều khiển hơn ông Jefferson. Nhưng ông Hamilton lại bất tín nhiệm ông Burr hơn
là ông Jefferson, nên dùng ảnh hưởng khiến cho đa số đảng viên Liên Bang ủng hộ
ông Jefferson. Cuộc bỏ phiếu cuối cùng diễn ra vào ngày 17-2-1801, đã khiến ông
Burr trở thành Phó Tổng Thống. Về sau, đã có một tu chính án theo đó mọi cử tri
trong cử tri đoàn phải bỏ một phiếu cho chức vụ Tổng Thống và một phiếu khác
cho chức vụ Phó Tổng Thống.
Ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống
Hoa Kỳ đầu tiên được bầu trong cuộc tranh cử lưỡng đảng, vị đầu tiên tuyên thệ
nhậm chức tại Thủ Đô D.C. và làm việc tại Tòa Bạch Cung (the White House).
Trong bài diễn văn nhậm chức, ông Jefferson đã nói năng ôn hòa hơn lúc tranh cử.
Ông tuyên bố rằng: “mọi khác biệt về ý kiến không phải là sự khác biệt về
nguyên tắc” và sau một thời gian ngắn, các người thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã
phải chấp nhận nhiều ý tưởng của các đảng viên Liên Bang.
Do không là một diễn giả hùng biện,
ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống đầu tiên gửi Thông Điệp Hàng Năm (annual
message) tới Quốc Hội, phương thức này đã được các Tổng Thống về sau noi theo
cho tới năm 1913, khi Tổng Thống Woodrow Wilson lập lại thủ tục trình bày các vấn
đề quốc gia trước Quốc Hội.
Sau lễ nhậm chức, ông Thomas
Jefferson dọn vào “Tòa Nhà của Tổng Thống” (the President’s House), nơi này được
xây cất nhưng chưa xong hẳn. Ông Jefferson đã cảm thấy cô đơn trong một dinh thự
mà theo lời ông mô tả là “một tòa nhà bằng đá, đủ lớn để chứa hai Hoàng Đế, một
vị Giáo Hoàng và một vị Lạt Ma”. Do bà vợ Martha của ông Jefferson đã qua đời
hơn 18 năm về trước, bà Martha Randolph, con gái của ông, đôi khi phải đóng vai
bà chủ nhà trong các cuộc tiếp tân và người cháu của ông Jefferson tên là James
Randolph đã là đứa bé đầu tiên chào đời tại nơi này. Công việc trong Tòa Nhà Trắng
này thường phải nhờ tới bà Dolley Madison, bà vợ ông Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Tại Tòa Bạch Cung, ông Thomas
Jefferson đã giữ lại người đầu bếp gốc Pháp và cố gắng làm giản dị các nghi thức,
cho phép các quan khách bắt tay Tổng Thống thay vì cúi đầu, và trong các bữa
ăn, ông Jefferson đã dùng tới loại bàn tròn để mọi người đều cảm thấy quan trọng
ngang nhau.
Khi nắm quyền hành Tổng Thống, ông
Thomas Jefferson chủ trương rằng chính quyền Liên Bang nên đóng vai trò càng nhỏ
càng hay và với sự giúp đỡ của Bộ Trưởng Ngân Khố Albert Gallatin, một chính
sách kinh tế giới hạn được thi hành. Chính quyền giảm bớt các ngân khoản của
các bộ sở, đặc biệt là của Lục Quân và Hải Quân.
Ông Thomas Jefferson cũng cho rằng
các chức vụ liên bang nên được căn cứ vào sự xứng đáng (merit). Vì các văn
phòng cao cấp đều do đảng viên Liên Bang nắm giữ, ông Jefferson đã thấy rằng
“các chức vụ bỏ trống vì tử vong rất ít, còn vì từ chức thì không có”, nên ông
Jefferson đã tìm cách loại ra một số người thuộc đảng Liên Bang và thường chỉ định
người thay thế thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa khiến cho vào cuối nhiệm kỳ thứ hai
của ông, phần lớn các chức vụ quan trọng của Quốc Gia lại do đảng viên Dân Chủ-Cộng
Hòa phụ trách. Điều này đã trở thành “hệ thống hư hỏng” (spoils system) và bị
chỉ trích.
