Biên
dịch: Ngô Trần Thanh Hiền | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương
Xu
hướng các cá nhân tự tập hợp lại với nhau dựa trên chủng tộc, khu vực địa lý,
và lợi ích đã được cả các lý thuyết gia lịch sử lẫn các nhà khoa học chính trị
đương đại xem là điều tự nhiên. Việc các “nhóm” được nhìn nhận theo cách này bởi
những cá nhân khi suy nghĩ hoặc nghiên cứu về chính trị là không có gì đáng ngạc
nhiên. Chính trị thường đặt ra yêu cầu phải thừa nhận một cách cơ bản sự cần
thiết của các nhóm đối với việc tổ chức chính trị, có thể với tư cách là một
nhóm công dân đơn lẻ, các bè phái có lợi ích cạnh tranh với nhau, hay cả với tư
cách là những chủng tộc riêng rẽ cùng chung một lãnh đạo. Do đó, gần như không
thể hiểu rõ được chính trị nếu không để ý tới tác động của các nhóm lên hệ thống
một cách tổng thể.
Sự
tương tác giữa các nhóm và các chủ thể chính trị trong xã hội được hình dung một
cách tốt nhất thông qua thảo luận về xã hội dân sự, các mạng xã hội, và vốn xã
hội. Trong chương này, mỗi thuật ngữ trên mô tả một khía cạnh của những tổ chức
đoàn thể định hình nên đời sống xã hội và chính trị. Các mạng xã hội (social
networks) thường được dùng để mô tả các tổ chức không chính thức của các cá
nhân bao gồm nhiều thành phần xã hội đa dạng (Gibson, 2001). Những mạng lưới
này có thể nhỏ hoặc lớn, nhưng mục đích cuối cùng của chúng là khuếch trương lợi
ích chung. Vốn xã hội có thể được tích lũy trong những mạng lưới như vậy. Vốn
xã hội (social capital) là “tổng hòa của những nguồn lực thực tế hay tiềm năng
gắn với sự sở hữu một mạng lưới bền chặt những mối quan hệ ít nhiều được thể chế
hóa của quá trình hiểu biết và công nhận lẫn nhau" (Bourdieu, 1985, p.
248). Quá trình tích lũy vốn xã hội khuyến khích các cá nhân cùng hành động nhằm
đạt được mục tiêu chung. Không có vốn xã hội thì không thể thực hiện những mục
tiêu này. Những thay đổi đều đặn trong tích lũy vốn xã hội, đặc biệt khi đặt
trong các mạng xã hội, tạo ra những tổ chức xã hội tương tác ở nhiều cấp độ của
xã hội lẫn chính quyền với các hình thức khác nhau. Trạng thái mở rộng này được
hiểu là xã hội dân sự (civil society). Các mạng xã hội tương tác với nhau trong
phạm vi của xã hội dân sự. Những hành động của cá nhân trong xã hội dân sự thúc
đẩy sự tăng lên hay giảm xuống của vốn xã hội và ảnh hưởng tới những tương tác
trong tương lai của các cá nhân và của các mạng xã hội. Trong khi các thuật ngữ
trên đại diện cho những hiện tượng riêng biệt, các mối quan hệ vẫn là một trọng
tâm mang tính nhất quán.
Mặc
dù nhìn chung gắn liền với chính trị về mặt lịch sử, quá trình thảo luận và tìm
hiểu chính thức về các nhóm trong xã hội phát triển cùng với quá trình truyền
bá dân chủ từ đầu thế kỷ 19. Đi cùng với dân chủ là nhu cầu xem xét sự ưu tiên
của các cá nhân. Thường thì những ưu tiên này được nhận biết và chia sẻ bởi những
cá nhân tự tổ chức lại thành nhóm dựa trên những ưu tiên chung đó. Mong muốn nhận
thức và đáp ứng lại những nhóm như vậy của các nhà lãnh đạo chính trị đã thúc đẩy
những nghiên cứu về các tổ chức hiệp hội trong xã hội.
Chương
này xem xét những nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm liên quan tới vốn xã hội,
mạng xã hội, và xã hội dân sự. Trước khi đào sâu vào những ý tưởng đương thời
là chủ đề chính của chương này, điều quan trọng là cần phải thảo luận vai trò của
các tổ chức và các nhóm trong đời sống chính trị giống như lịch sử đã ghi nhận.
Tiếp theo, những khái niệm lý thuyết về vốn xã hội, mạng xã hội và xã hội dân sự
sẽ được phân tích riêng, chú ý đến việc những khái niệm này liên hệ với nhau thế
nào. Sau đó, mối quan hệ giữa những khái niệm kể trên với nghiên cứu về dân chủ
sẽ được xem xét với tư cách là cầu nối nghiên cứu xuyên suốt bao gồm vốn xã hội,
mạng xã hội và xã hội dân sự. Phần tiếp theo tập trung vào vốn xã hội và xã hội
dân sự do chúng có liên hệ tới kinh tế và xã hội theo cách thức rộng lớn hơn.
Cuối cùng những phê bình và đường hướng cho những nghiên cứu trong tương lai sẽ
được thảo luận.
Tầm
quan trọng của các tổ chức hiệp hội trong đời sống chính trị
Kể
từ khi xã hội chính trị được thảo luận bởi những triết gia Hy Lạp cổ đại cho tới
những quan sát sớm nhất về nền dân chủ Mỹ và thông qua việc đón nhận dân chủ trên
phạm vi toàn cầu giữa thế kỷ 20, sự thừa nhận tầm quan trọng của việc con người
kết giao với nhau đã được thể hiện và chấp nhận trong bối cảnh người dân ngày
càng tham dự nhiều hơn vào đời sống chính trị. Đối với Aristotle (khoảng 335
trước CN), các công dân cần phải biết rõ về nhau để các cá nhân có thể ra quyết
định đúng đắn trong việc lựa chọn lãnh đạo. Thiếu vắng tính chất này thì không
thể đưa ra quyết định chính trị hợp lý cho cộng đồng. Theo cách này, Aristotle
nhìn nhận thành phố như là một nhóm trong đó các cá nhân tương tác để nhận biết
được tính cách và sự ưu tiên của nhau. Quá trình tương tác này là cần thiết khi
chính trị yêu cầu sự tham gia của các công dân.
Trong
quan sát của mình về buổi ban đầu của nền dân chủ Mỹ, Alexis de Tocqueville
(1840) đã viết chi tiết về sự thắng thế và cần thiết của các tổ chức hiệp hội ở
đất nước non trẻ này. Ông cho rằng những tổ chức này là quan trọng đối với một
kiểu xã hội đang nở rộ tại Mỹ mà ở đó người dân đang ngày càng tham gia nhiều
hơn vào đời sống chính trị. Ở Mỹ, các tổ chức hiệp hội đã thành công hơn bất cứ
nơi nào khác trên thế giới tại thời điểm đó. Bằng việc tham gia vào các tổ chức
hiệp hội, công dân Mỹ có thể khắc phục được sự thiếu ảnh hưởng của bản thân nếu
họ hoạt động với tư cách một cá nhân đơn lẻ. Tocqueville quan sát khi các cá
nhân có chung quan điểm gặp gỡ nhau, họ sẽ tự động kết hợp lại thành một tổ chức.
Khi tổ chức lớn mạnh, những chủ thể chính trị buộc phải chú ý đến chúng và nhận
ra những ưu tiên của các thành viên trong đó. Theo cách này, các tổ chức hiệp hội
tăng quyền lực cho các cá nhân trong bối cảnh chính trị cụ thể, và điều này buộc
những chủ thể chính trị phải tự thích nghi. Chính những tổ chức hiệp hội như vậy
đã duy trì được tính cốt lõi của xã hội dân sự, mạng xã hội và vốn xã hội.
