Phạm Văn Tuấn
Từ năm 1868, nước Nhật bắt đầu bước
vào thời kỳ canh tân về mọi mặt, cả về quân đội. 27 năm sau, lực lượng quân sự của
Nhật Bản đã thắng lớn tại Triều Tiên, bắt Trung Hoa là nước lớn nhất tại châu Á
phải ký kết Hòa Ước Shimonoseki vào ngày 17/4/1895 chấp nhận mọi đòi hỏi của Nhật
Bản. Người quân nhân Nhật Bản đã làm cho các đại cường phương Tây phải kinh ngạc
và thán phục. Tuy nhiên, họ đã bắt đầu ra sao?
1- Võ sĩ Samurai
Các bộ lạc đầu tiên tại Nhật Bản vào
thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch có lẽ gồm những người từ lục địa châu Á, họ là những
kẻ xâm lăng, vượt biển để chiếm đóng hòn đảo chính Honshu (Bản Châu) và đẩy thổ
dân Ainu lên mạn bắc, ra khỏi các cánh đồng phì nhiêu. Các bản văn của Triều
Tiên vào thế kỷ thứ 4 đã ghi nhận rằng những chiến binh Nhật Bản của thời kỳ đó
nổi danh về lòng chiến đấu gan dạ. Hoàng Đế Nhật Bản, hay Thiên Hoàng, có nguồn
gốc từ nhóm Yamato là bộ lạc có sức mạnh quân sự hùng hậu nhất. Giòng dõi của
nhà vua này tự nhận là con cháu của Nữ Thần Mặt Trời Amaterasu và các sách truyền
thuyết cổ Kojiki (Cổ Sự ký) và Nihonji (Nhật Bản ký) đã ghi lại sự lưu truyền về
nguồn gốc có tính linh thiêng này, khiến cho giòng dõi ngai vàng là thứ không
thể thay thế và duy nhất trong lịch sử Nhật Bản từ cổ xưa cho đến ngày nay.
Các thế kỷ thứ 7 và thứ 8 là thời kỳ
mà quyền hành của nhà vua được tập trung, nhưng khi biên giới đất nước được mở
rộng, đã có nhiều lãnh chúa chiếm cứ các vùng đất riêng, với đội quân riêng dưới
quyền. Những gia nhân này chuyển dần lòng trung thành đối với Thiên Hoàng sang
các lãnh chúa và giai cấp quân sự này được gọi bằng tên là Samurai hay các võ
sĩ Nhật. Trong nhiều thế kỷ, vị lãnh chúa có quyền lực mạnh nhất được gọi là
Shogun hay Tướng Quân và vị này đã không lật đổ, không cướp ngôi của Thiên
Hoàng mà đã cai trị nước Nhật Bản bằng danh nghĩa của Thiên Hoàng. Bằng cách
này, giòng họ Tokugawa đã nắm quyền trong 250 năm và chế độ Tướng Quân đã bắt
các lãnh chúa khác phải phục tùng và trung thành với chính quyền Edo.
Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Bản được
chia ra làm 260 miền và không phải tất cả các lãnh chúa đều quy phục Tướng Quân
Tokugawa. Có hai miền bất phục tùng nhất là Chosu và Satsuma, và chính giai cấp
Samurai của hai miền này đã đặt nền móng cho quân đội Thiên Hoàng là lực lượng
quân sự đã chiến thắng quân lực Trung Hoa vào năm 1895 và quân lực Nga vào năm
1905, để rồi vào thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, quân đội Nhật Bản đã chiếm đóng từ
Mãn Châu, qua Trung Hoa, Đông Dương, Miến Điện, xuống Mã lai, Indonesia và một
số hải đảo phía tây Thái Bình Dương.
Satsuma là lãnh địa rộng lớn thứ hai,
có thủ phủ là thành phố Kagoshima nằm tại mỏm xa nhất của đảo Kyushu (Cửu
Châu). Đây là một miền đồi núi hiểm trở, nghèo về canh nông nhưng lại giàu có
nhờ sự triều cống của vua các đảo Ryukyu (Lưu Cầu), gồm cả đảo Okinawa. Từ lâu,
đã có các buôn bán giữa Ryukyu, Satsuma và Trung Hoa, và người dân vùng này có
một tinh thần độc lập rất cao, ít khi chịu thuần phục, ngay cả với chính quyền
Edo.
