Trần Hữu Dũng2
Từ khi George W.
Bush nhậm chức tổng thống (và nhất là sau 11 tháng 9 năm 2001), chính sách ngoại
giao của Mỹ đã gây sửng sốt cho hầu như mọi người (dù ủng hộ hay chống Bush).
Sự ngạc nhiên này có thể vì hai lẽ chính:
Thứ nhất, vì cuộc bầu cử năm 2000 có nhiều mờ ám, Bush lại không được đa số phiếu của dân Mỹ,[3] nên ai cũng nghĩ là ông sẽ rụt rè, nhút nhát, vậy mà chính phủ Bush lại có những chính sách ngoại giao xác quyết khác thường. Vài sự kiện nổi bật: (1) Quyết định đơn phương bất chấp dư luận quốc tế (rút khỏi thoả ước Kyoto về khí quyển, chống lại Toà Án Hình Sự Quốc Tế, hủy bỏ hiệp ước ABM với Nga); (2) ủng hộ Israel gần như không điều kiện; (3) nhất quyết lật đổ Saddam Hussein, chiếm đóng Iraq. Chẳng những thế, dù bị chỉ trích, nhạo báng là đạo đức giả, là bịp dân, là chà đạp dân quyền (ngay với dân Mỹ), là bất chấp chủ quyền nước khác, Bush vẫn không chùn bước.
Thứ hai, và có lẽ nghịch lí hơn, Bush, hiển nhiên không phải là người trí thức, lại cầm đầu một chính phủ tương đối “trí thức”, nhất là trong lãnh vực ngoại giao và quốc phòng. Đa số không có vẻ quá hám tiền tài hoặc quyền chức. Một số lớn những người (trong lẫn ngoài chính phủ) có dấu ấn sâu đậm trên chính sách ngoại giao của Bush là những người sống tương đối đạm bạc:[4] viết sách, làm báo, dạy học, biện luận, dàn dựng một căn bản học thuyết cho chính sách ấy. Sự gắn kết chính sách và lí thuyết như thế là một điều hiếm có xưa nay, nhất là trong lịch sử nước Mỹ.
Thứ nhất, vì cuộc bầu cử năm 2000 có nhiều mờ ám, Bush lại không được đa số phiếu của dân Mỹ,[3] nên ai cũng nghĩ là ông sẽ rụt rè, nhút nhát, vậy mà chính phủ Bush lại có những chính sách ngoại giao xác quyết khác thường. Vài sự kiện nổi bật: (1) Quyết định đơn phương bất chấp dư luận quốc tế (rút khỏi thoả ước Kyoto về khí quyển, chống lại Toà Án Hình Sự Quốc Tế, hủy bỏ hiệp ước ABM với Nga); (2) ủng hộ Israel gần như không điều kiện; (3) nhất quyết lật đổ Saddam Hussein, chiếm đóng Iraq. Chẳng những thế, dù bị chỉ trích, nhạo báng là đạo đức giả, là bịp dân, là chà đạp dân quyền (ngay với dân Mỹ), là bất chấp chủ quyền nước khác, Bush vẫn không chùn bước.
Thứ hai, và có lẽ nghịch lí hơn, Bush, hiển nhiên không phải là người trí thức, lại cầm đầu một chính phủ tương đối “trí thức”, nhất là trong lãnh vực ngoại giao và quốc phòng. Đa số không có vẻ quá hám tiền tài hoặc quyền chức. Một số lớn những người (trong lẫn ngoài chính phủ) có dấu ấn sâu đậm trên chính sách ngoại giao của Bush là những người sống tương đối đạm bạc:[4] viết sách, làm báo, dạy học, biện luận, dàn dựng một căn bản học thuyết cho chính sách ấy. Sự gắn kết chính sách và lí thuyết như thế là một điều hiếm có xưa nay, nhất là trong lịch sử nước Mỹ.