Theo
sau những quan sát của Tocqueville, Emile Durkheim (1893/1984) đã thăm dò sự
tương tác của các cá nhân trong xã hội và thấy rằng liên kết giữa các cá nhân vẫn
được duy trì sau những tương tác ban đầu. Những mối liên kết xã hội được duy trì
này đóng góp vào hoạt động chức năng của cộng đồng theo một cách thức rộng hơn
các tương tác ban đầu, thông qua định hình điều kiện của vốn xã hội phát sinh từ
quá trình tương tác. Theo cách này, các tổ chức hiệp hội luôn ảnh hưởng lẫn
nhau thông qua những tác động mang tính lâu dài giữa các cá nhân.
Nhiều
nhà khoa học chính trị buổi ban đầu khuếch trương tầm quan trọng của những tổ
chức hiệp hội mang tính tự nguyện. Ví dụ, Almond và Verba (1963) tuyên dương
các tổ chức hiệp hội tự nguyện như là nhân tố hòa giải quan trọng nhất giữa các
cá nhân và nhà nước. Việc kết giao với các cá nhân trong một tổ chức tự nguyện
giúp con người có thể đạt được mục đích chính trị mà họ khao khát thông qua những
nguồn lực chính trị cộng thêm. Tư cách thành viên trong những tổ chức hiệp hội
cũng ảnh hưởng tới thái độ chính trị của một cá nhân. Với Almond và Verba, những
tổ chức tự nguyện cũng quan trọng như tính đa dạng của nó. Chính sự biến thiên
này giữa các nhóm hình thành nên những câu hỏi liên quan tới xã hội dân sự, các
mạng xã hội và vốn xã hội trong nhiều thập kỷ theo sau nghiên cứu của Almond và
Verba.
Lý
thuyết về vốn xã hội, các mạng xã hội và xã hội dân sự
Vốn
xã hội, các mạng xã hội và xã hội dân sự là những thuật ngữ và ý tưởng liên
quan với nhau nhưng không nhất thiết là đồng nghĩa. Vốn xã hội có thể là thước
đo để đánh giá các mạng xã hội và xã hội dân sự, nhưng xét cho cùng, nó mô tả
quan hệ giữa các cá nhân và thể chế. Xã hội dân sự là tổng quan của vốn xã hội
một cách tương đối trên mỗi một lĩnh vực, xã hội, hoặc nhà nước. Các mạng xã hội
là những viên gạch giúp xây dựng nên xã hội dân sự, nhưng hai khái niệm này thường
được coi là độc lập với nhau, mặc dù chúng được tích hợp trong cùng một xã hội
dân sự. Để hiểu rõ toàn bộ, cần phải hiểu từng khái niệm một.
Vốn
xã hội
Trong
khi hàng thập kỷ nghiên cứu tập trung vào vai trò của các tổ chức hiệp hội
trong cuộc sống thường ngày, khái niệm vốn xã hội đã không được củng cố như
hình thức hiện thời của nó cho tới khi Coleman (1988) xem xét những hình thức
khác nhau của vốn (capital) và tuyên bố rằng, cũng giống những hình thức vốn
khác, vốn xã hội tồn tại và tạo thuận lợi cho tương tác giữa các cá nhân và tổ
chức. Trong tương quan với vốn vật chất và vốn con người, vốn xã hội được xem
là ít được nhận biết nhất. Thay vì tập trung vào quá trình sản xuất hay những kỹ
năng có liên quan tới sản xuất, vốn xã hội tập trung vào chức năng của một số
khía cạnh nhất định trong cấu trúc xã hội. "Chức năng được nhận dạng bằng
khái niệm ‘vốn xã hội’ là giá trị của những khía cạnh này trong cấu trúc xã hội
mà các chủ thể coi là những nguồn lực có thể được sử dụng để giành lấy lợi ích
cho mình" (Coleman, 1988, p. S101). Nhận dạng được các chức năng của cấu
trúc xã hội trở thành cách để giải thích những kết quả khác biệt xảy đến với
các cá nhân mà không cần phải chi tiết hóa cấu trúc xã hội - vốn là nơi qua
trình chuyển dịch (từ hành động đến kết quả) diễn ra.
Một
ví dụ của Coleman có thể được tóm tắt ngắn gọn như sau: các hội kín có thể thúc
đẩy những hành động mang tính cách mạng ở những nơi mà các hành động phản kháng
một cách hòa bình là kết quả được mong đợi hơn. Trong kịch bản này, những kết
quả mang tính cách mạng được tạo ra bởi một tập hợp của các cá nhân, trong trường
hợp này chính là vốn xã hội. Hệ thống vẫn không thay đổi. Thay vào đó, sự xuất
hiện của một dạng vốn xã hội khác với những dạng thức tồn tại trước đó đã tạo
ra kết quả mới. Một hệ thống ổn định có thể sản sinh ra những kết quả vô cùng
đa dạng, tùy vào vốn xã hội được tận dụng, cùng với đó là những nguồn lực mang
tính hệ thống khác. Coleman quả quyết việc sản sinh và tích hợp vốn xã hội để tạo
ra những kết quả nhất định cũng không khác gì việc kết hợp các nguyên liệu thô
(ví dụ, dầu mỏ) với các thể loại vốn vật chất (ví dụ công nghệ) để tạo ra những
sản phẩm khác nhau (ví dụ dầu nhớt, xăng).
Với
Coleman, thực tế vốn xã hội trong cấu trúc xã hội được quy định bởi các nghĩa vụ,
kỳ vọng, và sự tin tưởng. Rốt cuộc, xung lực này có thể được định nghĩa dễ dàng
là một hệ thống có qua có lại trong đó nếu làm điều gì đó cho một cá nhân sẽ
gây nên một phản ứng tương đương nơi người tiếp nhận. Trong tình huống này,
lòng tin vào cá nhân đang được giúp đỡ tạo ra kỳ vọng rằng người đó sẽ đáp lại.
Đối với người được giúp đỡ, nghĩa vụ trả ơn được cảm nhận và sẽ được thực hiện.
Chính theo cách này mà vốn xã hội được tạo ra và phát triển. Một cá nhân có thể
có trữ lượng vốn xã hội đủ để quyết định kết quả của một tình huống. Tin tưởng
là điểm nút của động lực vốn xã hội. Không có sự tin tưởng, gần như không thể tạo
ra vốn xã hội.
Với
Uslaner (2002), lòng tin là sự cân nhắc mang tính trung tâm trong nhiều mặt hoạt
động của loài người. Trong khi đồng ý rằng có được lòng tin không phải là cách
duy nhất để hợp tác, ông cổ vũ ý kiến cho rằng một hệ thống có đi có lại thì
đáng tin cậy hơn với những cấp độ tin tưởng cao hơn. Để vốn xã hội hoạt động
theo cách thức của Coleman, cần phải giả định sự có đi có lại là có thể đoán
trước được. Do đó, một mặt phải đạt được lòng tin, mặt khác lòng tin đó cũng cần
được giả định là có tồn tại. Với những nhà nghiên cứu khác, sự thay đổi trong
xung lực của lòng tin tái định hình thực tế của vốn xã hội và do đó định hình
xã hội dân sự nói chung.
