Đỗ Kim Thêm
Mối
quan hệ giữa Hoa kỳ và Việt Nam đã phát triển tốt đẹp qua thời gian. Hai nước
đã trao đổi nhiều quan tâm chung từ mậu dịch đến văn hoá và an ninh. Việt Nam
đã bán được nhiều nông sản phẩm và mua các mặt hàng có trình độ cao của Hoa kỳ
nhằm cải thiện phương thức sản xuất và lối sống của mình. Số lượng sinh viên
người Việt đến Hoa kỳ ngày càng nhiều để học những thành tựu khoa học mới mà
Hoa kỳ hiện nay đang còn chiếm ưu thế. Việt kiều tại Hoa kỳ đã đóng góp đáng kể
cho công cuộc đổi mới đất nước qua việc giúp đỡ thân nhân và đầu tư qui mô tại
quê nhà. Những thành tựu ngoạn mục về đổi mới kinh tế của Việt Nam được các định
chế tài trợ và doanh nghiệp quốc tế ca ngợi, nhưng cho đến nay Việt Nam đã
không có cải tổ luật pháp tương xứng như họ hy vọng. Trước những áp lực của họ
và với ý thức vấn đề thay đổi hiến pháp và tôn trọng nhân quyền của người Việt,
những thành tựu trong tiến trình cải cách còn quá ít so với sự mong đợi, dù Việt
Nam luôn đề cao vai trò nhà nước pháp quyền. Trong khi Việt nam đang tiếp tục
tìm hiểu về đất nước và con người Hoa kỳ thì một khía cạnh đặc biệt nhất là hệ
thống pháp luật và khái niệm Rule of Law lại ít được công luận quan tâm. Giới
thiệu những đặc điểm này nhằm đóng góp vào việc thảo luận chung hiện nay là mục
tiêu của bài viết sau đây.
Không
giống các nước Anh, Pháp và Đức khái niệm Rule of Law taị Hoa kỳ đã gắn liền với
chủ thuyết về tự do của tư bản chủ nghiã và hệ thống chính trị dân chủ. Đây
chính là hai tiền đề đặt ra để tìm hiểu.
I.
Khái niệm về tự do
Chủ
thuyết về tự do tại Hoa kỳ đề cao vai trò của cá nhân trong mọi quyết định. Mổi
ngưòi trưởng thành đều có quyền theo đuổi lối sống mà chính mình lưạ chọn và
không làm hại đến nguời khác. Hobbes và Locke đã đề xuất lý thuyết về khế ước
xã hội nhằm giới hạn quyền tự do tuyệt đối cá nhân. Cả hai lập luận là cuộc sống
mà không có luật pháp chỉ đem lại sự bất an cho mọi người. Do đó, mỗi cá nhân
phải đồng ý từ bỏ một phần tự do tuyệt đối của mình để đánh đổi lấy sự bảo vệ của
luật pháp mà xã hội mang lại. Nhưng đồng thuận đến mức độ nào cho sự đánh đổi
này là vấn đề. Chính quyền tôn trọng tự do cá nhân nhưng cá nhân cũng phải tuân
thủ pháp luật do xã hội đề ra. Ý niệm này đưa đến khái niệm về công bình trước
pháp luật. Bất cứ ai cũng phải tuân hành pháp luật như nhau, kể cả chính quyền
cũng không thể đưa ra những ưu quyền khi áp dụng luật pháp, mà bốn hình thức về
tự do cơ bản sau đây là một đặc điểm trong sinh hoạt dân chủ tại Hoa kỳ.
1.
Tự do chính trị
Từ
bỏ tự do cá nhân là điều không ai muốn, nhưng người dân chỉ từ bỏ khi đánh đổi
nó để được gì cao quý hơn. Câu trả lời là cá nhân chỉ tuân thủ luật pháp do
chính mình làm ra và vì đây chính là quyết định của mình mà không do người khác
áp đặt. Vì làm luật để bảo vệ mình chứ không làm luật để chống mình, nên không
có người dân nào đồng tình cho việc áp dụng những luật đàn áp. Những quyền tự
do cơ bản theo ý nghĩa chính trị là tự do đầu phiếu, ngôn luận, lập hội và đi lại.
2.
Tự do trước pháp luật.
Cá
nhân chỉ được hưởng tự do đích thực khi chính quyền hành sử đúng luật pháp quy
định. Đây là một đòi hỏi chính đáng vì cho dù người dân phải chấp hành luật
pháp nhưng cũng cần phải biết trước chính quyền sẽ áp dụng luật lệ nào, hậu quả
nào mình sẽ phải nhận lãnh khi vi phạm. Luật pháp, dù mang tính tổng quát,
nhưng phải rõ ràng, có thể giải thích được theo tiêu chuẩn quy định. Hình luật
là một thí dụ điển hình, không ai có thể bi trừng phạt mà khung hình phạt và tội
danh không được quy định trước, và quan trọng nhất mỗi người được suy đoán là
vô tội cho đến khi có bằng chứng ngược lại. Do đó, tự do trước pháp luật phải
được hiểu là cá nhân được phép làm những gì mà luật pháp không cấm.
3.
Tự do cá nhân
Tự
do của cá nhân chỉ được tôn trọng khi những cấm đoán liên hệ đến tự do phải được
quy định. Tại Hoa kỳ những giới hạn này đã được đề rõ trong Bill of Rights.
Theo đó thì tự do cá nhân có thể bị giới hạn về mặt thủ tục hay nội dung và
chính quyền khi nào được can thiệp vào tự do cá nhân, trong chừng mực và lãnh vực
nào. Đây là một vấn đề gây nhiều tranh luận trong học giới vì tự do cá nhân có
liên hệ đến dân quyền và nhân quyền, mà hai phạm vi quan trọng nhất là tự do
tôn giáo và tự do lương tâm. Điểm chủ yếu của hai tự do này là chính quyền
không thể ngăn trở hay trừng phạt bất cứ ai vì niềm tin cá nhân của họ.
4.
Tự do được định chế hóa.
Tự
do cá nhân chỉ được bảo đảm khi bộ máy nhà nước tổ chức quy củ, điển hình là phải
định chế hoá để gây niềm tim cho người dân mà hai nguyên tắc tam quyền phân lập
và cơ chế phân quyền trung ương địa phương là hai điểm chủ yếu. Sự phân quyền
này, nếu hữu hiệu, sẽ tránh được nguy cơ tập trung và lạm quyền mà cuối cùng là
ngưòi dân chịu thiệt hại. Sự phân biệt thẩm quyền lập pháp và tư pháp là quan
trọng nhất là vì luật pháp phải có trước khi được áp dụng. Chính toà án là nơi
phán xét cuối cùng mọi hành vi các hoạt động của chính quyền và cá nhân là hợp
hiến và hợp pháp hay không. Để đạt được yêu cầu này thì mọi người dân phải có tự
do khiếu kiện khi quyền tự do của mình bị vi phạm. Một đặc điểm nổi bật của tự
do được định chế hoá là không phải cá nhân tự quyết định vấn đề mà chính hệ thống
chính trị và luật pháp khi được định chế hoá sẽ mang đến một cơ chế bảo vệ hữu
hiệu.
Bốn
tự do nêu trên nếu được thực hiện đầy đủ thì tự do cá nhân người dân sẽ được bảo
vệ tối đa. Điều này chỉ có trong một xã hội mà nền dân chủ đã được định hình mà
quyền tự do là giá trị chung cho sinh hoạt xã hội được mọi người cùng tôn trọng
và thực thi. Lý tưởng này cũng đã gây nhiều tranh cãi tại Hoa kỳ khi tự do
chính trị và quyền cá nhân là những xung đột thường trực.
5.
Xung đột giữa chính quyền và dân quyền
Câu
hỏi chủ yếu mà người dân trong một xã hội dân chủ đặt ra là: Ai cai trị tôi
đây? Trong chừng mực nào thì họ được phép can thiệp vào đời sống cá nhân của
tôi? Giá trị cao cả của chủ thuyết tự do là đề cao tự do cá nhân và hạn chế tối
đa quyền can thiệp của chính quyền trong mọi sinh hoạt xã hội. Nói một cách lý
tưởng, thì bất cứ sự can thiệp nào cũng là điều bất hạnh cho người dân, dẫn đến
sự bất ổn và dễ phát sinh độc tài và mị dân, nhất là dễ mất tài sản. Kant cho rằng
ngưòi dân có quyền tự do không tuân thủ bất cứ loại luật nào mà mình không ủng
hộ. Ông đề cao vai trò tích cực của người dân trong các cuộc bầu cử nhưng chê
trách những người còn đang học nghề, phụ nữ, gia nhân và tá điền vì họ không
tham gia bầu cử. Quyền lợi của giới này luôn bị lệ thuộc vào người chủ nên họ
lơ là việc đầu phiếu, từ đó mà giai cấp hữu sản dể lạm dụng dân chủ.