Nhiều nhà bình
luận, nhà báo, đã cho rằng chính quyền Bush đang nằm trong tay một nhóm gọi là tân
bảo thủ (neo-conservatives, gọi tắt là neo-cons). Do đó, nhiều
người cho rằng muốn hiểu chính sách của Bush thì phải hiểu thế giới quan tân bảo
thủ. Nhóm này chẳng những chia sẻ nhiều tư tưởng giống nhau mà còn có một số
liên hệ thân tộc (gia đình Kristol, chẳng hạn, đều nằm trong hàng ngũ lãnh đạo
tân bảo thủ), và quan hệ việc làm (chẳng hạn như nhiều người tân bảo thủ chủ chốt
đã biết nhau từ khi cùng làm trong ban nghiên cứu của thượng nghị sĩ Henry
Jackson[5] những năm 1970, sau đó cùng là quan
chức cao cấp trong chính phủ Reagan và Bush cha). Song điều lôi cuốn nhiều
chú ý là đa số thành viên của nhóm tân bảo thủ là người gốc Do Thái và triệt để
ủng hộ Israel.[6] Rồi gần đây lại thêm một phát giác
mới: phần lớn nhóm này đã là môn đệ, hoặc chịu ảnh hưởng của Leo Strauss, một học
giả trước đây ít người nghe tiếng.[7] Những đặc điểm này tạo cho nhóm tân
bảo thủ một phong cách bí hiểm, huyền thoại (theo nghĩa rộng). Đi xa hơn, có
người cho rằng nhóm tân bảo thủ đã hoạt động như một băng đảng (bí mật) nắm mọi
quyền hành trong chính phủ Bush, nhất là về chính sách đối với Trung Đông và
châu Âu. Bush gần như một bù nhìn!
Bài này nhằm giới
thiệu nguồn gốc và ảnh hưởng của nhóm tân bảo thủ trong chính quyền Bush hiện
nay, và đưa vài đánh giá về giả thuyết là phe này đã thật sự “đoạt chính quyền”.
1. Tân bảo thủ
là gì?
Nguồn gốc của
danh hiệu “tân bảo thủ” vẫn còn khá mù mờ. Oái oăm là, có thể người đặt danh từ
này chính là Michael Harrington, một tác giả Mỹ nổi tiếng có khuynh hướng xã hội
chủ nghĩa,[8] là một người không ưa gì phe
này. Dù do ai đặt ra, lúc đầu danh hiệu này là để gọi một số trí thức
“phóng khoáng” (liberal), từng theo phe tả (thậm chí nhiều người đã là đảng
viên có thẻ của đảng cộng sản). Những người nổi tiếng nhất trong nhóm này
là các học giả và nhà báo Norman Podhoretz, Irving Kristol, Allan Bloom (dưới
đây sẽ nói thêm). Đa số là Trốt kít vào những năm
1930-40. Tuy nhiên, sau những sự cố ở Liên Xô (Stalin) và Đông Âu
(Hungari), họ quay sang chống cộng vào những năm 1950, và vì chiến tranh Việt
Nam (cùng những xáo trộn trong xã hội Mỹ vào thời kỳ này) một số nữa trở thành
cực hữu vào những năm 1960-70. Gọi họ là “tân bảo thủ” để phân biệt với
những người bảo thủ “kiểu cũ” như Barry Goldwater. [9]
Lúc đầu, lập trường
tân bảo thủ là cá biệt về (bảo thủ) xã hội và văn hoá hơn là quân sự và ngoại
giao. Họ chế nhạo phe tiến bộ của Mỹ, cho là phe này quá ngây thơ, dễ
tin, mềm yếu. Như câu nói đáng nhớ của Irving Kristol, tân bảo thủ là những
người phóng khoáng “bị thực tế trấn lột” (mugged by reality”). Về chính
trị và ngọai giao, họ hô hào một chính sách chống cộng cứng rắn, nhưng không
đưa những chi tiết rõ rệt. Lập trường này trở thành rạch ròi hơn,
chi tiết hơn, bắt đầu từ thời Reagan. Nhưng trên hết, họ không ưa phe liberal của
Mỹ vì phe này không ủng hộ Israel hoàn toàn như họ muốn.
2. Leo
Strauss và Albert Wohlstetter
Gần đây, một số
báo chí đã phát giác là hầu như mọi người trong phái tân bảo thủ đều là học trò
(hoặc học trò của bạn) của Leo Strauss, và ít hơn một chút, nhưng cũng không
kém quan trọng, là của nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Albert
Wohlstetter. Hai người này là ai?
2.1. Leo Strauss
Leo Strauss
(1899-1973) là một học giả gốc Do Thái sinh ở Đức, học trò của triết gia Martin
Heidegger. Năm 1934, sau khi Quốc xã lên cầm quyền, ông rời Đức đi lưu
vong. Sau một thời gian ở Pháp[10] và Anh, Leo Strauss định cư ở Mỹ từ
năm 1937, làm giáo sư ở đại học Chicago trong nhiều năm cho đến khi hưu
trí. Strauss đã viết gần hai mươi quyển sách, hầu hết là về những nhà hiền
triết cổ đại La Hi như Plato, Xenophon, Machiavelli, và triết gia Anh John
Locke.