Trong
một nỗ lực làm sáng tỏ vai trò của vốn xã hội ảnh hưởng tới quản trị quốc gia
như thế nào và ngược lại, Putnam và Goss (2003) đã phân biệt vốn xã hội để có
thể đánh giá một cách dễ dàng hơn những biến thể khác nhau giữa các hệ thống. Một
số vốn xã hội mang tính chính thức trong khi các một số khác lại là phi chính
thức. Loại hình cấu trúc tổ chức (ví dụ, công đoàn so với câu lạc bộ ăn đêm) sẽ
quy định vốn xã hội có mang tính chính thức hay không. Một điểm khác biệt nữa
là giữa vốn xã hội đặc và thưa. Vốn xã hội đặc tồn tại trong những nhóm có kết
nối khăng khít, và vốn xã hội thưa thì trội hơn ở những người chỉ ở mức quen biết
với nhau. Vốn xã hội hướng nội tập trung vào phúc lợi của những thành viên
trong nhóm, trong khi vốn xã hội hướng ngoại tập trung vào những hàng hóa công
cộng. Cuối cùng, vốn xã hội bắc cầu (bridging social capital) mang những cá
nhân khác biệt lại với nhau, tương phản với vốn xã hội gắn kết (bonding social
capital) tập hợp những cá nhân tương đồng. Mặc dù sự phân biệt của Putnam và
Goss không thực sự có ý nghĩa nhiều đối với việc khái niệm hóa lý thuyết đặt ra
bởi Coleman, chúng cũng giúp làm sáng tỏ các biến thể của vốn xã hội.
Mạng
xã hội
Trong
công trình đầu tiên xem xét xã hội dân sự và mạng xã hội, Putnam áp dụng ý tưởng
về vốn xã hội được thảo luận phía trên. Với Putnam, cũng như Coleman, vốn xã hội
tập trung vào lòng tin và tính chất có đi có lại. Khi xem xét các xã hội dân sự,
ông cũng quảng bá vốn xã hội như một thứ hàng hóa công mà mọi người trong xã hội
đều có thể có được. Theo cách này, vốn xã hội phát sinh từ những hình thức khác
của vốn, bao gồm vốn vật chất và vốn con người. Vốn xã hội và các mạng lưới can
dự công dân (networks of civic engagement) tạo ra và duy trì các quy chuẩn có
chức năng như những ràng buộc tự nhiên lên hành động của các cá nhân hoặc của
các nhóm thông qua việc công nhận và ủng hộ những tác động ngoại hiện (externality)
xuất phát từ những hành động tích cực hoặc tiêu cực đối với những cá nhân liên
quan. Do đó, vốn xã hội có thể được tạo ra, duy trì và áp dụng để ảnh hưởng tới
các kết quả trong một hệ thống có tổ chức.
Đường
hướng chính mà qua đó vốn xã hội hoạt động là mạng lưới can dự công dân, hoặc
các mối liên kết xã hội. Trong nghiên cứu về sự phát triển của các thể chế kinh
tế và xã hội Italy, Putnam (1993) đã xem xét hình thức của các mạng lưới đã tồn
tại hàng trăm năm trước và hiệu ứng của chúng lên những hệ quả về mặt thể chế ở
Italy đương thời. Không giống xã hội dân sự vốn rộng lớn hơn nhiều, các mạng xã
hội là (hình thức) đặc thù đối với những lợi ích được chia sẻ của những cá nhân
tham gia. Các cá nhân có thể liên quan tới nhiều mạng lưới chồng chéo lẫn nhau.
Putnam nhìn nhận các mạng lưới này như những công cụ cho việc tổ chức vốn xã hội,
với nhiều kết quả tích cực. Thực tế, Putnam coi những mạng lưới can dự công dân
cũng chính là vốn xã hội. Theo nghĩa đương thời, những mạng lưới này có thể là
tổ chức phụ huynh - giáo viên, hội nam sinh, đảng chính trị, câu lạc bộ tennis,
vv…
Lợi
ích của các mạng xã hội thường được quy định bởi mật độ của mạng lưới. Mật độ
nghĩa là số lượng và cường độ của các cá nhân và tương tác trong nhóm. Về cơ bản,
sự hợp tác tăng cường vì lợi ích chung thì dễ dàng hơn trong các nhóm mật độ
dày và khó khăn hơn ở những nhóm thưa. Putnam (1993) liệt kê một số cách thức
khác mà những mạng lưới này đem lại lợi ích cho các thành viên. Việc các cá
nhân không tôn trọng kết quả mà mạng lưới mong đợi sẽ bị ngăn trở bằng cách gia
tăng chi phí tiềm năng đối với việc không tôn trọng đó. Điều này khuyến khích sự
hợp tác. Những quy chuẩn vững chắc của tính chất có qua có lại cũng được khuyến
khích bằng mạng lưới can dự công dân. Mức độ tin cậy của cá nhân dễ nhận thấy
hơn do các cấp độ giao tiếp tăng lên và dòng lưu chuyển thông tin thuận lợi hơn
nhờ mạng lưới. Thành công của mạng lưới trong việc đạt được sự cộng tác trong
hiện tại có thể có chức năng định hình cho sự cộng tác trong tương lai.
Về
mặt cấu trúc, mạng lưới khế ước công dân về bản chất phân theo chiều ngang. Mạng
lưới ngang không được cấu trúc theo thứ bậc mà được trải đều khắp xã hội theo
cách mà các vị trí trong mạng lưới gần như tương đương về mặt quyền lực. Điều
này không có nghĩa là mạng luôn được cấu trúc theo cách này, nhưng chúng có cơ
hội tốt nhất để đạt được những mục tiêu đề cập ở trên khi chúng được phân
ngang. Theo Putnam, chỉ có thể thông qua những mạng lưới tổ chức theo chiều
ngang, niềm tin và hợp tác xã hội mới có thể đạt được. Những mối liên kết xã hội
được tổ chức hợp lý có thể khuyến khích vốn xã hội cải thiện hiệu năng qua việc
thúc đẩy các hoạt động điều phối.
Xã
hội dân sự
Trong
bài viết về sự phát triển của xã hội Italy và những biến đổi trong bối cảnh nước
Mỹ, Putnam (1993, 1995, 2000) quan tâm nhất đến việc xem xét xu hướng của vốn
xã hội trong xã hội dân sự. Đối với xã hội dân sự, trọng tâm là cộng đồng nói
chung. Không giống mối quan hệ trực tiếp giữa cá nhân và các thực thể khác vốn
quan trọng nhất cho vốn xã hội, hoặc các mạng lưới can dự công dân theo đuổi
các lợi ích cụ thể, xã hội dân sự là một bức tranh khổ rộng của cộng đồng. Khi
chúng ta nghiên cứu về xã hội dân sự, quan trọng là cần hiểu được rằng mức độ kết
nối giữa các cá nhân hay các thực thể và trong nội bộ mạng xã hội có thể có những
hiệu ứng rộng khắp toàn xã hội bắt nguồn từ tổng hòa các cấp độ can dự công
dân.
Giống
như những hiệu ứng tích cực của các mối liên kết xã hội đã thảo luận ở trên,
các tác động ngoại hiện của các hiệp hội và việc tích lũy vốn xã hội có thể ảnh
hưởng tới cả những cá nhân với vốn xã hội bằng 0, hoặc những người chẳng tham
gia một mạng lưới nào. Những cộng đồng có mức độ kết nối và nguồn vốn xã hội
cao thường có thể tiến hành các hoạt động tập thể một cách dễ dàng hơn. Điều
này là do sự thẩm thấu những quy chuẩn đã được phát triển giữa các cá nhân và ngay
trong mạng lưới. Do đó các xu hướng, vốn ảnh hưởng tới các cá nhân, sau đó sẽ ảnh
hưởng tới một số khu vực hay toàn bộ mạng lưới và rốt cuộc là toàn bộ xã hội.