Trong thời gian làm Tổng Thống, ông
Thomas Jefferson đã duyệt xét lại rất nhiều đạo luật, công bố nhiều tu chính
án. Ông Jefferson cũng tìm cách kiểm soát Tối Cao Pháp Viện nhưng không thành
công, trong khi đó Tối Cao Pháp Viện lại có thể tuyên bố một đạo luật đã được
thông qua bởi Quốc Hội là vi hiến, điều này đã làm cho ngành Tư Pháp có thêm
quyền hành, rồi các vụ truy tố quan tòa đã khiến cho về sau có quy định rằng
các thay đổi chính trị sẽ không ảnh hưởng tới nhiệm kỳ của các vị thẩm phán.
9. Chiến tranh với Tripoli và việc
bành trướng lãnh thổ
Vào cuối thể kỷ 18, bọn cướp biển
Barbary thuộc miền Bắc Phi thường hay tấn công các tầu buôn của nhiều quốc gia,
đòi tiền chuộc hay tiền đóng góp. Trong vòng 10 năm, Hoa Kỳ đã phải nạp triều cống
cho xứ Tripoli tới 2 triệu mỹ kim. Sự kiện này đã khiến ông Thomas Jefferson
luôn nhắc nhở chính phủ Hoa Kỳ phải có các hành động trừng phạt các quân cướp
biển. Năm 1801, Tripoli đánh phá các tầu buôn Hoa Kỳ để đòi thêm tiền. Hạm đội
của Hoa Kỳ vào thời đó còn nhỏ và yếu, nhưng đã vây hãm các hải cảng của
Tripoli, oanh tạc các pháo đài và bắt buộc các bọn cướp biển phải kính nể các tầu
thuyền mang lá cờ Mỹ. Đây là cuộc chiến tranh đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ với
một nước khác, tuy chưa mang lại các thắng lợi cụ thể vào thời gian đó, nhưng
đã khiến cho uy tín của Hải Quân Hoa Kỳ được tăng thêm.
Ngay từ thời phục vụ tại Quốc Hội,
ông Thomas Jefferson đã rất quan tâm tới vùng đất phía tây của giòng sông
Mississippi. Vào đầu năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã giành được một số tiền
2,500 mỹ kim của Quốc Hội để thám hiểm lãnh thổ trải dài từ miền đất Ohio tới tận
bờ biển Thái Bình Dương.
Ông Jefferson đã chọn lựa người bí
thư trẻ tuổi của ông là Đại Úy Meriweather Lewis đứng đầu công cuộc thám hiểm.
Đại Úy Lewis lại mời một người bạn cộng tác là Trung Úy William Clark. Đây là
hai sĩ quan đã quen thuộc với các sắc dân da đỏ và có nhiều kinh nghiệm tại các
miền biên giới. Trước khi đoàn thám hiểm ra đi, có tin đồn rằng Vua Napoléon của
nước Pháp đã bán cho Hoa Kỳ miền đất Louisiana bao la, vì thế cuộc thám hiểm
này sẽ là tìm hiểu lãnh thổ của Hoa Kỳ.
Các kế hoạch thám hiểm đã được nghiên
cứu kỹ. Đại Úy Lewis học cách vẽ bản đồ và cách xác định kinh tuyến và vĩ tuyến.
Đoàn thám hiểm sẽ đi theo giòng sông Missouri tới tận ngọn, rồi băng qua Rặng
Núi Phân Chia Lục Địa (the Continental Divide), sau đó men theo giòng sông
Columbia tới cửa sông. Mùa đông năm 1803-04, đoàn thám hiểm tập họp tại
Illinois, gần St. Louis, gồm hai nhà lãnh đạo là Lewis và Clark, 14 binh sĩ, 9
người dân biên giới từ Kentucky, hai người Pháp chèo thuyền và một anh hầu tên
là York.