Choshu là miền phía tây của hòn đảo lớn
Honshu (Bản Châu) với thủ phủ đặt tại Hagi. Đây là lãnh địa đứng hạng thứ 9 về
diện tích, rộng hơn một nửa của Satsuma nhưng lại là miền canh nông trù phú, nhờ
đó miền này có giới võ sĩ Samurai đông nhất. Dân chúng miền này cũng không ưa
gì thể chế Tướng Quân Tokugawa, và trẻ em khi đi ngủ vào ban đêm, được đặt chân
hướng về Edo để tỏ sự bất mãn. Dĩ nhiên là chính quyền Tướng Quân vẫn kiểm soát
các lãnh địa cũng như hai miền này thật nghiêm ngặt nhưng tinh thần của các võ
sĩ Samurai vẫn là bất khuất.
Theo truyền thống lâu đời, tinh thần
võ sĩ Samurai được mô tả là tinh thần “Võ Sĩ Đạo” (Bushido), kết hợp từ hai ảnh
hưởng lớn là Khổng Giáo và Thiền Phái của Phật Giáo (Zen Buddhism), đặt trọng
tâm vào ba đức tính “Trí, Nhân, Dũng” và đòi hỏi mọi người phải trung thành tuyệt
đối và không ngần ngại hy sinh cho đại nghĩa. Jocho Yamamoto đã viết trong cuốn
sách Hagakure, một trong các tác phẩm nổi tiếng nhất về Võ Sĩ Đạo, về người võ
sĩ Samurai đã tìm thấy sự siêu việt bằng cái chết của chính mình như sau: “Tôi
đã tìm thấy con đường của người chiến sĩ là sự chết”. Chính nền đạo đức Samurai
này đã là căn bản tinh thần của quân đội Thiên Hoàng với câu châm ngôn “Nhiệm vụ
nặng hơn trái núi và cái chết nhẹ hơn lông chim”.
Chính quyền Tokugawa đã lợi dụng danh
nghĩa Thiên Hoàng mà cai trị Nhật Bản, đã khéo léo khai thác các giáo điều Khổng
Học về vâng lời và trung thành của gia nhân đối với chủ nhân trong các phương
cách kiểm soát xã hội. Nhưng vào đầu thế kỷ 19, đã có các học giả xét lại lịch
sử của Nhật Bản và kết luận rằng lòng trung thành là phải đối với Thiên Hoàng
vì vương quyền này đã bị quên lãng trong hơn một ngàn năm, đã tới lúc phải phục
hồi uy quyền này và phải coi Thiên Hoàng là trung tâm chính trị của đất nước. Sự
chống đối chính quyền Tướng Quân thể hiện nhiều nhất tại hai miền Choshu và
Satsuma.
Khi xẩy ra cuộc Chiến Tranh Nha Phiến
tại Trung Hoa, chính quyền Tokugawa, các lãnh chúa và các võ sĩ Samurai cũng
như các nhà trí thức thời bấy giờ đều quan tâm đến thế lực của các nước phương
tây. Do qua trung gian của một số nhỏ người Hòa Lan và Trung Hoa buôn bán tại
Nagasaki, người Nhật Bản dù trong thời kỳ bế quan, cũng hiểu rõ rằng Nhật Bản
không có Khoa Học và Kỹ Thuật, và quân đội từ xưa vẫn xử dụng gươm đao, cung
tên và giáo mác và về sau này chỉ có loại súng hỏa mai lỗi thời. Trái với các
quốc gia phương tây, Nhật Bản lại không có một tổ chức quân đội quốc gia và khi
Tướng Quân cần đến, các lãnh chúa chỉ cung cấp cho chính quyền trung ương một số
võ sĩ Samurai từ các địa phương.
Vào các năm từ 1840, người Nhật đã
mua súng của người Hòa Lan, đã chú ý tới kỹ thuật quân sự, và sự đe dọa của
phương tây đối với Nhật Bản lại càng làm cho các nhà trí thức bận tâm về việc cải
tổ đất nước.
Tại miền Choshu, có một bậc thầy rất
tôn kính vương quyền và cũng đánh giá cao sức mạnh của các loại khí giới mới.
Nhân vật được coi là tiên tri này có tên là Shoin Yoshida. Yoshida là một bậc
thầy có sức lôi cuốn quần chúng, đã cố gắng gây cho các học trò của mình tinh
thần quốc gia Nhật Bản (Yamato damashii) với chủ trương rằng tất cả đều phải hướng
về Thiên Hoàng. Yoshida đã dạy các môn đệ rằng Nhật Bản phải làm chủ được Khoa
Học mà các lực lượng phương tây hiện có và dùng Khoa Học đó làm công cụ để chống
lại người phương tây. Yoshida cũng huấn luyện các học trò về các điều căn bản của
chiến thuật bộ binh và khoa học về khí giới chiến tranh.