Ý
tưởng về một xã hội dân sự rộng lớn đã được đề cập trong một bài báo chuyên đề
của Putnam năm 1995 "Đi chơi bowling một mình: Vốn xã hội suy giảm của nước
Mỹ" (“Bowling Alone: America’s Declining Social Capital”). Trong nghiên cứu
của mình, Putnam chỉ ra thực tế rằng sự không ràng buộc chính trị đang ngày
càng gia tăng có nguồn gốc từ những thay đổi trong tương tác giữa các cá nhân,
cũng như những thay đổi rộng lớn hơn trong kiến thiết của các mối liên kết xã hội.
Ông chắc rằng những thay đổi này rồi sẽ định hình lại đường hướng cho xã hội
dân sự ở Mỹ.
Putnam
rút ra câu hỏi nghiên cứu (tại sao xã hội dân sự lại thay đổi?) từ những quan
sát tưởng chừng không liên quan tới quá trình tham gia chính trị. Ông lưu ý rằng
quá trình này, đặc biệt là vấn đề bầu cử, đã suy giảm dần đều ở nước Mỹ. Để hiểu
tại sao điều này lại xảy ra, ông đã nhìn vào những thay đổi diễn ra bên trong
xã hội dân sự. Từ việc xem xét này, ông rút ra một quan sát đơn giản làm nền tảng
cho lập luận của mình: người Mỹ chơi bowling nhiều hơn bao giờ hết, nhưng mức độ
tham gia vào các câu lạc bộ hay liên đoàn chơi bowling lại thấp hơn bao giờ hết.
Giống như ví dụ về các mối liên kết xã hội, hoặc mạng can dự công dân đã thảo
luận ở trên, tập thể cùng tiến có thể thúc đẩy quá trình tạo ra và tích lũy vốn
xã hội. Putnam đi từ quan sát cụ thể này tới một nhóm các quan sát rộng hơn, tất
cả đều dẫn tới kết luận là các mối liên kết xã hội đang thay đổi và suy giảm.
Quay trở lại với lý giải của ông về vốn xã hôi, ông chắc rằng một sự chuyển dịch
tiêu cực trong "tình láng giềng" và "niềm tin xã hội" đã gắn
liền với sự sụt giảm của can dự công dân. Trong khi hướng đi của mũi tên nhân
quả được dành cho những nghiên cứu tương lai tìm hiểu, Putnam sử dụng thực tế
này để mô tả tình huống trên bình diện tổng hợp vốn đang hiện diện trong xã hội
dân sự Mỹ. Mặc dù ông đưa ra một số giải thích khả dĩ cho sự thay đổi này, có một
điều chắc chắn rằng nó là thực tế đã xảy ra.
Như
các thảo luận bên trên về các lý thuyết xoay quanh khái niệm vốn xã hội, các mạng
xã hội, và xã hội dân sự, mỗi khái niệm đều liên quan tới các khái niệm còn lại
tuy nhiên bản thân mỗi khái niệm vẫn mang đặc điểm riêng biệt liên quan tới những
thực thể mà chúng đại diện cũng như những chức năng mà chúng có thể gây ảnh hưởng.
Vốn xã hội là một viên gạch cấu thành từ lòng tin và tính chất có qua có lại,
qua đó các mối quan hệ được thiết lập và duy trì. Các mối quan hệ xã hội mở rộng
để chúng tồn tại không chỉ giới hạn bởi hai cá nhân và lớn lên một cách tự
nhiên dưới ánh sáng của lợi ích chung. Mức độ vốn xã hội được vun trồng qua các
mối liên kết xã hội định hình sự hiểu biết chung về xã hội dân sự của cả một hệ
thống. Mức độ kết nối trong hệ thống ảnh hưởng tới sự phát triển tương đối của
xã hội dân sự trong hệ thống đó, điều này tới lượt nó lại ảnh hưởng tới nhiều
điều kiện tổng quát của xã hội trên diện rộng.
Phần
tiếp theo sẽ nhìn vào dòng nghiên cứu chính mà trong đó xã hội dân sự và vốn xã
hội được xem xét: dân chủ. Từ nghiên cứu này, các nghiên cứu phái sinh đã phát
triển để xem xét tác động của vốn xã hội, các mối liên kết xã hội và xã hội dân
sự. Để hoàn tất thảo luận, những phê bình và khả năng nghiên cứu tương lai cũng
sẽ được khảo sát.
Xã
hội dân sự, vốn xã hội, mạng xã hội và dân chủ
Trong
hệ thống chính trị có tính tham dự cao (ví dụ như, dân chủ), bối cảnh mà trong
đó các cá nhân hoạt động quy định quan điểm và hành động tiếp theo của họ trong
hệ thống đó. Cũng như những cá nhân sở hữu nhiều của cải được kỳ vọng sẽ có những
hành động khác với những cá nhân có ít của cải hơn, những cá nhân là thành viên
của một nhóm được kỳ vọng sẽ hành động khác với cá nhân không thuộc một nhóm
nào. Trong lập luận thiên về trực giác này, có thể dễ dàng thấy là các tổ chức
khiến cho hoạt động của các cá nhân trong đời sống chính trị thay đổi. Điều này
được thể hiện rất rõ ràng trong cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề tạo lập hệ thống
chính trị Hoa Kỳ, trong đó những người chủ trương lập chế độ liên bang và những
người phản đối đều ủng hộ những quan điểm cạnh tranh trong việc làm thế nào để
tạo ra một chính phủ tốt nhất đại diện cho người dân.
Đối
với James Madison, nền dân chủ mới của nước Mỹ cần phải cảnh giác với nạn bè
phái. Trong bài viết Federalist số 10, Madison (1787/1982) đã nêu rõ rằng việc
các cá nhân tự tập hợp với nhau thành các tổ chức với những người cùng chung lợi
ích là điều tự nhiên. Bên cạnh việc đình chỉ quyền tự do của công dân, cách duy
nhất để kiểm soát tác động của các tổ chức bè phái là tạo ra một hình thức
chính phủ cộng hòa. Ông hình dung điều này sẽ cải thiện các tác động xấu mà
tình trạng bè phái gây ra, đồng thời cũng không đình chỉ quyền tự do hoặc làm
suy yếu hệ thống chính trị mang tính tham dự cao mà những nhà lập quốc Mỹ mong
muốn gây dựng. Ví dụ này làm sáng tỏ bản chất sâu sắc của các tổ chức hiệp hội
trong nền dân chủ. Đối với những nghiên cứu về tác động của vốn xã hội, các mối
liên kết xã hội và xã hội dân sự, những tác động của chúng lên hình mẫu chính
quyền, đặc biệt là dân chủ, trở thành trọng tâm trong hướng nghiên cứu này. Phần
này xem xét một số nghiên cứu đã được tiến hành liên quan tới sự tác động của
xã hội dân sự (và các thành phần của nó) tới nền dân chủ.
Như
đã bàn tới ở trên, Putnam (1995) đã quan sát sự suy giảm trong bầu cử ở Mỹ và
mong muốn giải thích tại sao điều này lại xảy ra. Ông đã đưa ra một lý thuyết
cho rằng sự suy giảm trong việc tham gia các tổ chức hiệp hội đã tạo ra sự suy
giảm vốn xã hội, điều này tiếp tục dẫn tới sự suy giảm trong bầu cử. Đối với
Putnam, sự suy giảm trong bầu cử rốt cuộc xuất phát từ sự ngắt quãng của những
kết nối đang lớn dần lên giữa các cá nhân. Không có nhu cầu kết nối thì có ít
nhu cầu tạo ra quyết định nhóm. Mặc dù kiểm nghiệm đơn giản, nhưng kết quả
trình bày của ông thì cụ thể hơn: Giảm sút trong việc tham gia xã hội dân sự
gây ra suy giảm trong bầu cử.