Ngày 14-5-1804, đoàn thám hiểm bắt đầu
theo giòng sông Missouri, qua Iowa, tới vùng Yellowstone ngày 26-4-1805 rồi tới
thác nước Great Falls của miền Missouri vào ngày 13-6. Sau đó vào ngày 25, họ tới
Three Forks, nơi hội tụ của 3 giòng sông và họ đã đặt tên cho 3 con sông này là
Madison, Jefferson và Gallatin. Khi đi men theo giòng sông Jefferson lớn nhất,
đoàn thám hiểm đã tới xứ của người da đỏ Shoshone, vượt rặng núi cao Bitterroot
và tới được giòng sông Clearwater. Sau 18 tháng trường vượt núi, lội sông, ngày
7-11-1805, đoàn thám hiểm này đã tới được cửa sông Columbia, bên bờ Thái Bình
Dương.
Ngày 23-3-1806, đoàn thám hiểm Lewis
và Clark quay trở lại nhưng theo hai lối: Trung Úy Clark đi theo giòng sông
Yellowstone và Missouri còn Đại Úy Lewis men theo nhánh Marias của giòng sông
đó và cuối cùng, họ đã gặp nhau tại St. Louis vào ngày 23-9-1806 sau 2 năm, 4
tháng, 9 ngày với hành trình dài 9,650 cây số.
Nhờ cuộc thám hiểm của Đại Úy Lewis
và Trung Úy Clark, các người định cư và buôn bán da thú đã lần theo con đường
thám hiểm kể trên để đi về hướng tây và cũng nhờ đó mà sau này Hoa Kỳ đòi quyền
sở hữu miền đất Oregon.
Cũng vào nhiệm kỳ của Tổng Thống
Thomas Jefferson, dân số thuộc lãnh thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) tăng
lên rất nhanh. Năm 1803, tiểu bang Ohio tham gia vào Liên Bang và là tiểu bang
thứ 17. Năm 1804, chính quyền Hoa Kỳ lại khuyến khích việc định cư tại phía tây
bằng cách cắt các mảnh đất rộng 130 mẫu (hectares) xuống còn 65 mẫu để bán cho
dân chúng và người nào có được 80 mỹ kim tiền mặt đều có thể đặt mua một nông
trại miền biên giới.
Tổng Thống Thomas Jefferson đã thực
hiện được nhiều công trình nhưng thành tích lớn lao nhất của ông là đã mua được
Lãnh Thổ Louisiana (the Louisiana Territory). Đây là một sáng kiến mới để mở
mang bờ cõi mà không phải dùng đến chiến tranh như cách làm của các quốc gia cổ
của châu Âu.
Lãnh Thổ Louisiana là một miền đất rộng
bao la, nằm giữa giòng sông Mississippi và rặng núi Rocky, được chuyển nhượng
do một hiệp ước từ nước Pháp sang nước Tây Ban Nha vào năm 1762. Tới đầu thế kỷ
19, nước Pháp là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới nên vào năm 1800, Hoàng
Đế Napoléon đã bắt ép nước Tây Ban Nha yếu hèn phải trả miền đất New Orleans và
lãnh thổ Louisiana cho Đế Quốc Pháp. Đây là một tin rất xấu đối với các nông
gia Mỹ. Các người Mỹ định cư tại phía tây rặng núi Appalachians rất thèm muốn
thành phố New Orleans vì quốc gia nào chi phối được thành phố này sẽ kiểm soát
được giòng sông Mississippi. Các nông gia miền tây của lãnh thổ Hoa Kỳ vào thời
đó mong muốn làm chủ được giòng sông lớn lao này bởi vì nhờ có giòng sông, họ
đã chuyên chở gia súc, ngũ cốc cùng các sản phẩm khác.
Khi miền đất Louisiana thuộc về nước
Tây Ban Nha, điều này không là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ, nhưng nếu lãnh thổ
này thuộc về nước Pháp thì nền dân chủ và việc bành trướng của Hoa Kỳ sẽ bị de
dọa. Ngoài ra nước Pháp lại là cường quốc số một, Hoa Kỳ không dễ gì xin được
các ân huệ. Nhưng, nước Anh đã đánh thắng nước Pháp trên mặt biển, làm tan biến
giấc mộng đế quốc thuộc địa của Napoléon. Hải quân Anh đã làm chủ Đại Tây Dương,
gây khó khăn cho nước Pháp trong việc kiểm soát các miền đất thuộc Bắc Mỹ. Ông
Bộ Trưởng Hoa Kỳ tại Pháp thời bấy giờ là Robert Livingston đã nêu rõ điểm này
với Vua Napoléon và sau đó, Hoàng Đế Pháp quyết định bán đi lãnh thổ Louisiana.