Do áp lực của các nước ngoài mà việc
bảo vệ Nhật Bản càng trở nên cấp bách. Vào thời kỳ đó, việc bế quan tỏa cảng của
chính quyền Tokugawa càng trở nên bất lực, vì các tầu buồm đã bị thay thế bằng
các tầu biển chạy bằng hơi nước, Nhật Bản lại nằm trên con đường giao thương hướng
lên mạn bắc và nhiều quốc gia đang cần tới một mơi có thể tiếp tế than đá,
lương thực và nước uống cho tầu biển, một nơi trú ẩn cho các người săn cá voi bị
đắm tầu, một thị trường tiêu thụ mới cho các sản phẩm của các quốc gia đã kỹ
nghệ hóa. Đối với nước Anh, Nhật Bản là một điểm dòm ngó vào nước Nga sau trận
Chiến Tranh Crimée và đối với Hoa Kỳ, Nhật Bản sẽ là nơi dừng chân trên con đường
hướng tới Trung Hoa.
Hoa Kỳ cũng chú ý tới Nhật Bản vì sự
thịnh vượng của các tiểu bang phía tây nằm bên bờ Thái Bình Dương. Sự kiện này
đã khiến cho Tổng Thống Hoa Kỳ Millard Fillmore phải cử đi Đô Đốc Matthew Perry
để làm áp lực với Nhật Bản trong việc mở cửa. Khi các nhân viên quân sự của
phái đoàn Perry đi vào đất Nhật năm 1854, tất cả đều là những lính chiến tân tiến,
có trang bị súng ống đầy đủ. Các võ sĩ Samurai cũng chú ý đến các võ khí trên
các con tầu thủy của hạm đội Perry, và khi vị Đô Đốc này đưa cho Tướng Quân coi
một khẩu súng loại mới nhất của kỵ binh Hoa Kỳ, lãnh chúa Satsuma đã mượn món
võ khí mới đó để xem xét kỹ và vẽ lại tỉ mỉ từng bộ phận trước khi hoàn trả.
Tới khi Tướng Quân hô hào các võ sĩ
Samurai đánh đuổi các “kẻ man rợ” ra khỏi Nhật Bản, thì việc kháng cự các người
tây phương của người Nhật Bản đã tỏ ra bất lực. Năm 1863, tầu chiến Hoa Kỳ USS
Wyoming đã đánh chìm nhiều tầu thuyền của miền Choshu, đội quân viễn chinh Pháp
đã bắn phá các bờ biển Nhật Bản và thủ phủ Kagoshima của miền Satsuma đã bị phá
hủy gần một nửa bởi hạm đội Anh.
2- Việc canh tân Quân Đội Thiên
Hoàng
Trong các năm từ 1840 tới giữa thập
niên 1860, cả hai phe Tướng Quân và các miền chống đối đều tìm cách tổ chức lại
quân đội. Phe Tướng Quân đặt ra ba ngành quân sự là bộ binh, kỵ binh và pháo
binh. Lính bộ binh được trang bị gươm và các khẩu súng hỏa mai cổ, chỉ có 1/4 số
lính được cấp loại súng trường kiểu mới của châu Âu. Trong khi đó, từ năm 1854,
miền Satsuma đã cho thiết lập xưởng đúc đại bác và cố gắng kiếm tiền qua việc
buôn bán với Thượng Hải, Trung Hoa, để mua vô thêm võ khí mới. Còn miền Choshu
ngoài việc xây dựng đội quân mạnh nhất, lại còn là nơi hoạt động của hai nhà
canh tân quân sự có tài nhất, đó là Uemon Yamada và Shinsaku Takasugi. Yamada
đã bị ám ảnh bởi trung đội súng trường phương tây, vừa gọn gàng, vừa uyển chuyển
nên đã đề nghị với lãnh chúa Choshu phải tổ chức quân đội sao cho có được đặc
tính di động như thể “con người di chuyển các chân và tay” vậy. Yamada cho rằng
quân đội Nhật Bản trang bị bằng gươm, giáo, cung và súng “chẳng khác gì một đàn
quạ” vì tính hỗn tạp, khó vận dụng của nó.
Takasugi cũng là một người nhiệt tâm
trẻ của miền Choshu, chủ trương rằng súng trường phải được trang bị không những
cho nhóm Samurai mà cho cả các người lính thông thường khác. Theo ông ta, quân
đội phải gồm cả giới Samurai lẫn giới nông dân và đặc quyền mang súng và chiến
đấu cho lãnh chúa không nên chỉ giới hạn vào giai cấp chiến sĩ cổ truyền.