Verba,
Schlozman, và Brady trong công trình năm 1995 đã xem xét đời sống công dân và
hiệu ứng của nó lên chính trị nói chung. Họ khẳng định các thể chế phi chính trị
(bao gồm các tổ chức hiệp hội và các mối liên kết xã hội) nâng cao khả năng hoạt
động của công dân trong đời sống chính trị. Điều này xảy ra do một số nguyên
nhân. Ví dụ, những cá nhân tham gia xã hội dân sự được va chạm với những xúc
tác mang tính chính trị, khiến cho sự sẵn sàng và khả năng tham gia chính trị của
họ được nâng cao. Tương tự, quá trình tham gia vào xã hội dân sự cũng khuyến
khích sự tham dự sâu hơn vào xã hội dân sự với kết quả là những cam kết có liên
quan tới các tổ chức hiệp hội có hiệu ứng được nhân rộng lên gấp nhiều lần cho
cả công dân và xã hội.
Các
tổ chức đoàn thể cũng thể hiện nhiều vai trò trong xã hội dân chủ bằng cách đặt
ra chương trình nghị sự chính trị (Cohen & Rogers, 1992). Chúng giữ vai trò
hòa giải giữa cá nhân và nhà nước. Vai trò hòa giải có thể mang lại cho các tổ
chức đoàn thể nói riêng, hoặc xã hội dân sự nói chung sức mạnh to lớn trong việc
định hình và điều phối những ưu tiên của những người tham gia. Mặc dù Cohen và
Rogers, cũng giống Madison, quan ngại về việc kiềm chế vai trò của những tổ chức
đoàn thể mang tính bè phái, họ thừa nhận rằng các nhóm và mạng lưới có thể đóng
góp cho quản trị dân chủ theo một cách tích cực.
Quá
trình tham gia chính trị đặc biệt quan trọng trong những xã hội dân chủ và do
đó chiếm một phần quan trọng trong nghiên cứu về vốn xã hội, các mối liên kết
xã hội, xã hội dân sự và nền dân chủ. Trong công trình xem xét về quá trình
tham gia chính trị ở Mỹ, Rosenstone và Hansen (2003) cho rằng khía cạnh tự nguyện
của việc tham gia vào các vấn đề xã hội là quan trọng trong việc vận động các
công dân. Đầu tiên, phần lớn các nhóm đều tự tiến hành các hoạt động vận động
chính trị của chính các nhóm đó. Thứ hai, các thành viên của nhóm được tiếp xúc
với những chính khách và nhà hoạt động có chung lý tưởng, cùng với mục tiêu vận
động các thành viên. Cuối cùng, việc đơn giản là một thành viên của nhóm hứa hẹn
những tưởng thưởng tiềm năng mà các thành viên khác cùng theo đuổi và có thể đạt
được tốt nhất thông qua hành động chính trị. Theo cách này, mức độ vốn xã hội,
các mối liên kết xã hội và xã hội dân sự có thể ảnh hưởng một cách đa dạng tới
mức độ tham dự vào đời sống chính trị.
Đối
với Verba, Nie, và Kim (1978), các tổ chức mang tính tự nguyện tác động đến sự
tham gia của công dân một cách độc lập với các nguồn lực và nhân tố khác. Những
tổ chức này có thể điều chỉnh sự trao đổi nguồn lực trong hoạt động chính trị.
Verba cùng cộng sự dự đoán rằng các tổ chức đoàn thể có thể thúc đẩy quá trình
tham gia chính trị, đặc biệt thông qua các cuộc bầu cử, lên một mức độ lớn hơn
so với những gì các nguồn lực đơn thuần có thể làm. Tuy nhiên, họ cũng phát hiện
nguồn lực lại ảnh hưởng tới tư cách hội viên. Dự cảm trước điều này, Huntington
và Nelson (1976) thấy rằng tư cách hội viên có vai trò quan trọng trong quá
trình tham gia chính trị. Trong khi Verba, Nie và Kim tập trung vào bảy quốc
gia được cho là phát triển hơn, Huntington và Nelson chỉ quan tâm tới những quốc
gia kém phát triển.
Theo
bước Huntington và Nelson (1976), nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào những
nước đang phát triển. Sự khác biệt này là quan trọng bởi vì nó dẫn tới nhiều biến
đổi hơn trong kết quả, vốn thường ổn định hơn ở những nước phát triển. Ví dụ tốt
nhất của thế giới thứ ba mang đến những manh mối mới cho nghiên cứu về xã hội
dân sự là một bài báo của Booth và Richard (1998). Trong nghiên cứu của mình, họ
nhận diện một khu vực của xã hội và đặt tên là xã hội phi dân sự (uncivil
society – một lối chơi chữ của tác giả, có thể hiểu vừa là “xã hội phi văn
minh”, vừa là “xã hội phi dân sự” - NBT). Xã hội phi dân sự này mang tính bạo lực
và đối đầu với điều kiện của các nhóm thường là phản dân chủ. Giống những biến
thể khác trong xã hội dân sự, khu vực xã hội này này ảnh hưởng tới hoạt động và
đầu ra của chính quyền. Không giống ở những nước phát triển, xã hội phi dân sự
thịnh hành ở những khu vực đang phát triển và đặc biệt là Trung Mỹ.
Ở
những quốc gia gần đây đã quá độ lên dân chủ, các mạng xã hội được chỉ ra là tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển tiếp. Gibson (2000) tìm hiểu khái niệm
này bằng việc xem xét nước Nga hậu cộng sản. Thoát ra khỏi nhà nước Xô Viết
khép kín, mạng xã hội với những mối liên kết yếu giữa các cá nhân đã chiếm lấy vị
thế vốn thường được nắm giữ bởi xã hội dân sự thông thường trong việc khởi xướng
và phát triển dân chủ. Gibson thấy rằng, mặc dù bản chất là không chính thức,
các mạng xã hội cung cấp những cuộc thảo luận chính trị và các tổ chức chính trị
mà sau đó có thể phát triển thành một xã hội hội dân sự lành mạnh. Dễ thấy rằng
bản chất mối quan hệ vốn xã hội - xã hội dân sự là phát triển đi lên, nhưng vẫn
có thể nảy nở từ những mạng xã hội thậm chí còn yếu kém.
Ngoài
việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển tiếp lên dân chủ, xã hội dân sự cũng
khuyến khích việc tiếp tục củng cố hệ thống dân chủ. Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu
và lý thuyết gia đã tập trung vào vai trò ưu tú của giới tinh hoa trong việc
gây ảnh hưởng lên hệ thống dân chủ, những nền dân chủ hoạt động đúng đắn chắc
chắn yêu cầu về đầu vào con người. Vì lý do này, Diamond (1999) cho rằng xã hội
dân sự là không thể thay thế nếu dân chủ muốn thành công. Xã hội dân sự, bằng
nhiều cách, có vai trò trung gian giữa khu vực tư nhân và nhà nước. Đầu tiên,
xã hội dân sự tập trung vào mục tiêu công hơn là những mục đích tư. Tiếp theo,
nó có quan hệ với nhà nước nhưng không tìm cách kiểm soát nhà nước. Cuối cùng,
xã hội dân sự chấp nhận sự đa nguyên và đa dạng (Diamond, 1999). Đại diện cho lợi
ích người dân, vai trò quan trọng nhất của xã hội dân sự là khả năng kiểm soát
và giới hạn quyền lực nhà nước trong khi đồng thời giúp cải cách nó. Do đó, xã
hội dân sự, một cách toàn diện nhất, có thể được coi là có ảnh hưởng tích cực
lên hệ thống dân chủ.