Vào năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã
được Quốc Hội chấp thuận một ngân khoản 2 triệu mỹ kim để “chi xài đặc biệt”.
Ông Jefferson liền cử ông James Monroe sang Pháp giúp Bộ Trưởng Livingston
thương lượng với nước Pháp. Trước khi ông Monroe tới Paris, ông Livingston đã đề
nghị với vị Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là Talleyrand để mua một cách khiêm nhường
thành phố New Orleans thì được ông Talleyrand hỏi bằng câu: “Ông trả giá bao
nhiêu cho cả vùng Louisiana? “, điều này đã làm cho ông Livingston ngỡ ngàng.
Ông James Monroe tới nước Pháp với ủy
quyền của Tổng Thống để mua thành phố New Orleans và vùng Florida, với số tiền
không quá 10 triệu mỹ kim, nhưng lại được đề nghị mua tất cả vùng lãnh thổ thuộc
Pháp với giá tiền khoảng 15 triệu mỹ kim. Mặc dù hai nhà ngoại giao Mỹ này không
có thẩm quyền chi ra một số tiền to lớn đến như thế nhưng họ cũng đã ký kết hiệp
ước mua bán vào ngày 30-4-1803. Lãnh thổ mua được rộng 2,292,139 cây số vuông,
gần bằng diện tích của Hoa Kỳ vào thời đó.
Khi được biết tin việc mua đất đó
hoàn thành, Tổng Thống Thomas Jefferson đã phải bàng hoàng, ông lo lắng không
rõ chính phủ theo Bản Hiến Pháp, có quyền nhận thêm lãnh thổ rộng lớn này vào
Liên Bang hay không? Dù còn nghi ngại sự hợp hiến trong việc sát nhập một vùng
đất quá rộng lớn như thế, Tổng Thống Jefferson vẫn đệ trình hiệp ước mua bán
lên Thượng Viện Hoa Kỳ và bản hiệp ước đã được phê chuẩn với phiếu thuận là 24
trên 7. Ông Jefferson về sau đã nói đùa rằng ông đã “làm dãn Bản Hiến Pháp tới
khi Văn Bản này bị dạn nứt”.
Nhờ thành tích của Tổng Thống
Jefferson, từ tháng 12 năm 1803, lá cờ Hoa Kỳ đã tung bay trên thành phố New
Orleans và nhờ việc mua đất đai, Hoa Kỳ đã kiểm soát được giòng sông
Mississippi và diện tích của Hoa Kỳ đã tăng lên gấp đôi. Trước vấn đề này, quan
điểm của các nhân viên nội các đã khác biệt nhau. Các đảng viên Liên Bang thuộc
miền Tân Anh Cát Lợi (the New England Federalists) tỏ ra tức giận vì nhiều tiểu
bang mới sát nhập vào Hoa Kỳ sẽ làm tăng thêm số phiếu tại Thượng Viện, như vậy
có lợi cho các tiểu bang miền Nam và miền Tây. Về sau, người Mỹ đã nhận rõ rằng
giá tiền để mua Lãnh Thổ Louisiana chỉ là một phần rất nhỏ bé so với giá trị thực
của miền đất đó.
10. Nhiệm kỳ Tổng Thống lần thứ hai
Năm 1804 có cuộc bầu cử Tổng Thống. Đất
nước thịnh vượng đã là một lý do để ông Thomas Jefferson được dễ dàng đề cử và
đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã chọn ông Thống Đốc tiểu bang New York là ông George
Clinton làm ứng viên Phó Tổng Thống.
Vào lúc này, một nhóm các đảng viên
Liên Bang thuộc miền đông bắc đã e ngại việc mở rộng đất nước sẽ làm yếu đi vị
trí và ảnh hưởng của miền Tân Anh Cát Lợi. Họ muốn bầu ông Aaron Burr làm Thống
Đốc New York để ông Burr mang tiểu bang New York cùng với miền Tân Anh Cát Lợi
tách ra khỏi Liên Bang Hoa Kỳ. Ông Alexander Hamilton là người đã làm thất bại
âm mưu này.