Takasugi là người đầu tiên đã mang lý thuyết về tổ chức quân đội áp dụng vào thực
tế.
Vào khoảng đầu năm 1864 tại Choshu được
thành lập các trung đội hỗn hợp có trang bị súng trường gọi là Shotai, nằm
trong ngành kỵ binh (kiheitai). Hạt nhân chính của trung đội là các võ sĩ
Samurai, chung quanh là các thường dân gồm nhiều loại người: thợ săn, ngư dân,
đô vật sumo, tu sĩ Phật Giáo cũng như nông dân, là những người đang ước muốn được
bước sang giai cấp võ sĩ Samurai.
Trong số các sĩ quan của Shotai, có
Arimoto Yamagata là người sau này đã xây dựng nên quân đội Hoàng Gia Nhật Bản.
Yamagata lúc bấy giờ là một người trẻ, rất trí thức, có khả năng chính trị cao,
không có đặc tính hấp dẫn của một anh hùng hay môt lãnh tụ mà chỉ có một đam mê
là làm sao cải tiến được nước Nhật. Yamagata ở trong nhóm các người ái quốc
(shishi) của miền Choshu, tụ họp chung quanh Shoin Yoshida và sẵn sàng hy sinh
vì đức tin. Ngay từ khi kiheitai hay ngành kỵ binh của miền Choshu được thành lập,
Yamagata đã là một quân nhân và dần dần trở nên cấp chỉ huy, huấn luyện
kiheitai như một lực lượng để chống lại các người ngoại quốc. Vào thời niên thiếu,
Yamagata đã chứng kiến cảnh kiêu căng của các người nước ngoài khi một nhóm thủy
thủ Anh lên bờ, cướp đồ ăn và nước uống tại một làng nhỏ của miền Choshu. Rồi
trong cuộc tấn công của người phương tây vào hải cảng Shimonoseki, Yamagata đã
là một cấp chỉ huy quân sự tại đó, bị thương ở cánh tay và từ đó, ông không bao
giờ đánh giá thấp sức mạnh quân sự của phương tây.
Tới khoảng giữa thập niên 1860, các đồng
đội của Yamagata đều cho rằng sự đe dọa chính là từ phía chính quyền Tokugawa.
Các liên lạc giữa Choshu và Edo trở nên xấu đi. Vào cuối năm 1864, khi Tướng
Quân sắp gửi quân tới đánh miền Choshu các nhân vật bảo thủ nắm quyền của
Choshu sẵn sàng đầu hàng. Nhưng nhóm cấp tiến trong đó có Yamagata và Takasugi
lại dùng đội quân Shotai, đánh đội quân thường trực của lãnh chúa Choshu.
Yamagata đã dùng lại chiến thuật oanh tạc và đánh cạnh sườn của quân đội Pháp xử
dụng tại Shimonoseki khi trước, và đã chiến thắng. Sau khi đã chiếm được quyền
hành tại Choshu, các người cấp tiến thề cùng nhau chống lại chính quyền Shogun.
Tới lúc này, chế độ Tokugawa đã thấy
rõ sự nghiêm trọng của tình thế và cuộc chạy đua mua vô võ khí bắt đầu. Trong
các năm từ 1864 tới 1868, đã có hơn 100 ngàn khẩu súng trường mới được đưa vào
Nhật Bản, làm lợi cho các tay lái súng tây phương. Các tay lái súng người Anh
và người Mỹ đều có mặt tại Nagasaki trong khi nhân viên của nhóm Satsuma cũng
hiện diện tại London để mua thêm khí giới. Chính quyền Tokugawa khi đó đã yêu cầu
sự trợ giúp quân sự của nước Anh nhưng nước này nghiêng về phe chống Edo vì cho
rằng tương lai của Nhật Bản sẽ thuộc về nhóm người này. Vì thế phe Tướng Quân lại
quay sang phía người Pháp, là nơi họ đã mượn được một số tiền để thiết lập nên
các xưởng đúc và xưởng đóng tầu tại Yokosuka và đã hứa sẽ dành cho người Pháp
quyền huấn luyện quân sự trong tương lại.
Trong khi đó chính quyền địa phương mới
của Choshu chỉ định Masujiro Omura làm cố vấn quân sự cho đoàn quân Shotai và tập
trung quyền chỉ huy quân sự vào trung ương. Omura là một học giả về Khoa Học
Quân Sự của châu Âu và mới dịch thuật xong một tác phẩm Đức về chiến tranh quân
sự mới. Ông ta rât chú ý tới kỷ luật và tinh thần quân đội, chủ trương tiêu chuẩn
hóa vũ khí và phương pháp huấn luyện. Cũng vào thời gian này, 7,300 súng trường
đã được gửi tới Nagasaki do một lái súng người Anh.