James
Madison và Alexander Hamilton trong the Federalist Papers cũng đề cập sự nguy
hiểm của chế độ dân chủ. Hai ông cho rằng bảo vệ tự do công cộng, tôn trọng tự
do cá nhân, chống lại mọi sự lạm dụng nhân danh dân chủ của đa số và phải duy
trì tinh thần và hình thức của một chính quyền của toàn dân, đáp ứng tất cả mọi
yêu cầu này cùng một lúc là một thách thức lớn. Dân chủ là hình thức cai trị tốt
nhất nhưng lại có quá nhiều đe dọa cho cho quyền tự do kết ước và quyền tôn trọng
tư hữu. Hai ông đề ra ba phương cách nhằm giới hạn những nguy hiểm do dân chủ
mang lại.
Thứ
nhất, nền dân chủ đại nghị được suy đoán là tốt vì luật pháp do tầng lớp trí thức
làm ra, giới này có hiểu biết và suy luận nên không dễ bị lung lạc bởi những cảm
tính nhất thời của quần chúng. Thứ hai, dù tam quyền phân lập và phân quyền
theo cơ chế trung ưong địa phương hạn chế sự tham gia trực tiếp của quần chúng,
nhưng cơ chế này khó làm cho chính quyền biến thành một bộ máy thống trị. Chính
vì xã hội bị phân tán quá nhiều qua các nhóm lợi ích và nhiều tầng lớp khác
nhau, nên chính quyền không thể nào có khả năng kết hợp mọi quyền lợi dị biệt
này để lạm dụng dân chủ dẩn đến độc tài. Thứ ba là vai trò kiểm soát của tư
pháp. Hamilton cho rằng phải hạn chế thẩm quyền lập pháp của quốc hội và nâng
cao vai trò của toà bảo hiến. Nhiệm vụ của toà án là kiểm tra mọi hành vi của
chánh quyền và quốc hội, nếu không, việc bảo vệ quyền lợi người dân ghi trong
hiến pháp và luật pháp trở nên vô nghĩa. Giá trị của hiến pháp không chỉ đề cao
mà phải được thực thi khi bị vi phạm. Cơ quan tư pháp không là một mối đe doạ
cho hành pháp và lập pháp. Chế độ tài phán chịu trách nhiệm giải thich luật
pháp, tố cáo và trừng phạt mọi hành vi phạm pháp.
John
Marshall, thẩm phán tối cao pháp viện cũng theo quan điểm của Hamiliton. Ông
cho rằng mọi thủ tục xét xử của tòa án phải theo đúng quy định của hiến pháp.
Hiến pháp nhằm đưa tới sự cai trị bằng luật pháp chứ không phải do sự cai trị của
con người. Một hiến pháp thành văn phải quy định những biện pháp kiểm soát, đặc
biệt là những giới hạn về thẩm quyền lập pháp. Nhưng đề cao quá mức vai trò của
tư pháp trong việc xét xử sẽ đi đến phản dân chủ vì vấn để bảo vệ quyền lợi của
ngưòi dân cuối cùng cũng sẽ bị xâm phạm khi nền tư pháp bị lạm dụng. Thực ra cơ
quan tư pháp cũng như lập pháp và hành pháp là một định chế dân chủ, cũng được
bầu cử và bổ nhiệm theo đúng quy định dân chủ. Do đó tư pháp cũng bị kiểm soát,
nên sự lạm dụng khó có thể xãy ra.
6.
Tự do và đạo đức
Ý
nghĩa cao cả của chủ thuyết tự do là tôn trọng tự do cá nhân. Mỗi người có quyền
có viễn kiến riêng và tự do theo đuổi và hành động những gì mà mình cho là tốt
đẹp nhất cho đời mình. Nhưng tốt hay xấu lại là vấn đề đạo đức cá nhân trong
lương tâm xã hội. Định nghĩa tốt xấu hay dở là do trình độ văn hoá và lối sống
của từng cá nhân và sự chấp nhận của xã hội. Không ai có thể tổng quát hoá một
lối sống hay một mục tiêu và áp đặt người khác phải tuân theo, nhất là trong một
xã hội đa dạng và đa chủng. Tự do cá nhân chỉ có thể phát huy trong một xã hội
dân chủ nếu xã hội này chấp nhận đa dạng về đạo đức. Hoa kỳ có nhiều sắc dân và
khuôn mẫu văn hoá khác nhau, nên mô hình đa dạng về giá trị đạo đức và văn hoá
là đặc điểm lịch sử và dễ được chấp nhận hơn. Tôn trọng tự do cá nhân và khoan
dung trước những giá trị đạo đức khác biệt là một đặc điểm xã hội Hoa kỳ. Do
đó, tự do phải đóng một vai trò trung dung trong việc hình thành khuôn mẩu đạo
đức cho xã hội. Chính quyền không vì nhân danh tự do để áp đặt một khuôn mẩu đạo
đức.
7.
Tự do và tư bản
Ý
niệm về tự do liên hệ đến sinh hoạt kinh tế thị trường trong xã hội tư bản. Chủ
thuyết tự do thường bị phê phán là một sản phẩm của giới tư sản khi căn cứ vào
sự hình thành của thương giới và sự phát triển đô thị tại nước Anh trước đây.
Locke giải thích khi bắt đầu có tài sàn, doanh giới ý thức được sự phát triển
thế lực nhằm chống lại mọi đặc quyền của giớí quý tộc và giáo hội, đặc biệt chống
lại mọi sư áp đặt thuế khoá bất công. Một trong những tự do được đề cao trong
thời kỳ này là tự do kết ước các hợp đồng thương mại và lao động và quyền bảo vệ
tài sản. Doanh giới còn đòi hỏi rằng khi chính quyền can thiệp vào các hoạt động
kinh tế thì phải có những luật lệ rõ ràng có thể đoán trước và nhất là không
làm haị đến các tự do hoạt động của họ. Max Weber nêu rõ khi mọi hành vi của
chính quyền có thể tiên đoán được và pháp luật bảo đảm được mọi hoạt động kinh
tế đó chính là là tiền đề cho sự phát triển chủ nghiã tư bản.
Chủ
thuyết về tự do ra đời tại Hoa kỳ, đã là một trong những thành tố giúp cho sự
phát triển hệ thống luật pháp, nhưng quan trọng nhất là sự thành hình hiến
pháp, mà khái niệm chính sẽ được giới thiệu sau đây.
II.
Khái niệm về hiến pháp
Từ
1764 cho đến 1776 khái niệm về hiến pháp được định hình và làm khởi điểm cho mọi
học thuyết về luật hiến pháp sau này. Từ constitution được sử dụng để chỉ tính
cách tạo lập của hiến pháp. Luật hiến pháp quy định tổ chức của bộ máy nhà nước
và các quyền cơ bản người dân, việc thành hình quốc hội và các trường hợp tu chỉnh
hiến pháp. Luật này phải được toàn dân biểu quyết và đặt được kiểm soát bởi các
cơ quan tư pháp, mà tối cao pháp viện là một định chế cao nhất. Vì luật hiến
pháp có tính tối thượng nên ngưòi Hoa Kỳ goị là luật của luật (Rule of rules)
mà người Việt có thói quen gọi là luật mẹ của các luật khác.
Các
học thuyết luật hiến pháp đều đồng ý một điểm chung là quyền quyết định vận mệnh
đất nước thuộc toàn dân mà hiến pháp là một bản văn quy định cao nhất. Dù thực
tế có sự xung đột giữa chính trị và luật pháp, nhưng tinh thần thượng tôn luật
pháp (Rule of Law), đặc biệt là luật hiến pháp là điểm chính. Từ đó khái niệm
Rule of Law ra đời để nhằm đề cao vai trò pháp luật trong việc cai trị đất nước,
chính tinh thần này quyết định chứ không phài bởi con người (rule of men). Tinh
thần của Rule of Law tại Hoa kỳ biểu hiện sự bảo vệ các tự do cơ bản của ngưòi
dân, đặc biệt là quyền tự do chính trị và quyền tự do dân sự mà hiến pháp đề ra
mà ý nghĩa cuả nó đã được Montesquieu giải thích.
Đến
thế kỷ XX thì khái niệm về luật hiến pháp tại Hoa kỳ được xét lại triệt để vì
lý do luật pháp diễn biến phức tạp qua thời gian. Trước đây hiến pháp được coi
là văn kiện bảo đảm dân quyền và thẩm quyền lập pháp của quốc hội được coi trọng.