Ông Aaron Burr (1756-1836) sinh tại
Newark, New Jersey, vào ngày 6-2-1756, là con của Mục Sư Aaron Burr, vị Viện
Trưởng Đại Học New Jersey (ngày nay là Đại Học Princeton) và là cháu của nhà thần
học danh tiếng theo đạo Calvin tên là ông Jonathan Edwards. Do cha mẹ chết sớm,
ông Aaron Burr và người em gái Sarah được một người chú nuôi dạy.
Khi ông Burr đang theo học Luật Khoa
thì cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ xẩy ra, ông đã tham gia vào Quân Đội Cách Mạng và phục
vụ ban tham mưu của Tướng George Washington trong một thời gian ngắn. Ông Burr là
một sĩ quan dễ mến và có tài nhưng ông đã từ chức vì thiếu sức khỏe và cũng vì
bất mãn với chính trị. Ông được nhận vào Luật Sư Đoàn New York năm 1782 và hành
nghề Luật Sư khá thành công. Ông Burr cưới góa phụ của một sĩ quan Anh và có một
con gái tên là Theodosia.
Từ năm 1784, ông Aaron Burr đã giữ
nhiều chức vụ của tiểu bang rồi tới năm 1791, trở thành Thượng Nghị Sĩ sau khi
đánh bại người cha vợ của ông Hamilton là Tướng Philip Schuyler.
Trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm
1804, đảng Liên Bang đã thất bại. Ông Thomas Jefferson đoạt được 162 phiếu cử
tri, so với 14 phiếu dành cho ứng viên đảng Liên Bang là ông Charles C.
Pinckney, một luật sư từ miền Charleston, South Carolina. Như vậy nhiệm kỳ Tổng
Thống thứ hai của ông Thomas Jefferson đã bắt đầu mà “không có một cụm mây đen
nào ở chân trời”, theo như lời ông Jefferson nói, thế nhưng bão táp đã kéo đến.
Cũng vào năm 1804, cựu Phó Tổng Thống
Burr đã gặp thất bại cay đắng trong cuộc tranh cử chức Thống Đốc tiểu bang New
York. Ông Burr cho rằng chính ông Alexander Hamilton đã ảnh hưởng xấu tới các
cơ hội chính trị của ông do các lời dèm pha, vì vậy ông Aaron Burr đã thách một
cuộc đấu súng với ông Hamilton. Ông Hamilton bất đắc dĩ phải nhận lời. Sáng sớm
ngày 11 tháng 7 năm 1804, tại Weehawken trên bờ sông Hudson thuộc tiểu
bang New Jersey, hai chính khách Hamilton và Burr đã chĩa súng vào mặt nhau.
Phát súng đầu tiên đã làm ông Hamilton bị thương rồi qua đời vào ngày hôm sau.
Cái chết của ông Hamilton đã làm ô
danh ông Burr. Ông Burr còn bị truy tố về tội sát nhân tại New York và New
Jersey. Ông Burr còn trù liệu một âm mưu tại miền Tây Hoa Kỳ vào năm 1806. Với
sự trợ giúp của một người Ái Nhĩ Lan giàu có lập nghiệp trên một hòn đảo của
giòng sông Ohio với ý định tuyển quân và chiếm cứ một vùng ở phía tây của miền
Mississippi. Tướng James Wilkinson, Thống Đốc Lãnh Thổ Louisiana, đã trình bày
cuộc âm mưu này với Tổng Thống Jefferson. Tổng Thống Jefferson đã cho lệnh bắt
ông Burr, đưa về Richmond và xét xử về tội phản loạn. Nhưng vị Chánh Án Tối Cao
Pháp Viện là ông John Marshall (1755-1835) đã cứu xét vụ án này quá hạn hẹp khiến
cho bồi thẩm đoàn tha bổng ông Aaron Burr.