Do cùng chủ trương chống lại chế độ
Tướng quân, hai miền Satsuma và Choshu cùng kết hợp, rồi vào tháng 3 năm 1866,
lại có sự tham gia của hai nhóm quân sự thuộc các miền Tosa và Hizen, tất cả
cùng đoàn kết lại để lo phục hồi quyền hành của Thiên Hoàng.
Vào mùa hè năm 1866, đoàn quân Shotai
được chỉ huy bởi Yamagata, Takasugi và Omura với các vũ khí mới và cách huấn
luyện quân sự mới, đã làm lệch cán cân quân sự. Mặc dù quân số ít hơn, đoàn
quân Shotai đã chặn đứng được đoàn quân của Tướng Quân, làm suy yếu chính quyền
Tokugawa và đồng thời làm ảnh hưởng tới truyền thống võ sĩ Samurai cổ.
Năm 1867, chính quyền Tokugawa cũng
ban hành một chương trình cải tổ quân sự mới, kêu gọi binh lính tình nguyện
nhưng việc tuyển mộ binh sĩ quá chậm chạp và việc cải tiến đã tỏ ra quá trễ. Một
chuyên viên quân sự người Pháp tên là Charles Chanoine đã mô tả là người lính
Nhật mới của thể chế Tướng Quân, đã mặc quân phục sặc sỡ của Pháp, trông họ nửa
giống lính sen đầm Pháp, nửa giống viên chức chính phủ Nhật, và “họ còn đeo hai
thanh kiếm Nhật” ở đằng sau lưng, đoàn quân này tiến lùi theo tiếng tù và làm bằng
vỏ ốc và thúc đẩy bằng các cây giáo tre.
Lực lưởng của phe chống đối càng mạnh
thêm. Yamagata lại được sự tham gia của hai nhân vật miền Satsuma là Takamori
Saigo và Toshimichi Okubo, là những người sau này sẽ đóng các vai trò quan trọng
trên đất nước Nhật Bản mới. Để cố làm hòa dịu, phe chống đối đề nghị chính quyền
Shogun từ chức. Tháng 11 nam 1867, Tướng Quân thoái vị. Các đoàn quân Satsuma
và Choshu đã chiếm cung thành Kyoto, tuyên bố phục hưng vương quyền của Thiên
Hoàng và vào tháng 1 năm 1868, tiến quân về Edo để đánh đoàn quân của Tokugawa
còn chưa chịu khuất phục. Hai lực lượng quân sự chống đối này đã gặp nhau tại
làng Toba và Fushimi. Đoàn quân của Choshu khi đó không phải là đông nhất,
nhưng lại có nhiều vũ khí tối tân và quân nhân đã được huấn luyện bằng kỹ thuật
chiến đấu phương tây. Lực lượng Satsuma thì có tinh thần chiến đấu rất cao, biết
dàn trận khéo léo với nhiều loại vũ khí. Về phía Tokugawa, nhóm quân sự Aizu là
các võ sĩ Samurai đeo kiếm, tuy đã chiến đấu kiên cường tới chết nhưng mặt trận
của họ cũng bị tan vỡ.
Sau chiến thắng tại Toba-Fushimi,
đoàn quân Cách Mạng tiến về phía đông, chiếm thành phố Edo rồi tiến lên mạn
đông bắc để đánh nhóm Aizu còn lại. Lúc này, Yamagata được cử làm tổng chỉ huy
đoàn quân viễn chinh Thiên Hoàng và sau này, ông ta đã bị tố cáo tàn bạo trong
cách đàn áp. Các nhóm quân sự khác trung thành với chính quyền Tokugawa cũng đã
chiến đấu kém kiên cường hơn so với nhóm Aizu và cũng dần dần đầu hàng đoàn
quân Cách Mạng.
Hai nhóm quân sự Satsama và Choshu đã
biết hành động sớm nhất, thích nghi nhất với các điều kiện kỹ thuật chiến tranh
và cách tổ chức mới, phương pháp huấn luyện mới… nên đã dẫn đầu trong việc tạo
dựng nên bộ máy quân sự tân tiến của nước Nhật.
Nguồn:http://www.vietthuc.org/b%C6%B0%E1%BB%9Bc-d%E1%BA%A7u-c%E1%BB%A7a-quan-d%E1%BB%99i-thien-hoang/