Thực tế cho thấy có quá nhiều tình huống xảy ra trong xã hội ngoài dự liệu của
nhà lập hiến và lạm dụng của hành pháp, nên chế độ tài phán của cơ quan tư pháp
lại được quan tâm. Ngược lại, học giới luôn cảnh báo là tính tối thượng của luật
hiến pháp không còn nữa và lo ngại rằng chính cơ quan tối cao pháp viện làm mất
đi sự an toàn pháp luật. Thực ra vấn đề này đã có từ lâu trong khi tối cao pháp
viện quyết định các vấn đề vi hiến của lập pháp và hành pháp, điển hình là việc
chánh án John Marshall chuẩn nhận từ án lệ Marbury v. Madison từ 1803.
Tựu
chung thì trong suốt thế kỷ XIX các học giả đã nêu lên hai mô hình chính cuả luật
hiến pháp. Mô hình thứ nhất chiếm đưọc ưu thế từ ngay sau khi nội chiến chấm dứt
mà nguyên tắc chủ yếu là những quyền tự do cơ bản được bảo vệ hữu hiệu khi
nguyên tắc phân quyển và cơ chế chính quyền liên bang đưọc thực thi. Bill of
Rights là một phương tiện để bảo đảm quyền này nhằm chống lại sự can thiệp của
chính quyền liên bang và đề cao việc thực thi quyền của ngưòi dân.
Mô
hình thứ hai được áp dụng từ cuối thế kỷ XIX cho đến thời New Deal, đặc biệt là
sau khi tu chính án XIV được phê chuẩn. Điểm chính là xác nhận ưu quyền của
công dân liên bang trước quyền công dân tiểu bang. Mô hình thứ hai này dựa theo
một án lệ giải thích của tối cao pháp viện về nguyên tắc trọng pháp theo luật
thủ tục (the clause of due process). Toà án quy định rằng chính quyền chỉ có chức
năng của một người gác đêm và làm trọng tài trong mọi tranh chấp quyền lợi xã hội.
Do đó, hiến pháp cần quy định rõ hơn về các thủ tục trong tự do kết ước. Dù đề
cao tự do kết ước nhưng toà án đã chống đối việc quy định khế ước lao động dảnh
cho trẻ em.
Khái
niệm về luật hiến pháp đã có phần nào nội hàm của Rule of Law, nhưng học giới
đã góp phần trong sự định hình khái niệm này và được đề cập sơ lược sau đây.
III.
Khái niệm Rule of Law
1.
Ngay từ thế kỷ XVIII các học giả về luật hiến pháp như Edmund Burke, Benjamin
Franklin và Allan Remsey đều có một nhận xét chung về hiến pháp Hoa kỳ là một sự
tiếp nối lịch sử các truyền thống luật pháp của nước Anh. Nhưng khi giải thích
về chủ thuyết lập hiến của Hoa kỳ thì họ lại cho rằng truyền thống luật pháp tại
Hoa kỳ có chiều hướng canh tân hơn vì không có các vấn đề thuộc điạ, mà có tinh
thần cách mạng và thấm nhuần các tư tuởng của Locke và Sidney. Đây là một đặc
điểm làm phát triển khái niệm Rule of Law trong suốt các thập kỳ 1760 và 1770.
Chính John Adam, Thomas Jefferson và các học giả về luật hiến pháp đã tinh lọc
được những tư tưởng về luật học của nước Anh để áp dụng vào trường hợp của Hoa
Kỳ. Họ đã mạnh dạn đoạn tuyệt với tư tưởng quân quyền của nước Anh và đề cao
quyền dân tộc tự quyết.
Các
học giả đồng ý là có sự phân biệt về thẩm quyền lập hiến của người dân và thẩm
quyền lập pháp cuả quốc hội. Quốc hội không thể nhân danh nhân dân và lý tưởng
của luật pháp mà giới hạn quyền tối thượng của người dân, quốc hội chỉ là một
phương tiện nhằm bảo tồn quyền của ngưòi dân và không thể thay thế quyền dân tộc
tự quyết vì bất cứ danh nghĩa gì. Rule of law và rule of the people có một mối
quan hệ chặt chẽ đưa đến ý niệm chung là người dân có quyền tự quyết trong tinh
thần tôn trọng pháp luật. Ít nhất về mặt lý thuyết, điều này được duy trì cho
dù điều V của hiến pháp đã quy định thủ tục tu chỉnh hiến pháp khá phức tạp và
thủ tục xét các hành vi vi hiến và vi luật của quốc hội đã được án lệ Marbury
v. Madison chuẩn nhận.
Đến
thế kỷ XIX khi các thảo luận về khái niệm Rule of Law và quyền dân tộc tự quyết
các học giả đã chia thành hai ý kiến đối nghịch, populist republicanism và
classical republicanism. Philip Pettit, đại biểu cho populist republicanism, cho
rằng sự tham dự của quần chúng trong sinh hoạt chính trị là quan trọng nhất.
Trong một nước dân chủ thì người dân rất ít khi cần đến cơ quan lập pháp và
chính quyền. "Toàn dân" theo ông là một khái niệm diễn đạt một khối
quần chúng thuần nhất và đồng dạng. Chính quyền, dù tiểu bang hay liên bang, chỉ
là một cơ chế trung gian nhằm dung hoà mọi đòi hỏi quyền lợi dị biệt, nhất là tạo
điều kiện cho sự dung hoà quyền lợi này qua thủ tục quyết định của đa số và nhất
là tránh được tính trạng của rule of men.
Đối
với Madison, đại biểu cho classical republicanism, thì đặc quyền của tối cao
pháp viện cần phải hạn chế vì cơ quan này chỉ nên tập trung kiểm soát mọi hành
vi hiến của quốc hội và không có đặc quyền giải thích hiến pháp. Chánh án
Marschall cũng theo quan niệm này và cho rằng cần phải làm rõ thẩm quyền kiểm
tra của tòa án trưóc về các hành vi vi hiến và vi phạm pháp luật. Xác định được
đâu là quyền tư do chính trị và quyền tự do dân sự và loại bỏ đưọc mọi trở ngại
trong việc thi hành quyền dân tộc tự quyết là luận thuyết chính của classical
republicanism.
2.
Hai ý niệm này bắt nguồn từ bối cảnh của sự tranh luận gay gắt về ý nghĩa của
cuộc cánh mạng Hoa kỳ giữa hai đảng Republican Party và Federalist Party trong
cuộc tranh cử vào năm 1800 và cuối cùng đem lại việc thắng cử của Jefferson.
Jefferson cho rằng nền dân chủ của Hoa kỳ phải là một cuộc các mạng thường trực,
đúng hơn là biểu hiện một tinh thần liên tục giữa các cuộc bầu cử và cách mạng.
Jefferson tự hào sự thắng cử cuả ông chính là một cuộc cách mạng lần thứ hai của
Hoa kỳ.
Có
học giả cho rằng những tuyên bố trong lúc vận động tranh cử cũng như diễn văn
nhậm chức của Jefferson đã làm suy yếu giá trị cao cả của hiến pháp và Rule of
of Law. Thật ra, Jefferson đã đề cao những nguyên tắc về quyền đầu phiếu của
ngưòi dân mà không đề cập trực tiếp đến giá trị của Rule of Law. Ông ca ngợi
quyền bầu cử của người dân vì đây là một phương tiện mềm dẻo và an toàn nhằm uốn
nắn lại những lạm dụng từ những thành quả cách mạng mà thời kỳ ấy không có
phương tiện nào khác để cải thiện. Theo tinh thần dân chủ đa số, Jefferson đề
nghị cần phải đưa luật hiến pháp ra khỏi phạm vi chính trị. Quyền lực nhân dân
chính sẽ định hình cho hoạt động của chính phủ và nguyên tắc này sẽ mang lại hạnh
phúc cho toàn dân. Dĩ nhiên hành sử quyền dân tộc tự quyết không thể lập lại
thường xuyên, khi người dân đã xác quyết những nguyên tắc này là quyền cơ bản
thì nó được coi như là có giá trị hằng cửu. Những nguyên tắc hiến định này cũng
phài giới hạn thẩm quyền lập pháp và mọi hành vi nào của quốc hội đi ngược lại
nguyện vọng của ngưòi dân đều bị xem là vi hiến. Án lệ Marbury v. Madison là khởi
điểm nhằm xác nhận lại thẩm quyền của cơ quan tư pháp nhằm bào vệ những nguyên
tắc hiến định.