Tháng 3 năm 1803 nổ ra cuộc chiến
tranh giữa hai nước Anh và Pháp. Tổng Thống Jefferson nhận thấy rằng nhiệm vụ
chính của ông là giữ cho Hoa Kỳ ở ngoài cuộc chiến. Vào thời đó, hải quân Anh
và Pháp tìm cách đánh phá các tầu biển của nhau, kết quả là phần lớn công cuộc
thương mại giữa châu Âu và miền Tây Ấn lọt vào tay các nhà buôn Hoa Kỳ. Tại Hoa
Kỳ, hai ngành thương mại và đóng tầu phát triển rất nhanh, cần đến hàng ngàn thủy
thủ, những người này phần lớn tới từ miền Tân Anh Cát Lợi song cũng có nhiều kẻ
đào ngũ từ các tầu thuyền của nước Anh. Cũng vào thời gian này, nước Anh cần tới
nhiều thủy thủ nên các tầu biển của Anh thường chặn bắt các tầu biển Hoa Kỳ
trên biển cả để tìm xét các thủy thủ Anh đào ngũ. Nhưng làm sao phân biệt dễ
dàng giữa một người Anh và một người Mỹ, vì vậy hàng ngàn người Mỹ đã bị bắt và
bị cưỡng bách đưa vào Hải Quân Anh.
Cuộc chiến tranh tại châu Âu giữa nước
Anh và nước Pháp càng gia tăng cường độ, càng khiến cho cả hai phe lâm chiến
không quan tâm đến quyền lợi của các quốc gia trung lập. Bằng đạo luật Berlin
và Milan năm 1806 và 1807, Napoléon công bố rằng nước Pháp sẽ bắt giữ tất cả
các tầu thuyền hướng về hay từ các hải cảng của nước Anh, trong khi đó chính phủ
Anh ra lệnh phong tỏa các hải cảng của Pháp và của các nước đồng minh với Pháp.
Tháng 6 năm 1807, chiếc tầu chiến Anh
Leopard đã chặn con tầu Hoa Kỳ tên là Chesapeake, đòi tìm xét các lính đào ngũ.
Hạm trưởng của tầu Mỹ đã không tuân lệnh nên tầu Anh Leopard đã tấn công tầu Mỹ.
Tổng Thống Thomas Jefferson lúc đó biết
rằng Hoa Kỳ chưa được chuẩn bị về chiến tranh và không rõ nên thiên về nước Anh
hay nước Pháp. Cách đối phó của ông Jefferson là đóng cửa thị trường Mỹ đối với
hàng hóa của cả hai nước và cũng không bán tiếp liệu của Hoa Kỳ cho hai nước
Anh và Pháp đó. Năm 1807, đạo luật “Cấm Vận” (the Embargo Act) đã cấm chỉ việc
xuất cảng từ Hoa Kỳ và ngăn cản các con tầu biển Mỹ đi vào các hải cảng ngoại
quốc.
Lệnh cấm vận đã làm thiệt hại Hoa Kỳ
hơn là gây tổn thất cho hai nước Anh và Pháp. Hàng ngàn con tầu biển của Mỹ nằm
bất động, thủy thủ và công nhân đóng tầu thất nghiệp, hàng xuất cảng chất đống
trong các nhà kho. Kinh tế của miền nam Hoa Kỳ cũng bị thiệt hại khiến cho ông
Jefferson bị mất đi các sức ủng hộ. Vào thời kỳ này, nhiều người Mỹ đã không
tôn trọng pháp luật, nạn buôn lậu phát triển. Chính phủ Hoa Kỳ vì thế phải tăng
cường việc phòng thủ bờ biển.
Trước sự việc nan giải này, Tổng Thống
Thomas Jefferson càng ngày càng phải thiên về việc kiểm soát của Liên Bang và
ông đã bình luận rằng: “Luật cấm vận này chắc chắn là một vấn đề gây rắc rối nhất
mà chúng tôi phải giải quyết”. Sau 14 tháng, nhiều người thấy rằng luật cấm vận
đã không gây được ảnh hưởng nào đối với cả hai nước Anh và Pháp. Dân chúng Mỹ
phản đối khiến cho Quốc Hội phải xét lại sự việc vào tháng 3 năm 1809 và thông
qua một đạo luật mền dẻo hơn (the Non-Intercourse Act).
Vào năm 1808, nhiều người mong đợi
ông Jefferson ra tranh cử một lần nữa nhưng ông Thomas Jefferson đã từ chối, vì
muốn theo gương của ông George Washington là rút lui sau hai nhiệm kỳ. Ông
Thomas Jefferson cũng nói rõ cho mọi người biết là ông ước mong ông James Madison
sẽ là vị Tổng Thống kế tiếp. Và ông Madison đã thắng cử dễ dàng.