Những
nhánh nghiên cứu khác
Ngoài
việc ảnh hưởng tới quản trị dân chủ, vốn xã hội, mạng xã hội và xã hội dân sự
cũng ảnh hưởng tới những khía cạnh kinh tế và sản xuất của xã hội. Trong quá
trình triển khai cơ sở lý thuyết cho vốn xã hội, Coleman (1988) tìm cách giải
thích cho sự tạo ra vốn con người (ví dụ thông qua giáo dục). Rốt cuộc ông thấy
rằng sự hiện diện của vốn xã hội trong những tương tác tức thì giữa sinh viên với
những thành viên trong cộng đồng và gia đình, cũng như vốn xã hội nói chung
trong cộng đồng, ảnh hưởng tới tỉ lệ bỏ học tương đối của sinh viên. Do đó, ông
chỉ rõ rằng vốn xã hội là một hình thức quan trọng của vốn, giống như vốn vật
chất, tài chính và con người, trong việc định hình những tiềm năng kinh tế của
cá nhân và cộng đồng.
Đối
với nghiên cứu của Putnam (1993) về Italy, sự phát triển của vốn xã hội (và mạng
lưới xã hội theo sau đó) là cốt yếu trong việc tạo ra những khác biệt kinh tế
trong sự phát triển của miền bắc và nam Italy. Sự hiện diện của một xã hội dân
sự đầy sức sống ở miền Bắc Italy, xuất phát từ sự trợ giúp lẫn nhau được thiết
lập bởi các phường hội buôn bán, đã khuyến khích một nền kinh tế hiệu năng và
nuôi dưỡng sự phát triển kinh tế. Ở miền Nam, những xã hội được tổ chức theo
chiều dọc chưa bao giờ cho phép sự hợp tác và do đó kìm hãm phát triển kinh tế.
Đối với Putnam, ý tưởng về sự có qua có lại và lòng tin chính là nền móng cho sự
phát triển tích cực ở đa số các mặt của xã hội, bao gồm cả kinh tế.
Những
khái niệm về hiệu năng sản xuất của xã hội được nhắc đến trong cuộc thảo luận
xã hội học của Dekker và Uslaner (2001) về vai trò của vốn xã hội trong việc ảnh
hưởng tới các kết quả kinh tế của cộng đồng. Đối với những tác giả này, một số
những điều kiện là kết quả của mối quan hệ mạnh mẽ hơn giữa mạng xã hội và vốn
xã hội. Đầu tiên, quá trình chia sẻ thông tin khuyến khích hiệu năng bằng việc
cho phép các cá nhân tránh được những phương thức sản xuất thiếu hiệu quả. Thứ
hai, các hoạt động được điều phối nhiều hơn trong cộng đồng với mức vốn xã hội
cao hơn. Ví dụ, các tác giả cho thấy sự thất bại của hệ thống tưới tiêu do những
hành động thủ lợi của các nông dân mong muốn nắn lại dòng nước do họ nhìn thấy
những cơ hội khác. Thứ ba, việc ra quyết định tập thể khuyến khích sự phân bổ
hàng hóa công hiệu quả hơn. Đối với Dekker và Uslaner, tất cả những hoạt động
khuyến khích hiệu năng này đều là kết quả của mức độ vốn xã hội cao hơn tồn tại
trong cộng đồng.
Ngoài
hiệu ứng tới chính quyền và kinh tế của vốn xã hội, mạng xã hội và xã hội dân sự,
một số những tác động chỉ xuất hiện trong phạm vi cộng đồng cũng được nhận diện.
Putnam và Feldstein (2003) đã đưa ra được một số nhận diện rõ ràng nhất về các
lợi ích này. Lợi ích của vốn xã hội đối với cá nhân không chỉ cụ thể, mà chúng
còn mở rộng tới cả cộng đồng với tư cách là một loại hàng hóa công. Rút ra mối
tương quan giữa mức độ vốn xã hội và các điều kiện của cộng đồng, Putnam và
Feldstein quan sát thấy những cộng đồng với mức độ vốn xã hội cao hơn (được hiểu
và đo lường khác nhau) có tỉ lệ tội phạm thấp hơn, trẻ sơ sinh khỏe mạnh hơn,
và tỉ lệ bỏ học thấp hơn. Những điều kiện được cải thiện này minh họa cho tầm
quan trọng của vốn xã hội trong xã hội vượt ra ngoài phạm vi của hiệu năng kinh
tế và quản trị dân chủ.
Phê
bình
Nhiều
nghiên cứu đã mở rộng các ý tưởng gắn với vốn xã hội, mạng xã hội, và xã hội
dân sự theo cách thức phản biện nhưng hữu ích. Đa phần các phê bình xuất phát từ
ý kiến cho rằng những thuật ngữ này chưa thật sự hoàn chỉnh. Công trình của
Foley và Edwards (1996) là một ví dụ tốt cho sự mở rộng này. Bên cạnh sự hiểu
biết về xã hội dân sự mà chương này đã bàn tới (nghĩa là xã hội dân sự nâng cao
tính chất dân sự trong dân chúng, điều này tiếp theo sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho quản trị dân chủ), những nhà nghiên cứu cũng tâm đắc với việc có một xã hội
dân sự thay thế. Họ ấp ủ ý tưởng về một xã hội dân sự truyền thống gọi là Xã hội
Dân sự I, và một xã hội dân sự thay thế, gọi là Xã hội Dân sự II.
Xã
hội Dân sự II sỡ hữu nhiều quyền tự trị hơn và do đó ở một vị thế tốt hơn để chống
lại cơ cấu chính quyền. Lập luận này đặc biệt áp dụng cho những chế độ chuyên
chế. Trong bối cảnh này, Xã hội Dân sự II có khả năng chống lại chế độ chuyên
chế và có tiềm năng khuyến khích thay đổi chế độ. Tương tự, Booth và Richard
(1998) mở rộng thảo luận về xã hội dân sự bao gồm cả Xã hội Dân sự III. Hình thức
của xã hội dân sự này bị giới hạn nghiêm ngặt ở những nỗ lực thay đổi chế độ. Về
cơ bản, Xã hội Dân sự III bản chất mang tính cách mạng. Trong khi những phê
bình này ít hay nhiều đều mang tính hữu ích, điều quan trọng là cần tập trung
vào tính hoàn chỉnh của khái niệm trong mọi bối cảnh.
Một
phê bình nổi bật về thảo luận vốn xã hội, mạng xã hội, và xã hội dân sự là những
kết luận xung quanh tác động của các tổ chức đã bị phóng đại. Mặc dù nhiều nhà
nghiên cứu dám chắc vốn xã hội tác động trực tiếp lên các mặt của đời sống cá
nhân và xã hội, những người khác thì không đồng ý như vậy, nói rằng nó chỉ là một
phần của câu đố. Ví dụ, Stolle và Hooghe (2003) đặt câu hỏi về tầm quan trọng của
đời sống mang tính tổ chức đối với cá nhân. Họ cũng kết luận rằng tác động của
vốn xã hội bên ngoài bối cảnh của nhóm, nếu có, cũng yếu ớt. Mặc dù không muốn
xóa bỏ đời sống mang tính tổ chức ra khỏi vị trí nổi bật trong nghiên cứu, họ
khuyến khích sự tập trung vào hoạt động nội bộ của các nhóm (và phong trào vốn
xã hội theo sau). Stolle và Hooghe cũng thúc giục những nghiên cứu xa hơn về
các tác động bên ngoài của các nhóm và vai trò của xã hội dân sự.