Ngược
lại, Marschall đã hậu thuẩn cho Federalist khi đề cao vị thế của tòa án. Học
thuyết classical republicanism được John Adam và các học giả khác thuộc đảng
Federalist triển khai. Họ đề cao yếu tố tín nhiệm của dân chúng nơi các đại biểu
quốc hội. Trong khi các cá nhân thường bị nghi là dễ mua chuộc và quá nhiều quyền
lợi dị biệt, do đó những ý kiến của người dân cần phải tinh lọc qua tiến trình
chánh trị mà việc bầu cử các đại biểu là một điển hình. Tham gia bầu cử của
ngưòi dân là quan trọng vì nhằm ngăn ngừa sự thoái hoá của chính quyền qua các
thái độ mị dân và độc tài, làm thiệt hại quyền lợi cho người dân.
Adam
đã đào sâu ý nghiã của chủ thuyết republicanism khi đem so sánh với nền cộng
hoà của Pháp. Ông cho rằng Pháp và Anh đều dùng từ Republic, nhưng thật ra khác
với tư duy của người Hoa kỳ. Ở Pháp và Anh từ Cộng hoà được hiểu đồng nghĩa với
nền dân chủ nghị viện, có nghĩa là chính quyền là một tổng hợp mọi quyền lực
vào một trung tâm và trung tâm đó chính là nhà nước, mà nhà nước là một tập hợp
duy nhất được dân chúng trao cho quyền dân tộc tự quyết để sử dụng trong một thời
gian nhất định. Đối với người Hoa kỳ thì sự đánh bại quân quyền không hề nhất
thiết đưa tới một nền dân chủ với ý nghĩa tuyệt đối.
Adam
nghi ngờ khả năng giải quyết vấn đề của chính quyền dân chủ vì trong xã hội có
quá nhiều đòi hỏi bất hợp lý của dân chúng và thái độ mị dân của một thiểu số
quý tộc. Nền cộng hoà của Hoa kỳ là kết quả của sự cai trị toàn dân, nhưng ý niệm
về toàn dân sẽ không có được khi không có luật hiến pháp và những nguyên tắc bảo
vệ người dân. Toàn dân không phải chỉ là một đa số thầm lặng, mà chính là khi
đa số này lên tiếng và quyết định vận mệnh của mình. Quyền lực của nhân dân phải
song hành trong tinh thần thượng tôn luật pháp (rule of law), và quyền lực này
không phải là do con người cai trị (rule of men).
Để
đạt lý tưởng này Adam đề xuất ý niệm kiểm soát và quân bình quyền lực (checks
and balances). Ông cho rằng đây là một phương tiện hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền tự
do của ngưòi dân không bị xâm phạm khi chính quyền chỉ theo đuổi những tham vọng
riêng. Adam không phủ nhận giá trị cao đẹp của quyền dân tộc tự quyết nhưng ông
cho là dung hoà mọi thảnh quả cách mạng qua các xây dựng các định chế chính trị
với phương thức kiểm soát và quân bình là chính. Đây là một hình thức nhằm duy
trì quyền dân tộc tự quyết.
4.
Trong suốt thế kỷ XIX công luận luôn chỉ trích về vai trò của tối cao pháp viện
vì không quan tâm đền quyền lợi thiết thực cúa ngưòi dân, luật pháp xa rời thực
tế nhất là mà chì có luật sư mới hiểu được luật và đất nước được cai trị những
chuyên gia mà không có quyền ủy nhiệm của người dân.
Án
lệ Lochner v. New York vào năm 1905 làm công luận càng không tin vào một nền tư
pháp độc lập, và nhất là về hình ảnh của một vị chánh án công tâm khi xét xử,
khi án lệ này thiên vị rõ rệt đề cao việc tự do trong kinh tế (laisser faire).
Mục
tiêu của luật pháp là khách quan, nhằm giải quyết những tranh chấp trong những
tình huống mà nhà lập pháp không thể quy định trong thực tế. Lý tưởng này không
đạt được vì dân chúng không còn cảm nhận rằng luật pháp là tốt đẹp để bảo vệ họ,
mà là một giải pháp tạm thời được toà án áp dụng cho phù hợp với một tình thế
nhất thời. Do đó giá trị luật pháp được hiểu theo nghĩa sống thực hơn là một
giá trị hằng cửu. Tối cao pháp viện đã luôn luôn tìm cách chống lại các chỉ
trích này và tạo một hình ảnh gần gũi dân chúng hơn. Do áp lực cúa công luận mà
tòa án cũng tự đề ra nguyên tắc tự chế, bớt can thiệp và tỏ ra tôn trọng thẩm
quyền của quốc hội.
Sau
năm 1939 tối cao pháp viện đã tự chuyển hoá từ một cơ quan chuyên bảo vệ quyền
tư hữu thì nay lại quan tâm hơn đến các quyền dân sự khác và quyền của nhóm người
thiểu số. Các quyết định của toà đã đem đến hai trào lưu mới trong việc bảo hiến.
Khuynh hướng thứ nhất là bảo vệ những quyền cố hữu của con người, thuộc vê nhân
quyền, đó là quyền tự do tư tưởng và tôn trọng những bảo mật cá nhân. Khuynh hướng
thư hai nhằm vào bảo vệ quyền bình đẳng và quyền tất cả mọi người được hưởng mọi
phúc lợi xã hội, nhưng nâng cao việc kiểm soát các tiêu chuẩn để được hưỏng quyền
này, nhằm tránh sự lạm dụng. Hai khuynh hướng này không những đã ảnh hưởng trực
tiếp đến phần lớn của những quyết định chính trị mà còn làm cho toà án đóng
thêm vai trò của nhà lập pháp. Sau thế chiến thứ hai và dưới thời Warren
1953-69 tối cao pháp viện đã có những nỗ lực đáng kể bằng cách chuẩn nhận hàng
loạt các loại quyền mới mà hiến pháp không hề quy định trước đó, thí dụ như quyền
bảo mật cá nhân và quyền phá thai.
Khủng
hoảng niềm tin vào giá trị của luật pháp kéo dài trong nhiều thập kỷ đầu của thế
kỷ XX và tạo nên nhiều xung đột giữa chủ thuyết hiến định và giá trị dân chủ,
giữa quyền lực của tối cao pháp viện và sự độc lập của bộ máy nhà nước. Tình
hình này thúc đẩy chính quyền cải tổ guồng máy chấp pháp và can thiệp mạnh về
các vấn đề an sinh xã hội nhằm đem lại bộ mặt dân chủ hơn cho chính quyền. Một
thí dụ điển hinh là ban hành các luật chấm dứt tính trạng nô lệ và cho phép phụ
nữ tham gia đầu phiếu.
Tóm
lại, khái niệm về luật hiến pháp có hàm chứa tinh thần Rule of Law mà quyền tối
thượng của nhân dân được tách rời ảnh hưỏng chính trị. Nhưng đến thế kỷ XX thì
học giới đã đưa ra nhiều phản biện về việc độc quyền giải thích hiến pháp, tính
năng động của tối cao pháp viện và nhất là xác định lại tầm quan trọng và những
giới hạn của Rule of Law.
IV.
NHỮNG PHẢN BIỆN VỀ KHÁI NIỆM RULE OF LAW
Làm
sao áp dụng khái niệm Rule of Law trong thực tế? Học giới tranh cải và đề ra
thuyết hiện thực trong luật pháp (legal realism) để tránh áp dụng Rule of Law một
cách máy móc và đặt trọng tâm vào việc tôn trọng luật về hình thức mà luật thủ
tục là chủ yếu. Khó khăn nhất theo họ là chứng minh mọi tranh chấp về luật pháp
đều chỉ có thể giải quyết được bằng luật thủ tục, và đặt các tranh chấp ra
ngoài những vấn đề nền tảng của xã hội. Dù theo lập luận chung của legal
realism nhưng lại có một số học giả đưa ra đường hướng riêng để phản biện lại
giá trị cuả Rule of Law và lập thành học thuyết Critical Legal Studies.
Các
học giả thuộc Critical Legal Studies đã có một luận điểm chung: đặc điểm của
Rule of Law là không thực tế, rời rạc và khó xác định được trong một thực tại
xã hội phức tạp. Chánh án cũng là con ngưòi, không thể thoát khỏi định kiến cá
nhân khi nghị án và xử án. Đạo đức thuần lý cũng không thể thay thế được luật
pháp. Luật pháp chỉ là kết quả của những thoả hiệp trong mọi sự xung đột quyền
lợi trong xã hội và là dấu vềt còn lại của sự tranh chấp sau khi đã được xã hội
công nhận. Bản chất của luật pháp và các họat động tài phán của tư pháp phải có
tính cách chính trị. Giải thích luật pháp hay luật hiến pháp không thể thoát khỏi
khuôn khổ của một ý thức hệ mà xã hội đâ có vì phài cứu xét trên bản văn, tìm
hiểu ý chí của nhà lập pháp, những nguyên tắc hiến định, ý nguyện của dân chúng
đương thời v.v.. Xác định Rule of Law trong tình huống ấy, thẩm phán phải tự đặt
mình trong bối cảnh chính trị và kể cả đảm nhận vai trò của nhà lập pháp. Để phản
biện giá trị của Rule of Law các học giả Antonin Scalia, Ronald Dworkin và
Bruce Ackerman nêu lên những luận chứng tiêu biểu khác biệt nhau và được đúc kết
sau đây.