Tư tưởng của
Strauss có hai nguồn. Thứ nhất, ông đã sống qua chế độ Cộng
hoà Weimar,[11] bị cả Quốc xã lẫn Cộng sản khuynh đảo.
Từ kinh nghiệm ấy, Strauss cho rằng bản chất của bạo chế là chủ nghĩa bành trướng
(expansionism), và phải chống chủ nghĩa này đến cùng, bằng vũ lực nếu cần.
Strauss nhấn mạnh tính mỏng manh, dễ vỡ (fragility) của thể chế dân chủ.
Ông cho rằng, muốn trường tồn, một chế độ dân chủ phải đối đầu không nhân nhượng
với bạo chế. Như Shadia Drury (1988, 1999) nhận xét, Strauss rất khắc khổ
(“Spartan”), cho rằng mọi người đều phải luôn đấu tranh để sinh tồn. Một
xã hội thái bình là một xã hội sẽ suy đồi.
Thứ hai, từ
bài học của các nhà hiền triết cổ đại, Strauss nghiệm rằng thể chế chính trị có
một sự quan hệ căn bản cho nhân loại vì nó nhào nặn con người. Leo
Strauss dị ứng với hệ tư tưởng “hậu hiện đại” (post-modernism). Theo Strauss,
tính hiện đại là nguyên nhân của sự sụp đổ đạo lí (cơ sở của mọi chế độ), và sự
mất mát những “giá trị Âu Châu” căn bản như “lí trí” và “văn minh”.
Strauss khẳng định có những giá trị, chân lí tuyệt đối và vĩnh cửu.
Tư tưởng này đặc biệt hấp dẫn cho những người bảo thủ chán ngán trào lưu chủ
nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism) của những thập niên 60,
70.
Trong giáo trình
của Leo Strauss, triết lí chính trị có một nghĩa khá đặc biệt. Ông suy
nghĩ nhiều về liên hệ giữa triết gia và xã hội của triết gia. Nhìn trường
hợp Socrates (bị bức tử) Strauss cho rằng triết gia là một đe doạ cho xã hội.
Dù suy tư là một sinh hoạt cao quý nhất của con người, đó là một sinh hoạt
ngoài khả năng của đa số quần chúng, ông khẳng định. Xã hội đời thường không hiểu
nổi chân lí và không dám trực diện sự thực. Sự thực sẽ chỉ gây hỗn loạn
trong công chúng. Lí luận như vậy, Strauss cho rằng các bậc hiền triết phải
giữ kín chân lí mà họ khám phá, chỉ truyền lại cho vài đệ tử thân tín bằng mật
ngữ. Cụ thể hơn, Strauss khuyên đồ đệ chẳng nên viết quá dễ hiểu.
Hãy chôn giấu sự thật vào giữa lòng sách (không nên tiết lộ ở những trang đầu,
hoặc cuối sách mà người đọc dễ lật tìm!).
Nên nhớ rằng
Strauss rất ngưỡng mộ Plato, người có ý nghĩ táo bạo là những vị vua hiền triết
(philosopher kings) đôi khi phải phát ngôn những “gian dối cao thượng” (noble
lies) để giữ trật tự trong đám đông thiếu hiểu biết (như những người tân bảo thủ
sẽ làm sau này). Hơn thế nữa, triết gia không những nên nói dối “cao thượng”
với các nhà chính trị, họ còn phải lừa dối công chúng. Strauss cho rằng đối
phương luôn luôn cố tình đánh lừa ta, do đó, ta nên giả vờ tin họ, nhưng thầm lặng
làm theo ý ta. Nếu cần, phải che giấu sự thật, nói dối công chúng.Những
điều này giải thích thái độ của tân bảo thủ (nhất là Wolfowitz) về vấn đề tình
báo.