Một
phê bình khác thường xuất hiện trong các nghiên cứu về vốn xã hội, mạng xã hội
và xã hội dân sự tập trung vào phương pháp đo lường những chủ đề này. Chúng ta
làm thế nào có thể đo lường chính xác một ý tưởng như vốn xã hội? Những cách tiếp
cận đo lường thì rất nhiều. Một số cá nhân thích khảo sát để nhận diện vốn xã hội.
Khảo sát thường khiến việc so sánh giữa các quốc gia trở nên bất khả thi vì việc
chuyển giao ý tưởng giữa các quốc gia khó có thể thực hiện được. Đối với xã hội
dân sự, nhiều nhà nghiên cứu vận dụng số lượng trung bình các nhóm trong xã hội
hoặc số lượng các nhóm mà một cá nhân có liên quan. Một lần nữa, vấn đề về đo
lường nổi lên liên quan tới việc nên bao gồm nhóm nào, làm sao phân biệt giữa
các loại nhóm, và có nên tính đến yếu tố thời gian trong đo lường không. Mạng
xã hội cũng đặt ra những khó khăn trong việc đo lường do bản chất mong manh nội
tại trong sự liên kết giữa các cá nhân. Mặc dù những vấn đề này không phải
không khắc phục được, chúng cần được xem xét khi liên quan tới đánh giá kết luận
về các khái niệm được rút ra bởi những nhà nghiên cứu.
Nghiên
cứu tương lai
Nghiên
cứu về vốn xã hội, mạng xã hội và xã hội dân sự đã đi một chặng đường dài kể từ
công trình của Coleman và Putnam 20 năm trước. Tuy nhiên, trong khi các khái niệm
tiếp tục phát triển, bối cảnh xã hội vẫn tiếp tục thay đổi. Đi cùng với sự thay
đổi này là nhu cầu tiếp tục phát triển các khái niệm và thử nghiệm những thay đổi,
tập trung vào mặt ứng dụng. Một ví dụ về một khái niệm mới có thể làm sáng tỏ
vai trò của vốn xã hội trong việc ảnh hưởng tới các hành vi dân chủ là ví dụ về
vốn chính trị. Theo Booth và Richard (2009), vốn chính trị là cơ chế liên kết kết
nối vốn xã hội với các kết quả chính trị. Những nghiên cứu như thế này sẽ giúp
làm sáng tỏ hiệu ứng của vốn xã hội và xã hội dân sự lên nền dân chủ.
Một
thay đổi lớn diễn ra trong thập kỷ qua, và sẽ tạo ra nhu cầu đặc biệt cho những
nghiên cứu xa hơn, là sự phát triển công nghệ, vốn đã tái định hình việc chúng
ta hiểu các nhóm được cấu trúc thế nào. Trong nghiên cứu về nước Mỹ, Putnam
(1995, 2000) chỉ ra sự phát triển công nghệ truyền hình là một nguyên nhân của
sự suy giảm tình cảm láng giềng, điều này trực tiếp ảnh hưởng tới xã hội dân sự. Sự xuất
hiện của tổ chức mà ông gọi là
tổ chức thứ ba (tertiary associations), được hiểu là tổ chức liên quan
chủ yếu đến việc thư từ qua lại và những lần thanh toán (tiền) đến hạn nhưng ít
gặp mặt, đã làm thay đổi cách người Mỹ nhìn nhận các nhóm. Theo cách này, nhóm
và tác động của nó lên chính trị và xã hội thay đổi theo thời gian.
Đổi
mới công nghệ sẽ một lần nữa thay đổi tác động của nhóm lên chính trị và xã hội,
đáng chú ý nhất liên quan tới Internet. Mặc dù tương tác giữa các thành viên
nhóm trên mạng trực tiếp hơn là trong trường hợp tổ chức thứ ba, vẫn chưa chắc
là vốn xã hội phát triển qua mạng Internet có hoạt động tương tự như vốn xã hội
phát triển qua tổ chức cộng đồng như hội phụ huynh - giáo viên trong một ngôi
trường địa phương không. Theo nhiều cách, các trang mạng xã hội trên Internet
chính xác như những gì được quảng cáo: chúng là những mạng xã hội thực thụ. Nói
cách khác, những trang mạng này có vẻ khuyến khích chủ nghĩa cá nhân hơn là
tính chất có đi có lại một cách vô tư. Vì những lý do này, nghiên cứu tập trung
vào vai trò của vốn xã hội, mạng xã hội và xã hội dân sự cần phải được tiếp tục.
Nếu
không thể dự đoán trước được quá trình đổi mới công nghệ, liệu có thể còn có chỗ
cho nghiên cứu như những gì đang diễn ra ở hiện tại hay không? Câu trả lời là một
tiếng “có” vang dội. Quan điểm kinh điển về vai trò của các tổ chức trong xã hội
vẫn yêu cầu sự tập trung chú ý ở những nước đang phát triển. Nhiều nước tiếp tục
phấn đấu cho quản trị dân chủ, và nhiều nước nữa đang thúc đẩy củng cố chế độ
dân chủ. Ở những nước này, nghiên cứu về xã hội dân sự truyền thống và mạng xã
hội vẫn còn nhiều tiềm năng. Ngoài việc xác nhận những quan điểm đã có, những
nghiên cứu này sẽ cho phép những thực tế mới được tích hợp vào những nghiên cứu
trong quá khứ, điều này sẽ làm tăng tính vững chắc hoặc truyền cảm hứng thay đổi
cho những kết luận trước đây. Về cơ bản, vẫn cần tìm hiểu nhiều về vốn xã hội,
mạng xã hội, và xã hội dân sự ở những nước phi dân chủ, dân chủ mới hay đang
trong quá trình củng cố dân chủ, những thứ vốn không thể học hỏi được ở những nền
dân chủ đã vững vàng.
Kết
luận
Các
cá nhân giao kết với nhau một cách tự nhiên. Ngoài những tương tác đơn giản, vụn
vặt, mọi người thường tìm kiếm những nhóm để gia nhập dựa trên ưu tiên của
mình. Cơ sở cho việc gia nhập có thể là tôn giáo, sắc tộc, chính trị…Tổ chức có
thể ở dạng các nhóm môi trường, liên đoàn bowling, nhà thờ, đảng phái chính trị,
tổ chức láng giềng, các mạng xã hội trên internet…Các nhóm cũng đa dạng như những
thành viên tham gia. Tuy nhiên, dù có đa dạng tới đâu, vẫn có những hiệu ứng nhất
quán nhất định đối với những cá nhân là thành viên một nhóm. Những hiệu ứng này
được quan niệm là vốn xã hội. Với tư cách là thành viên một nhóm, các cá nhân
xây đắp vốn xã hội bằng việc đóng góp vào hệ thống có đi có lại một cách vô tư
trong đó những cá nhân khác, thường là thành viên của cùng một nhóm, sẽ đền đáp
những nỗ lực mà cá nhân đã đóng góp. Sự đền đáp đó có thể trong một bối cảnh
tương tự mà đóng góp được trao. Tuy nhiên, sự đáp trả đó có thể xuất hiện trong
một bối cảnh đặc biệt. Dù gì đi nữa, các cá nhân mong muốn được đền đáp lại như
những gì bên kia đã được hưởng. Theo cách này, vốn xã hội ảnh hưởng tới nhóm và
biểu hiện của cá nhân bằng cách truyền tải lòng tin và mong muốn đền đáp.