1.
ANTONIN SCALIA: RULE OF LAW LÀ RULE OF RULES
Scalia
đề cao những giá trị cố hữu của luật pháp mà những nguyên tắc của luật thủ tục
phải được tôn trọng. Luật pháp phải có tính tổng quát, áp dụng phải chặt chẻ và
ổn định, nguyên tắc bất hồi tố phải được tôn trọng và sự phân chia nhiệm vụ giửa
các cơ quan phải được phân minh. Nếu hành vi của chính quyền có thể tiên đoán
được thì người dân sẽ sống yên tâm trong việc hành sử tự do cá nhân của mình và
phát huy nhân phẩm. Áp dụng nguyên tắc hình thức của Rule of Law là làm bớt đi
những nguy hiểm do những biện pháp chuyên đoán của chính quyền và sự thiên vị của
tư pháp, quan trọng nhất là không ai lạm dụng thành rule of men. Luật hiến pháp
chỉ là bản văn nhằm xác định giới hạn nội dung của Rule of Law.
Scalia
cho rằng chính Rule of Law trở thành rule of rules. Theo luận điểm này là nhà
nước cũng phải tự đặt mình trong khuôn khổ của luật pháp (state uder the law),
dù là theo luật hình thức. Trong khi các khuynh hướng chung đều cho phép thẩm
phán ngoài việc nghiên cứu bản văn còn tìm xem ý chí cúa nhà lập pháp và những
tiêu chuẩn khác trong việc nghị án. Ngược lại, Scalia cho rằng đây là một nguy
hiểm khi chánh án đi xa trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. Scalia đề nghị
trở lại tinh thần khách quan của bản văn mà không tìm hiểu thêm về ý chí chủ
quan của nhà lập pháp để giải thích luật pháp.Tinh thần thượng tôn luật pháp bắt
nguồn từ những giá trị khách quan chứ không phải là ý muốn của nhà làm luật.
Scalia cảnh báo rằng các chánh án ở Hoa kỳ đã vi phạm đến vấn đề này khi dẩm
chân lên thẩm quyền của nhà lập pháp.
Scalia
đề nghị cần phải phân biệt ý nghỉa nguồn gốc và ý nghĩa hiện tại của văn bản luật
pháp để giải thích vấn đề. Dĩ nhiên chánh án cũng cần tìm xem ý chí của nhà lập
pháp khi khởi thảo luật để soi sáng cho ý nghĩa nguyên thủy. Có thể chánh án sẽ
không thể tìm ra một một quan hệ nào để quy chiếu ý nghĩa của luật pháp vào vấn
đề thực tại. Nhưng Scalia không tin về giá trị trường cửu của luật hiến pháp.
Những gì mà hiến pháp mang đến giá trị trong quá khứ không nhất thiết sẽ có ý
nghĩa cho tương lai, giá trị của nó cũng không tùy thuộc hẳn vào ý chí của nhà
lập hiến mà còn tùy thuộc vào cơ chế tư pháp, nhất là khi cơ chế này không được
bẩu cử theo thể thức dân chủ. Đồng thời ông cũng cho là sự diễn dịch uyển chuyển
luật hiến pháp là một nguy hiểm.
Theo
Scalia, tìm hiểu luật hiến pháp chính là tìm hiểu những ảnh hưởng của xã hội
bao trùm hệ thống luật pháp và đặc biệt là tìm hiểu những phương cách giải
thích luật hiến pháp. Cách tìm hiểu này đưa đến suy luận là luật hiến pháp
không thể dùng làm phương tiện đề kháng trước những áp lực thay đổi của xã hội.
Ngược lại, Scalia cho rằng mục tiêu tối hậu của hiến pháp là duy trì tinh thần
Rule of Law qua thời gian. Điều này sẽ vô nghĩa khi không cho phép các thế hệ
hiện tại không được thay đổi những giới hạn mà thế hệ trước đặt ra.
Scalia
trình bày những sai lầm trong hệ thống giáo dục luật, phương cách đào tạo và
tiêu chuẩn chọn lựa chánh án và những hậu quả tiêu cực khác làm ảnh hưởng đến hệ
thống chính trị. Các đại học luật khoa khi giảng dạy môn luật hiến pháp không
chú trọng đi sâu vào ý nghiả bản văn hiến pháp mà tập trung về nghiên cứu án lệ.
Thủ tục tuyển chọn thẩm phán của liên bang hoàn toàn tuỳ thuộc vào các dàn xếp
chính trị có ràng buộc và bị ảnh hưởng bới công luận. Vì thế việc hảnh sử thẩm
quyền tư pháp độc lập của toà án bị đe doạ, nhất là các quyền tôn trọng quyền của
thiểu số không được quan tâm.
Scalia
còn nêu lên sự thoái hoá trong ngành tư pháp, đặc biệt là nguyên tắc dựa theo
tiền lệ (stare decisi) không được áp dụng nghiêm chỉnh. Trong nhiều truờng hợp
khác, Scalia chứng minh rằng toà án đã quá cứng rắn khi giải thích luật. Dù dựa
trên bản văn và tìm ra được ý nghĩa nguyên thủy cùa luật pháp, chánh án cũng
còn khó khăn khi tìm phương thức áp dụng thích hợp trong thực tế, nhưng giải
thích uyển chuyến là một nguy cơ trong sự an toàn của Rule of Law. Tìm những giải
thích thuộc về bối cảnh lịch sử sẽ giúp cho chánh án giải quyết vấn đề, nhưng
làm làm sao thuyết phục thế hệ hiện nay ràng buộc với những ý chí cùa nhà lập
hiến cách đây 200 năm? Một thí dụ điển hình là Tu chính án VIII có nêu lên sự cấm
đoán về những trừng phạt độc ác và bất thường (cruel and unusual punishment).
Chánh án giải thích thế nào là độc ác theo quan điểm hiện nay hay lại phải tiếp
tục trưng dẩn những quan điểm về đạo đức trước đây để lập luận? Sự ràng buộc về
luật hiến pháp và tinh thần Rule of Law do đó không chỉ dưạ trên ý chí của nhà
lập hiến và bối cành lịch sử xa xưa, vì thế hệ mới có những nhận xét về giá trị
luật pháp trong một lối tư duy và hoàn cành văn hoá khác.
2.
DWORKIN: RULE OF LAW LÀ NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC
Dworkin
phản biện khái niệm Rule of Law khi ông lập luận là không phải văn kiện lập hiến
mà chính những nguyên tắc đạo đức đề ra trong hiến pháp mới định hình cho khái
niện Rule of Law. Ông giải thích về những đóng góp của tối cao pháp viện trong
những nỗ lực nhằm phát huy chủ thuyết tự do trong hậu bán thế kỷ XX và đề cao sự
đóng góp này vì không hề làm suy yếu giá trị của tinh thần Rule of Law khi các
chánh án đã áp dụng trong khuôn khổ của luật hiến pháp. Ông chứng minh tại sao
cơ quan tư pháp đôi khi lại không theo quan điểm của cơ quan lập pháp khi giải
quyết vấn đề. Nhờ thế tính cách chính thống của cơ quan tư pháp đưọc nâng cao.
Dworkin
giải thích khái niệm Rule of Law như sau. Khi tuân thủ nguyên tắc về luật hình
thức, chánh án phải giảm bớt cứu xét các khía cạnh nội dung do luật pháp đòi hỏi.
Khi không tìm được một giải đáp trong một khoảng trống trong luật, chánh án
không có cách nào khác hơn là dựa vào các định kiến chủ quan của mình để soi
sáng vấn đề. Đây là một khó khăn đỏi hỏi các chánh án phải có một thái độ cực kỳ
thận trọng. Hiến pháp không phải là một bộ luật tổng hợp mà chính là những
nguyên tắc căn bản. Nội dung chủ yếu của Rule of Law là đề ra những tiêu chuẩn
chính là để phê phán về công bình xã hội mà luật pháp không đảm bảo và hiến
pháp không giải thích chặt chẽ. Khái niệm về Rule of Law sẽ giúp cho chánh án
có cơ hội xét lại và có thể can thiệp vảo các thẩm quyền lập pháp. Nhưng lý tưỏng
này có nguy cơ là lạm quyển của chánh án làm giá trị của dân chủ bị đảo lộn. Để
tránh hậu quả này Dworkin đề ra hai phương thức sau.