11. Các năm về cuối
Ông Thomas Jefferson rời khỏi chức vụ
Tổng Thống vào năm 1809, lúc 65 tuổi. Ông đã cảm thấy tự do khi dùng thời giờ
cho các bạn bè, sách vở, thư từ, đất đai… và để vun trồng “các sự theo đuổi trầm
lặng của Khoa Học”. Ông đã viết: “Không một người tù nào cảm thấy nhẹ nhàng hơn
tôi khi tôi trút được gánh nặng quyền lực”.
Ông Thomas Jefferson đã trải qua 15
năm cuối của cuộc đời, góp công vào việc thành lập Đại Học Virginia (UVA) tại
thành phố Charlottesville, khai trương vào năm 1825.
Ông Thomas Jefferson đã đóng góp rất
lớn lao vào các nguyên tắc của nền Dân Chủ Hoa Kỳ. Cùng với Tổng Thống George
Washington, ông Jefferson là một trong các nhân vật vĩ đại của cuộc Cách Mạng Bắc
Mỹ mà danh tiếng đã vang lừng trên khắp Thế Giới. Ông Jefferson đã ủng hộ các
Quyền của Con Người, các tự do ngôn luận, tôn giáo và báo chí… và cũng vì tôn
trọng nền tự do sau này mà ông đã phải chịu đựng nhiều vụ nói xấu của các tờ
báo vô trách nhiệm.
Ông Thomas Jefferson còn là một nhà
canh nông. Ông đã phát minh ra một thứ máy cày (mold board plow) được nông dân
Mỹ dùng trong nhiều năm. Ông đã đưa loại máy đập lúa từ châu Âu vào Hoa Kỳ và
khuyến khích ông Robert Mills trong việc phát triển loại máy gặt (mechanical
reaper). Ông cũng là một trong các người chủ trương phương pháp luân canh.
Là một nhà khoa học, ông Thomas
Jefferson khuyến khích việc phát minh ra “thì kế” (stopwatch = đồng hồ bấm),
không những được dùng trong các cuộc chạy đua mà còn trong các công cuộc khảo
sát thiên văn. Ông cũng là người đặt niềm tin vào loại tầu ngầm và về y tế, là
một trong các nhân vật quan trọng chấp nhận chủng ngừa đậu mùa. Các con cháu của
ông cũng đồng lòng chủng ngừa như ông.
Về kiến trúc, ông Thomas Jefferson đã
vẽ kiểu cho Tòa Nhà Monticello 35 phòng của ông. Đây là một trong các dinh thự
lịch sử đẹp nhất của Hoa Kỳ. Ông cũng đã vẽ kiểu Điện Capitol của Thủ Phủ
Richmond và các tòa nhà ban đầu của Đại Học Virginia. Về các dụng cụ dùng trong
nhà, ông Thomas Jefferson đã nghĩ ra các loại ghế xếp, ghế đu đưa, cùng cải tiến
nhiều vật dụng khác. Ông thường được gọi là “Người Cha của Văn Phòng Bằng Sáng
Chế” (the Father of the Patent Office) bởi vì đạo luật đầu tiên về phát minh,
sáng chế đã được ông giám sát.
Ông Thomas Jefferson qua đời vào ngày
4 tháng 7 năm 1826, đúng 50 năm sau ngày Tuyên Bố Độc Lập của Hoa Kỳ và cùng tạ
thế vào ngày này là người bạn cũ và cũng là đối thủ chính trị của ông: ông John
Adams.
Ông Thomas Jefferson đã được chôn cất
bên cạnh vợ của ông tại Monticello. Trên mộ chí của ông, mọi người đã đọc được
hàng chữ mà trước kia, ông đã viết ra cho thợ khắc mộ bia: “Nơi đây an nghỉ
Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật
Virginia về Tự Do Tôn Giáo và là Người Cha của Đại Học Virginia”.
Đây là những thành tích vẻ vang mà
chính ông Thomas Jefferson đã đánh giá cao hơn Chức Vụ Tổng Thống Hoa Kỳ.
Nguồn:http://www.vietthuc.org/tong-thong-thu-ba-cua-hoa-ky-thomas-jefferson-1743-1826-tac-gia-ban-tuyen-ngon-doc-lap-hoa-ky/