Strauss chịu nhiều
ảnh hưởng của Thomas Hobbes (xin nhớ điều này khi đọc Robert Kagan
sau đây). Cũng như Hobbes, Strauss cho rằng bản tính con người là hung
hăng, nham hiểm. Bản tính này chỉ có thể kiềm chế được bằng một tổ chức
chính quyền mạnh mẽ, trên cơ sở dân tộc. Strauss đặt niềm tin vào chiến
tranh không ngừng (perpetual war), không phải hoà bình không ngừng. Shadia
Drury nhận xét: Quan điểm này tất nhiên đưa đến một chính sách ngoại giao
có tính tấn lấn, sừng sỏ (“aggressive, belligerent”)[12]
Tuy Leo
Strauss có ảnh hưởng đến nhóm tân bảo thủ, ảnh hưởng đó có lẽ không nặng và xấu
như lời cáo buộc của những người vốn không ưa chính quyền Bush. Dù
Strauss là một giáo sư có sức lôi cuốn, được học trò mến phục, nhưng ông viết
(có thể là cố tình) rất khó hiểu, nên mỗi người hiểu ông một khác. Strauss được
hầu hết mọi người công nhận là một học giả uyên bác, một giáo sư tận tâm với
môn đệ, không có tham vọng chính trị cá nhân. Song, những người tôn sùng
Strauss (như Peter Berkowitz) thì coi ông là thành tâm tận tụy cho tự do và
chân lí, còn những tác giả (như Shadia Drury) không ưa Strauss thì cho rắng bản
thân ông cũng là “phát xít” không thua gì bọn Quốc xã mà ông thù ghét.
Ảnh hưởng của
Strauss mạnh nhất ở điểm ông cho rằng phải theo lời dạy của các nhà hiền triết
cổ đại, rằng thành phần trí thức ưu tú có trách nhiệm dìu dắt người lãnh đạo, rằng
lắm khi không thể tiết lộ sự thật cho công chúng. Những tư tưởng này của
Strauss đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên thế giới quan của học trò ông (và
cho những người này một tinh thần “bè đảng” với nhau). Hiển nhiên, bịp
dân không phải là độc quyền của tân bảo thủ, nhưng lí thuyết của Strauss cho nó
một cứ điểm triết học.
Điều mà ai cũng
công nhận là Strauss (qua môn đệ) đã đưa vào tư tưởng chính trị Mỹ một cai nhìn
u ám và bi quan về xã hội, con người, và lịch sử. Hành trang tư tưởng của
tân bảo thủ là cái nhìn ấy, cộng với ý thức về sức mạnh của Mỹ và cơ hội mà Mỹ
đang có, và đàng sau đó (phần nào) là nhiệt tình cho Israel. Strauss cũng
ý thức hơn về “bạn” và “thù”, có tiếng dội sau này trong câu nói của
Bush: “Các bạn hoặc là đi theo hoặc là kẻ thù của chúng tôi”.[13]
Cũng nên nói
thêm, chính vì Leo Strauss và môn đệ là những người mới di cư sang Mỹ (như Max
Boot, sinh ở Nga) – thậm chí nhiều người hiện không có quốc tịch Mỹ[14] – nên phái tân bảo thủ hay
cãi nhau với phe “cựu bảo thủ” về vấn đề di dân. Phe cựu bảo thủ (như
Patrick Buchanan) thì cho rằng Mỹ phải thắt chặt luật nhập cư, còn chủ trương của
phe tân bảo thủ là “càng đông càng tốt”. Trong những tháng dẫn đến chiến
tranh Iraq, tranh cãi kịch liệt nhất có lẽ là giữa nhóm Buchanan-Novak (bán
nguyệt san The American Conservative) và nhóm Kristol-Frum-Goldberg
(Weekly Standard, National Review). Những người khác
như Henry Kissinger thì đã công khai thú nhận là không hiểu nổi phái tân bảo thủ
muốn gì. Nói chung, dân đảng Cộng hoà cố cựu (như Brent Scowcroft hay
James Baker, ngay chính Dick Cheney) thì nghĩ đến quyền lợi kinh tế nhiều hơn.
2.2.
Albert Wohlstetter
Wohlstetter
(1914-1977) xuất thân là giáo sư toán và đã dạy ở nhiều đại học như University
of Southern California, Chicago, vv. Tuy nhiên ông được biết nhiều nhất
như một chiến lược gia quân sự của “lò nghiên cứu” RAND. Trong cuơng vị
này, Wohlstetter đã rất thân cận với các giới chức cao cấp của Lầu Năm Góc và
nhiều thành viên quốc hội Mỹ, nhất là nghị sĩ Henry Jackson.
Cũng như
Strauss, Wohlstetter đã để lại ảnh hưởng qua học trò, và nhất là mạng lưới học
trò cũ mà qua đó ông đã giới thiệu họ với nhau. Người đầu tiên (trong
nhóm tân bảo thủ) bị Wohlstetter “hớp hồn” là Richard Perle (sẽ nói thêm
dưới đây). Năm 1959, khi còn là học sinh trung học, Richard Perle được
con gái của Wohlstetter mời về bơi hồ tắm sau nhà. Perle mê Wohlstetter từ
dạo ấy.