Dworkin
cho rằng nền móng của dân chủ là chính quyền của toàn dân, nhưng cần phải phân
biệt thế nào là hành vi tập thể (collective action). Thứ nhất là hành vi này
không chỉ phản ảnh được qua số liệu của thống kê. Khi có thông tin là thị trường
ngoại hối của đô la Hoa kỳ hôm nay xuống giá, thống kê không có thể kiểm chứng
được mục tiêu của các cá nhân và tổ chức bị ảnh hưởng đến việc này. Hình thức
thứ hai của hành vi tập thể là có đặc điểm của một cộng đồng. Nó bắt ngưồn tư một
hành vi có liên kết của tập thể (concerted action) mà trong đó mọi hành vi cá
nhân đều kết hợp laị một để theo đuổi một muc tiêu chung. Chúng ta, toàn thể
dân tộc (We, the People) khi phát biểu như vậy, đây không phải là một ý niệm
thuần về thống kê và cũng phải là một kết hợp ngẩu nhiên mà là một nguyện vọng
của của một cộng đồng chính trị trong tinh thần tự do dân chủ. Đây cũng là biểu
hiện một nguyên tắc về đạo đức chung theo giá trị của hiến pháp.
Dworkin
hiểu hiến pháp là một lối minh thị những nguyên tắc chung về đạo đức xã hội mà
tất cả mọi ngưòi dân đồng thuận. Luật hiến pháp không phải là những thoả hiệp
chính trị. Chính trị là một sân khấu để cộng đồng cùng nhau thảo luận những
nguyên tắc chung về công bình và tôn trọng luật về thủ tục. Ông chấp nhận rằng
hành vi của một cộng đồng xã hội khác với hành vi một cá nhân tạo nên cộng đồng,
nhưng ông lại nhân cách hoá cộng đồng như một cá nhân sau khi đồng thuận những
nguyên tắc chung. Những nguyên tắc này phải mang sắc thái đạo đức chặt chẻ và hợp
thời. Hiến pháp chỉ là một bản văn đề ra những nguyên tắc, và là một tác phẩm của
một tác giả. Công việc của chánh án khi diễn giải luật pháp không khác gì công
việc phân tích văn chương của một nhà phê bình văn học.
Ông
đồng ý là công việc giải thích này mang màu sắc chính trị. Giải thích luật pháp
không phải là một độc quyền của chánh án và cũng bị ràng buộc theo đúng luật giải
thích. Dworkin cho rằng không nên tách rời mối quan hệ luật pháp ra khỏi môi
trường chính trị khi giả thích luật. Nhưng để giữ tính độc lập, tòa án không chỉ
là giới hạn vấn đề giải quyết dựa trên quan điểm chính trị ưu tiên, không được
tự quyền đưa ra một lối giải thích mà không giới hạn. Ngược lại, ông cho rằng
chánh án phải tìm ra một câu trả lời đúng đắn và khách quan với một lối giải
thích có tính cách tổng hợp, toàn diện theo tinh thần của luật hiến pháp.
Có
hai khía cạnh khi giải thích về thẩm quyên của tối cao pháp viện, một liên hệ đến
hoạt động chung của cơ quan tư pháp và một liên hệ đến quốc hội. Thẩm quyền hoạt
động thuộc lãnh vực tư pháp hoàn toàn độc lập với mọi sinh hoạt quốc hội. Khi
quốc hội biểu quyết luật thì phải theo quan điểm của đa số và nhất là tôn trọng
những nguyên tắc về đạo đức theo tinh thần hiến pháp.
Ông
đề ra hai nguyên tắc liêm khiết và thành tín. Nguyên tắc liêm khiết khi giải
thích xuyên suốt mạch lạc là vấn đề mà chánh án phải tuân thủ. Chính án phải tự
coi mình là một ngưòi đối tác với các quan chức khác để cùng tìm ra một nguyên
tắc chung về đạo đức cho các vấn đề xã hội hiện taị cũng như tương lai. Họ phải
xem những đóng góp của mình có thích hợp với nhu cầu của xã hội không. Chánh án
không thể đề xuất một lối giải thích do niềm tin cá nhân mà tự cho rằng đây là
một giải pháp độc đáo. Chánh án không được tự giới hạn cách giải quyết vấn đề
sao cho phù hợp mà quên đi tầm mức giá trị cao cả của luật pháp, mà nó liên hệ
nhiều đến những lập luận dựa trên đạo đức hay chính trị. Khi giải thích về việc
bảo vệ công bình chánh án phải đào sâu vào lý thuyết về công bình trong chính
trị và triết học.
Ông
đề ra nguyên tắc là các nhà lập pháp và chánh án phải tôn trọng sự thành tín
khi thi hành nhiệm vụ của họ. Ông nghi ngờ là nhà lập pháp không thể tôn trọng
nguyên tắc thành tín khi làm luật, vì luật pháp là kết quả của những sự thỏa hiệp
chính trị. Khuyết điểm này chính là nhiệm vụ mà chánh án phải thực thi. Một lối
giải thích luật pháp trong tinh thần liêm khiết sẽ gây đưọc niềm tin cho dân
chúng, chánh án sẽ làm cho những nguyên tắc đề ra trong luật hiến pháp được áp
dụng liên tục và mạch lạc.
Dworkin
ý thức là có sự cách biệt giửa lý thuyết và thực tế, giữa thuyết hiến định và vịệc
thực thi quyền dân chủ. Không phải hình thức dân chủ đại nghị sẽ đương nhiên
đem lại quyền dân chủ cho người dân mà chính là một nền dân chủ chỉ được thành
hình qua thời gian với nhiều thành tố. Ông nghi ngờ các thủ tục tu chỉnh hiến
pháp là hữu ích trong việc xác định các loại quyền mới nảy sinh trong xã hội.
Ông cho rẳng việc giải thích và công nhận các quyền mới này qua cơ quan tư pháp
là đủ, đặc biệt là khi giải thích về nguyên tắc công bình và tôn trọng luật thủ
tục. Cần phân biệt các quyền đã được chuẩn nhận và chưa được chuẩn nhận. Ông cổ
vũ là nguyên tắc chung về đạo đức cần phải nêu lên. Giải quyết vấn đề không tùy
thuộc hẳn vào ý nghỉa riêng biệt mà đưa vào trong một khuôn khổ thuộc về lý tưởng
tự do và bình đẳng mà hiến pháp đề ra.
Dworkin
cho rằng luật pháp là một phương tiện đẩy mạnh việc hội nhập xã hội. Đây là một
nhiệm vụ khó khăn khi chánh án chí công vô tư, không bị áp lực bởi các nhóm lợi
ích và công luận, vừa nhằm bảo vệ dân quyền chống lại đàn áp của chính quyền.
Khi công nhận một quyền mới nảy sinh trong xã hội thì chánh án phải tôn trọng
những giá trị về đạo đức mà truyền thống luật hiến pháp mang lại và nhất là phải
được thông qua những thủ tục dân chủ và nguyên tắc liêm khiết.
Tại
sao các thế hệ tiếp nối phải bị ràng buộc vào ý chí của nhà lập hiến trước đây?
Dworkin đã trả lời câu hỏi này dựa trên lý thuyết về đạo đức của ông. Hiến pháp
là một trung tâm mọi cam kết của những nguyên tắc nhằm phát triển những bản sắc
của một cộng đồng chính trị, mà thực tế cộng đồng này hành sử như là một chủ thể
đạo đức. Hai giới triết gia và thẩm phán sẽ đóng góp nhiều cho giải quyết vấn đề
luật pháp mang màu sắc chính trị tổng quát. Giải pháp của Dworkin thu hút được
sự quan tâm của học giới vì có khả năng dung hoà hai đặc điểm ổn đinh và uyển
chuyển trong khi giải quyết vấn đề tranh chấp giửa giá trị dân chủ và chủ thuyết
hiến định.
3.