Mạng
xã hội và xã hội dân sự là những khái niệm rộng hơn tập trung vào thể loại và số
lượng nhóm trong một hệ thống cụ thể (ví dụ: đất nước). Trong mạng xã hội và xã
hội dân sự, vốn xã hội được trao đổi và lưu trữ, ảnh hưởng tới thái độ và hành
vi của cá nhân. Mạng xã hội nổi lên với tư cách một tổ chức ít chính thức hơn của
các cá nhân với lợi ích chung, và khi cùng hành động có thể tạo ra hiệu ứng lớn
hơn lên hệ thống. Xã hội dân sự là khái niệm tổng hợp nhất, mô tả số lượng, cường
độ của mạng xã hội và các tổ chức khác trong một hệ thống. Sức mạnh của xã hội
dân sự là một khái niệm rộng về bản chất tổ chức của hệ thống, vốn có thể ảnh
hưởng lớn tới hành vi của những chủ thể ở cấp độ hệ thống.
Những khái niệm trong chương này sẽ được cảm
nhận hiệu quả nhất ở những nước có chế độ dân chủ. Ở những hệ thống chính trị
có tính chất tham dự cao, các tổ chức hiệp hội trở thành nơi tập trung, lan
truyền cảm hứng hoặc kêu gọi vận động trong hệ thống chính trị. Quá trình tham
gia chính trị hình thành nên quản trị dân chủ, và các tổ chức hiệp hội có thể định
hình quá trình tham gia này. Ngoài chính trị, một xã hội dân sự mạnh mẽ cũng có
thể ảnh hưởng tới kinh tế bằng cách khuyến khích hiệu năng và ảnh hưởng tới những
điều kiện nhân khẩu học nói chung thông qua giáo dục và làm giảm xu hướng phạm
tội của các cá nhân trong cộng đồng.
Những
nỗ lực mang tính học thuật của các nhà nghiên cứu đã trải rộng trên toàn cầu.
Trong lúc bối cảnh của nghiên cứu rất khác nhau giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển, sự đồng thuận nói chung vẫn là vốn xã hội, mạng xã hội và
xã hội dân sự là những khái niệm nhất quán. Biến thể chính là sự khác biệt giữa
hệ thống chính trị dân chủ và phi dân chủ. Về cơ bản, những hệ thống khuyến
khích đầu vào cá nhân (nghĩa là dân chủ) không thể tránh khỏi ảnh hưởng của các
tổ chức hiệp hội. Ảnh hưởng đó có thể mạnh mẽ và rộng lớn, cũng như nó có thể
tinh vi và cụ thể. Chỉ có những nghiên cứu tiếp theo mới làm rõ được những khác
biệt này.
Nguồn:
http://nghiencuuquocte.net/2014/04/20/xa-hoi-dan-su-la-gi/
Tài
liệu tham khảo và đọc thêm
Almond,
G. A., & Verba, S. (1963). Civic culture. Princeton, NJ: Princeton
University Press. Blaney, D. L., & Pasha, M. K. (1993). Civil society and democracy
in the third world:
Ambiguities
and historical possibilities. Studies in Comparative International Development,
28(1), 3 24.
Booth,
J. A., & Richard, P. B. (1998). Civil society, political capital, and
democratization in Central America. Journal of Politics, 60(3), 780 800.
Booth,
J. A., & Richard, P. B. (2009). Descifrando el capital social en las
democracies de América Latina [Deciphering social capital in the democracies of
Latin America]. In L.
H.
Gómez & J. A. Booth (Eds.), Perspectivas para la democracia en América
Latina [Perspectives on democracy in Latin America]. Toluca, Mexico:
Universidad Autónoma del Estado de México.
Bourdieu,
P. (1985). The forms of social capital. In J. G. Richardson (Ed.), Handbook of
theory and research for the sociology of education (pp. 241 258). New York:
Greenwood.
Cohen,
J., & Rogers, J. (1992).
Secondary associations and democratic governance. Politics & Society,
20(4), 393 472.
Coleman,
J. S. (1988). Social capital in the creation of human capital. American Journal
of Sociology, 94(Suppl.), S95 S120.
Dekker,
P., & Uslaner, E. M. (2001). Social capital and participation in everyday
life. London: Routledge.
Diamond,
L. (1999). Developing democracy: Toward
consolidation. Baltimore: Johns Hopkins University Press.
Durkheim,
É. (1984). The division of labor in society (W. D. Halls, Trans.). New York:
Free Press. (Original work published 1893)
Edwards,
B., Foley, M. W., & Diani, M. (2001). Beyond Tocqueville: Civil society and
the social capital debate in comparative perspective. Hanover, NH: University
Press ofNew England.
Field,
J. (2003). Social capital. London: Routledge.
Fine,
B. (2001). Social capital versus social theory: Political economy and social
science at the turn of the millennium. New York: Routledge.
Foley,
M. W., & Edwards, B. (1996). The paradox of civil society. Journal of
Democracy, 7(3), 38 52.
Gibson,
J. L. (2001). Social networks, civil society, and the prospects for
consolidating Russia’s democratic transition. American Journal of Political
Science, 45 (1), 51 69.
Grootaert,
C. (2001). Social capital: The missing link? In P. Dekker & E. M. Uslaner
(Eds.),
Social
capital and participation in everyday life (pp. 9 29). New York: Routledge.
Huntington,
S. P., & Nelson, J. M. (1976). No easy choice: Political participation in
developing countries. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Isham,
J., Kelly, T., & Ramaswamy, S. (2002). Social capital and economic
development: Well being in developing countries. Northampton, MA: Edward Elgar.
Madison,
J. (1982). Federalist No. 10. In G. Wills (Ed.), The federalist papers by
Alexander Hamilton, James Madison, and John Jay (pp. 42 49). New York: Bantam
Books. (Original work published 1787)
Putnam,
R. D. (1993). Making democracy work: Civic traditions in modern Italy.
Princeton, NJ: Princeton University Press.
Putnam,
R. D. (1995). Bowling alone: America’s declining social capital. Journal of
Democracy, 4(1), 65 78.
Putnam,
R. D. (2000). Bowling alone: The collapse and revival of American community. New
York: Simon & Schuster.
Putnam,
R. D., & Feldstein, L. M. (2003). Better together: Restoring the American community.
New York: Simon & Schuster.
Putnam,
R. D., & Goss, K.A. (2003). Introduction. In R. D. Putnam (Ed.),
Democracies in flux: The evolution of social capital in contemporary society
(pp. 3 20). Oxford, UK: Oxford University Press.
Rosenstone,
S. J., & Hansen, J. M. (2003). Mobilization, participation, and democracy
in America. New York: Longman.
Simpson,
P. L. P. (1997). The politics of Aristotle. Chapel Hill: University of North
Carolina Press.
Stolle,
D., & Hooghe, M. (2003). Conclusion: The sources of social capital
reconsidered. In
M.
Hooghe & D. Stolle (Eds.), Generating social capital: Civil society and
institutions in comparative perspective (pp. 231 248). New York: Palgrave
Macmillan.
Tocqueville,
A. de. (1840). Democracy in America. New York: Schocken.
Uslaner,
E. M. (2002). The moral foundations of trust. New York: Cambridge University
Press.
Verba,
S., Nie, N. H., & Kim, J. (1978). Participation and political equality: A
seven nation comparison. Chicago: University of Chicago Press.
Verba,
S., Schlozman, K. L., & Brady, H. E. (1995). Voice and equality: Civic
voluntarism in American politics. Cambridge, MA: Harvard University Press.