Sau những năm ở
miền nam California, Wohlstetter về làm giáo sư ở đại học Chicago. Chính
ông đã dạy và hướng dẫn Paul Wolfowitz viết luận án tiến sĩ. Richard
Perle cũng muốn về học với ông ở Chicago nhưng không được trường này chấp nhận
vì điểm kém. Tuy vậy, chính Wohlstetter đã giới thiệu Wolfowitz và Perle
về làm cho thượng nghị sĩ Henry Jackson, tạo cơ hội cho hai ông này biết nhau từ
đó.
Muốn hiểu ảnh hưởng
của Wohlstetter, nên nhớ lại là trong thời kỳ chiến tranh lạnh, lối suy nghĩ
chung của những nhà chiến thuật Mỹ là (a) Mỹ nên có nhiều tên lửa, bom hạt
nhân, và tên lửa tầm càng xa, bom càng nặng ký càng tốt; (b) khả năng trả đũa ồ
ạt sẽ làm đối phương không dám tấn công. Khai triển “triết lí” này,
chiến lược của Mỹ là dựa trên quan niệm “Mutual Assured Destruction”, cùng tận
diệt (gọi tắt là MAD, còn có nghĩa là “Điên”). Cụ thể, cách ngăn ngừa
Liên Xô tấn công là phải có những vũ khí hạt nhân đủ mạnh, bố trí khắp châu lục,
trên trời, dưới đất, ngoài biển, để vẫn còn đủ trả đũa tiêu diệt Liên Xô, dù có
bị Liên Xô tấn công trước.
Wohlstetter bác
bỏ lối suy nghĩ “MAD” ấy. Theo ông, thuyết này sai vì hai điểm. Thứ
nhất, nó “vô đạo đức” vì ngầm chấp nhận mức thương vong chắc chắn là rất
cao của thường dân. Thứ hai, không một lãnh tụ Mỹ nào sẽ
có can đảm trả đũa (dù bị tấn công trước) vì trong thâm tâm họ biết quá rõ là hậu
quả sẽ là tận thế. Đối thủ của Mỹ biết vậy, và do đó họ sẽ có thể tấn
công trước.
Vì Wohlstetter
cho rằng đối phương có thể sẽ hạ thủ trước, ông ta chú trọng đến những phương
án mà chính người lãnh đạo Mỹ phải dùng đến vũ khí. Cụ thể, Wohlstetter đề
nghị Mỹ có chính sách ngăn chận từng bậc (“graduated deterrence”): Chấp nhận rằng
Mỹ có thể có những chiến tranh hạn chế (limited wars). Trong những cuộc
chiến tranh này, Mỹ có thể dùng cả vũ khí nguyên tử chiến thuật (tactical
nuclear arms) cùng với những vũ khí chính xác và khôn ngoan.[15]
Cụ thể hơn,
Wohlstetter chủ trương hai điểm (1) quân đội phải lanh nhẹn (nimble) và (2) vũ
khí phải chính xác. Nếu được như vậy thì, theo Wohlstetter, mọi hiểm hoạ
sẽ được nhanh chóng “trung tính hoá” (neutralized) trước khi chúng
hiện thực, hoặc bằng những lời răn đe có sức thuyết phục, hoặc bằng cách tấn
công thật sự.
Wohlstetter ủng
hộ chiến tranh Việt nam, ủng hộ vũ khí nguyên tử, và chống hiệp ước
SALT/ABM. Đối thủ nổi tiếng nhất của Wolhstetter là Hans Morganthau,
tương đối là “bồ câu” trong những vấn đề này.