ACKERMAN: RULE OF LAW VÀ DUALIST DEMOCRACY
Ackerman
cho rằng hiến pháp tạo nên khái niệm Rule of Law mà nhà lập pháp phải bị ràng
buộc, nhưng thẩm quyển lập hiến là một vấn đề khác. Đồng quan điểm với
Jefferson, Ackerman cho rằng mối thế hệ phải có quyền tu chỉnh lại những nguyên
tắc của Rule of Law khi những ý chí của nhà lập hiến thuộc các thế hệ trước đã
không còn phù hợp với nguyện vọng của họ nữa. Để giải quyết những vấn đề giá trị
liên quan đến cách biệt thế hệ, toà án phải bảo đảm rằng các ý chí thay đổi hiến
pháp này phải được thể hiện. Nghiã vụ của người dân không phải luôn tuân theo
những giá trị mà hiến pháp đã định sẵn hay hợp pháp mà chính là sự cam kết của
ngưòi dân trong tinh thần sử dụng quyền dân tộc tự quyết là quan trọng. Đó là
luận điểm chính của Ackerman.
Khác
hẳn vói các phương thức giải thích luật hiến pháp đã quen thuộc trong học giới,
Ackerman cho rằng quyền dân tộc tự quyết là khởi điểm, mà ông gọi là một nền
dân chủ song hành (dualist democracy). Đây là một lối diễn đạt nhằm phân biệt với
một nền dân chủ độc đạo (monist democracy). Một nền dân chủ có hai loại luật có
mức độ khác nhau: quyền làm luật hiến pháp và quyền làm luật thông thường.
Trong sinh hoạt bình thưòng thì người dân chỉ có hai cam kết rất giới hạn với
chính quyền là đi bầu và đóng thuế. Chuyện làm luật thông thường là công việc của
chính quyền và quốc hội. Khi giải quyết những vấn đề chính trị thông thường,
chính giới phải đi tìm một thoà hiệp nhằm dung hoà mội quyền lợi dị biệt trong
một nền dân chủ đa nguyên, nhưng trước những quyết định hệ trọng đến sinh mệnh
đất nước, thì chính giới cần phải có khả năng huy động sự đồng thuận của toàn
dân. Hiến pháp cho phép ngưòi dân có quyền hành sử thẩm quyền lập hiến của mình
trong tinh thần dân tộc tự quyết như một chủ thể pháp luật. Đề cao quyền dân tộc
tự quyết trong thẩm quyền lập hiến và nghi ngờ khả năng lập pháp trong việc biểu
hiện ý chí chung là hai luận điểm Ackerman đặt ra. Đối với tối cao pháp viện,
thì ông cho rằng trong điều kiện sinh hoạt bình thường và nhất là khi các nhóm
lợi ích chiếm ưu thế, thì tối cao pháp viện giử đúng vai trò gìn giữ những giá
trị của hiến pháp và giải thích những ý chí chung của người dân.
Theo
ông không có sự xung đột giữa lập pháp và tư pháp khi tư pháp duyệt xét các văn
kiện lập pháp. Trước đây Alexander Bickel giải thích sự xung đột này là sư điều
đối nghịch với nguyên tắc đa số. Ackerman cho rằng đây là một sư lầm lẫn vì thẩm
quyền quốc hội là đại diện cho ý chí của toàn dân và dân chủ thường đồng nghiã
với dân chủ nghị viện. Khác với truyền thống luật pháp tại nước Anh, tại Hoa kỳ
ý chí cúa toàn dân và quyền tối thượng của quốc hội không đồng nghiã. Nguyện vọng
của dân chúng phải được lắng nghe trong tiến trình lập hiến và lập pháp.
Ackerman cho là kiểm soát tính hợp hiến của một đạo luật có tầm quan trọng nhằm
thể hiện giá trị của dân chủ, bảo vệ thành quả hiến định trong một thời kỳ nhất
định mà nhân dân, dù không thể trực tiếp giải quyết, nhưng bị ành hưởng bởi quyết
định này.
Lý
thuyết về một nền dân chủ song hành có lợi điểm giải quyết những vấn để nhạy cảm
và tạo ra một lối thoát cho các lý thuyết về quyền. Khi bảo vệ quyền cá nhân,
các lý thuyết gia của dân chủ độc đạo cho rằng để tránh sự lạm dụng của nhà lập
pháp, cách tốt nhất là để là đưa vấn đề bảo vệ quyền lợi ra khỏi những tranh chấp
chính trị nhất thời. Ackerman tin vào nguyên tắc đa số nhưng lại cho rằng quyền
không chỉ là một sự đòi hỏi đơn thuần với ý nghĩa cố hữu của nó. Quyền phải đặt
giới hạn trong khuôn khổ ý chí toàn dân và được thể hiện qua tiến trình lập hiến.
Thẩm quyền lập hiến của toàn dân nghĩa là người dân có quyền tu chỉnh hiến pháp
và đề ra những nguyển tắc mới cho Bill of Rights. Tuy nhiên, ông cũng thấy được
nguy cơ một ngày không xa làn sóng tôn giáo cuồng tín từ khối Á Rập sẽ lan đến
Hoa kỳ có thể đưa đến việc xét lại Tu chính án I và thay đổi quan điểm về vai
trò giáo dục của Thiên chúa giáo. Trong khi hiến pháp Đức minh thị rằng hiến
pháp không được tu chính các dân quyền cơ bản, thí hiến pháp Hoa kỳ laị im lặng
trưóc vấn đề này. Ông giải thích là khác với Đức, ở Hoa kỳ, nhân dân là nguồn gốc
của mọi loại quyền nên bảo vệ dân chủ là tiên quyết và bảo vệ quyền là thứ yếu.
Ý
thức việc khó khăn trong việc giải thích hiến pháp, Ackerman cho rằng thẩm quyền
lập hiến của ngưòi dân trong hệ thống hiến pháp như lả một nguồn giải thích có
tính hàm ngụ. Ông chứng minh không phải những nỗ lực tái thiết sau thời kỳ nội
chiến mà các Tu chính án XIII, XIV và XV ra đời và cũng không phải thời kỳ New
Deal đã đem lại tu chỉnh điều V của hiến pháp. Tổng thống Roosevelt đã thực hiện
một cuộc cải cách về thủ tục tu chính hiến pháp bằng cách mở rộng những phương
cách tương tự như tu chỉnh. Nỗ lực cúa Roosevelt được sự hỗ trợ của công luận
và đảng Dân chủ, nên dự luật cải cách New Deal cũng đã thuyết phục được tối cao
pháp viện. Để đạt mục tiêu này, Roosevelt đã không cần đưa ra những tu chính
thành văn mà nhờ đến phương cách giải thích của tối cao pháp viện như là một
hình thức gián tiếp. Đặc biệt toà án giúp ông thuận lợi hơn trong việc bổ nhiệm
những người hổ trợ cho chính sách cuả ông.
Nhưng
việc sửa đổi hiến pháp lại giao đặc quyền qua phương thức tu chính án của tối
cao pháp viện cũng có nguy hiểm của nó, khi tối cao pháp viện laị độc quyền giải
thích thẩm quyền lập hiến của toàn dân. Toà cần phải xác định thời điểm nào và
với nội dung gì để phân biệt thẩm quyền lập hiến do dân quyết định và thẩm quyền
lập pháp do quốc hội quyết định. Tổng hợp hai vấn đề này để giải quyết sẽ làm
cho giá trị truyền thống của hiến pháp sẽ được nối tiếp. Về mặt lý thuyết, chỉ
có thẩm quyền lập hiến của toàn dân mới quyết định được các quyền nền tảng để
thể hiện bản sắc chính trị của dân tộc. Trên thực tế thì điều V của hiến pháp
cho phép ý chí của ngưòi dân (không phải là ý chí của nhà nước) là có quyền tu
chỉnh hiến pháp. Toà án có thể chuyển hoá vai trò của mình thành cơ quan bảo tồn
những giá trị cao cả của Rule of Law do người dân uỷ nhiệm.
Thực
ra, dân chúng tỏ ra bất mãn về các giải thích luật hiến pháp của tối cao pháp
viện trong qua khứ. Mọi sự thắng thế khi phán quyết chỉ dựa trên nguyên tắc đa
số (năm trên chính) của các chánh án. Không phải lúc nào tối cao pháp viện cũng
đưa ra một giải pháp đúng đắn cho vấn đề khi trong trong một xã hội dân chủ có
nhiều cơ quan đại diện dân chúng mà lại có nhiệu lối giải thích khác và thuyết
phục hơn.
4.
SUNSTEIN: RULE OF LAW VÀ CHẾ ĐỘ TÀI PHÁN
Giá
trị của hiến pháp và dân chủ chính trị có đối nghịch nhau không? Rule of Law có
bị đặt dưới chế độ tài phán không? Đấy là vấn đề mà Sunstein đặt ra để luận giải.
Nếu Ackerman đề cao thẩm quyền lập hiến của toàn dân thì ông tìm ra mối quan hệ
biện chứng giửa dân chủ và chủ thuyết hiến định để giải thích. Theo ông, chức
năng duy nhất của cơ quan tư pháp là hổ trợ cho tiến trình dân chủ và nên xét lại
các luận điểm của republicanism đưa ra trong the Federalist. Không phải lúc nào
động cơ thúc đẩy các hoạt động cá nhân cũng thuần về tư lợi kinh tế, mà còn có
động lực chính trị. Họ muốn rằng ý kiến của mình được tôn trọng. Madison khi giải
thích vấn đề này lại quy chiếu vào lý thuyết của Machavelli nhiều hơn. Theo
ông, cần phân biệt rõ vấn đề và dựa trên theo chủ thuyết nhân bản và dân chủ đa
nguyên.
Sunstein
phê bình là Madison đã đòi hỏi là chính trị phải có đạo đức, tuy thế cũng không
nên suy đoán lạc quan quá mức về bản chất đạo đức con người. Sunstein giải
thích ý chí của nhà lập hiến là nhằm tập hợp những cam kết của toàn dân lại
thành một chiến lược chung qua việc thiết lập một cơ chế bảo vệ, chống lại mọi
sự phân hoá, đại diện nguỵ tao, thiển cận và cuối cùng nhằm đề những nguyên tắc
điều hành chung của một cơ chế dân chủ mà chúng ta có thể tiên đoán được.
Hiến
pháp có chức năng nhằm bảo vệ người dân chống lại chính quyền độc tài. Vì thế
chính quyền phải có nhiệm vụ giải trình các lý do có thể hiểu được cho nhiểu tầng
lớp khác nhau trong những vấn đề khác nhau. Rule of Law, trong tinh thần này, sẽ
đem đến sự đồng thuận cho người dân. Trong một tiến trình sinh hoạt dân chủ
bình thường, mọi quyết định đều phải dựa trên nguyên tắc hiến định và phải có
chịu sự kiểm soát của tối cao pháp viện. Do đó, cơ quan tư pháp là người thay
thế nói lên ý chí của dân chúng qua biện pháp chế tài. Sunstein nhấn mạnh ý
nghiã nguyên thủy của nhà lập hiến và giới hạn thẩm quyền của toà án, vì nghị
án và xử án phài thể hiện trong thủ tục dân chủ. Hai vấn đề quan trọng nhất là
bào đảm sự vận hành của tiến trình dân chủ và quyền lợi của nhóm người thiểu số.
Sunstein
đã nghi ngờ các biện pháp tài phán của cơ quan tối cao pháp viện trong thế kỷ
XX vơí lý do là các phán quyết của toà về các vấn đề tranh chấp chỉ đáp ứng những
nhu cầu chính trị, hóa giải những tranh chấp và làm đẩy mạnh các sinh hoạt
trong hệ thống chính trị, thí dụ như loại các vấn đề tranh chấp tôn giáo ra khỏi
chính trị. Vì có quá nhiều định chế khác biệt trong một xã hội dân chủ, nên giải
quyết vấn đề luôn bị phân hoá theo các định chế này. Đây cũng là một nguồn xung
đột tiềm tàng trong xã hội. Trong một hệ thống như thế, thì một tiến trình dân
chủ chỉ hoạt động được khi mà các thành phần và mối liên hệ còn ít và ở mức độ
thấp vả các vấn đề có thể dàn xếp ổn thoả trong bóng hậu trường hay là thỏa thuận
giữa các nhóm lợi ích. Trong một xã hội phức tạp, nếu muốn các hoạt động nền
dân chủ hiến định trở nên hửu hiệu, thì diển đàn đích thực cho dân chúng giải
quyết các vấn đề quan trọng là môi trường chính trị chứ không phải là cơ quan
tư pháp và diễn đàn này phải được phát huy một cách dân chủ. Theo Sunstein, một
xã hội dân chủ đa nguyên không thể ủy thác cho chánh án vì họ chỉ làm việc theo
những học thuyết quá trừu tượng và cản trở việc phát huy tiến trình dân chủ.
Thí
dụ điển hình là tối cao pháp viện đã công nhận quyền phá thai vào năm 1973. qua
án lệ Roe v. Wade. Toà án đã cưú xét vấn đề nóng bỏng này hoàn toàn dựa trên
quan điểm pháp lý và gạt bỏ những tranh luận chính trị đương thời mà hậu quả là
đem lại nhiều phẫn nộ trong công luận về hai quan điểm là chống hay cho phép ngừa
thai. Thay vì mở ra một khuôn khổ đối thoại thông thoáng cho toàn xã hội cùng
tham gia thì phán quyết đã có tác dụng ngược lại.
Nhìn
chung thì Rule of Law vẩn còn quá trừu tượng dù khái niệm được hình thành qua
thời gian bởi nhiều đóng góp khác biệt. Khi toà án dựa vào khái niệm này để tìm
một giải pháp cho một trường hợp cá biệt nên đã không thể phản ảnh được giá trị
cao cả của nó. Tòa án đã không huy động dân chúng đạt được sự đồng thuận trong
việc bảo tồn những nguyên tắc đa nguyên trong một xã hội dân chủ hiến định và
nhất là tìm ra một mối quan hệ biện chứng giữa các thẩm quyền khác nhau.
Tóm
lại, Critical Legal Studies đã đóng góp quan trong việc bổ sung khái niệm Rule
of Law. Phản biện của Scalia, Dworkin, Ackerman và Sunstein đã làm sống lại ý
chí của nhà lập hiến và quyền dân tộc tự quyết. Giá trị của hiến pháp được mở rộng
trên quan điểm xã hội học toàn diện. Hiến pháp là nơi mà ngưòi dân có quyền quyết
định vận mệnh đất nước mà còn xây dựng đất nước thành một cộng đồng với những bản
sắc chính trị độc đáo. Chính mối quan hệ giữa quyền dân sự và quyền chính trị
tác động vào nhau làm sáng tỏ chủ thuyết hiến định. Việc đề cao ý nghiã quyền
dân tộc tự quyết đã vượt qua các khuôn khổ giải thích trước đây, từ sinh hoạt
trong tiến trình dân chủ bình thường cho đến thủ tục tu chính hiến pháp. Luận
giải của Ackerman về lý thuyết dân chủ song hành và nêu cao quyển dân tộc tự
quyết đã thu phục được công luận, nhất là khi chứng tỏ được nguy cơ do cơ quan
tư pháp mang lại. Những thủ tục tu chỉnh hiến pháp thích hợp sẽ tránh cho Hoa kỳ
có những thay đổi táo bạo vượt ra khỏi khuôn khổ, vừa bảo đảm dân quyền vừa giải
quyết các tranh chấp. Dù toà án đóng góp quan trọng trong sinh hoạt dân chủ,
nhưng hoàn toàn không có khả năng thay thế những thào luận của công chúng trong
vấn đề hệ trọng của đất nước. Chủ điểm của Critical Legal Studies là chính dân
chúng cần được khuyến khích tư duy độc lập và hành động trong một môi trường tự
do và Rule of Law không chỉ có khiá cạnh tôn trọng luật pháp mà còn giữ gìn đạo
đức và phát huy công bình xã hội.
V.
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM?
Bài
viết này còn nhiều thiếu xót vì trình bày quá đơn giản, loại bỏ những thuật ngữ
trừu tượng và nhất là không đã đưa ra các luận giải xuất sắc trong án lệ làm
cho khái niệm Rule of Law có một được giá trị như ngày nay.
Sự
phát triển và áp dụng khái niệm Rule of Law của Hoa kỳ đã để lại một số kinh
nghiệm mà Việt Nam có thể tiếp thu trong những nổ lực cải cách, mà các điểm chủ
yếu là:
-
Người dân không chỉ đi bầu và đóng thuế mà có thẩm quyền tối thượng quyết định
vận mệnh của đất nước và thể hiện bản sắc chính trị của dân tộc
-
Dù bảo vệ thành quả cách mạng nhưng vẫn tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của
toàn dân
-
Ý chí cúa toàn dân, ý chí của nhà nước và quyền tối thượng của quốc hội không đồng
nghĩa.
-
Thẩm quyền lập hiến của toàn dân khác với thẩm quyền lập pháp của quốc hội
-
Nhà nước cũng phải tự đặt mình trong khuôn khổ của luật pháp.
-
Khi ý chí của nhà lập hiến trong quá khứ không còn phù hợp với nguyện vọng của
thế hệ hiện tại thì hiến pháp phải được tu chỉnh
Những
tiền đề này có thể làm khởi điểm cho các nghiên cứu nghiêm túc tại Việt Nam hay
không đó là còn là một câu hỏi và một niềm hy vọng cho chúng ta.
Nguồn:https://www.danluan.org/tin-tuc/20111201/do-kim-them-tim-hieu-ve-khai-niem-rule-of-law-tai-hoa-ky-1