Sau khi chiến
tranh lạnh chấm dứt Wohlstetter quay sang những vấn đề khác. Ông không
cho là Liên Hợp Quốc có thể ngăn ngừa các quốc gia “côn đồ” (“rogue”), và
không tin những hiệp ước giải giới như ABM. Năm 1995, Wohlstetter viết một
bài cho Wall Street Journaltrong đó ông lí luận là sự lan tràn của
những “bạo chúa gieo rắc kinh hoàng” như Saddam Hussein, Slobodan Milosovic chỉ
có thể bị diệt trừ bằng một “liên minh” (“coalition” -- để ý chữ này, thay vì
“đồng minh” như trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đang được dùng trong chiến
tranh Iraq). Liên minh này sẽ sẵn sàng ủng hộ, làm hậu thuẫn cho Mỹ, với
những lực luợng chính xác và “biết phân biệt” (discriminating)
Ngoài Perle và
Wolfowitz, vài người nữa trở nên thân cận với nhóm tân bảo thủ cũng vì là học
trò của Albert Wohlstetter ở Chicago. Trong số đó có Ahmed Chalabi (thủ lãnh Iraqi
National Congress[16]), Zalmay Khalilzad (viên chức Hội đồng
An ninh Quốc gia Mỹ đặc trách Afghanistan), Andrew Marshall (đặc trách nghiên cứu
về các chiến thuật hiện đại trong Bộ Quốc Phòng Mỹ). Donald Rumsfield cũng
bị nhiễm ảnh hưởng của Wohlstetter.[17]
3. Paul
Wolfowitz
Paul Wolfowitz
(sinh năm 1943) phó bộ trưởng quốc phòng, thường được xem là lãnh tụ
nhóm tân bảo thủ trong chính phủ Bush. Cha Wolfowitz là gốc
Do Thái, di cư sang Mỹ năm 1920, từng làm giáo sư thống kê tại đại học
Cornell. Thuở vị thành niên, Wolfowitz theo cha sống một thời gian ở
Israel, và có chị gái lấy một người Israel. Paul Wolfowitz lúc đầu chuyên
ngành toán, sau đổi sang hoá học, rồi lấy tiến sĩ khoa học chính trị ở đại học
Chicago. Trong thời kì chiến tranh Việt Nam, ông được hoãn dịch vì lí do học vấn.
Khi còn học ở
Cornell, Wolfowitz thụ giáo với Allan Bloom, một giáo sư triết bạn của Leo
Strauss. Ở Chicago, Wolfowitz viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của
Albert Wohlstetter.[18] Tốt nghiệp, Wolfowitz đi dạy ở
Yale, nhưng nhờ móc nối của Wohlstetter, năm 1973 gia nhập ban nghiên cứu của
nghị sĩ Henry Jackson, cùng nhóm với Richard Perle. Vào thời Reagan,
Wolfowitz là thứ trưởng ngoại giao đặc trách Đông Á (có “công” sắp xếp cho
Ferdinand Marcos lưu vong), sau đó làm đại sứ ở Indonesia. Trong chính phủ
Bush cha, Wolfowitz đổi sang Lầu Năm Góc (làm thứ trưởng đặc trách chính sách),
trực tiếp dưới quyền Cheney. Khi Clinton lên, Wolfowitz trở về đại học, làm trưởng
khoa quan hệ quốc tế tại đại học Johns Hopkins.
Vào năm cuối
(1992) thời Bush cha, Wolfowitz chỉ huy một nhóm diều hâu trong Lầu Năm Góc soạn
thảo một báo cáo có tựa là “Hướng dẫn hoạch định quốc phòng” (“Defense Planning
Guidance”, gọi tắt là DPG). Tài liệu này là “bản đồ chính sách” của
Mỹ cho thế kỉ 21, trong đó Wolfowitz (được Cheney nhiệt tình ủng hộ) chủ trương
ba điểm:
(1) Với sự sụp đổ
của Liên Sô, từ đây về sau Mỹ sẽ không để nước nào, dù đồng minh hay đối thủ,
thách thức vị thế cường quốc số một của Mỹ. Mỹ phải có sự hiện diện quân sự thường
trực khắp nơi để ngăn ngừa mọi quốc gia có ý cạnh tranh với Mỹ bất cứ đâu, ở bất
cứ lãnh vực nào (kinh tế hay quân sự).
(2) Chủ
thuyết ngăn chận (containment) của Mỹ thời chiến tranh lạnh không còn là hợp thời
nữa. Từ nay Mỹ phải nhắm “thiết lập và củng cố một trật tự mới”, bằng
cách đánh phủ đầu các nước khác, nếu cần.
(3) Thay vì dựa
vào các thể chế quốc tế đa phương (như Liên Hợp Quốc), Mỹ nên lập những liên
minh cho “từng trường hợp” (ad hoc) để đối phó với mỗi cuộc khủng hoảng
(khi hết khủng hoảng thì cũng hết liên minh).
“Hướng dẫn hoạch
định quốc phòng” của nhóm Wolfowitz đã bị hầu hết chính giới và báo chí Mỹ lúc ấy
chỉ trích kịch liệt, cho là quá hiếu chiến, ảo mộng đế quốc, do đó vẫn còn được
chính thức xếp là “tối mật” cho đến nay. Tuy nhiên nó là cơ sở của “Chiến
Lược An Ninh Quốc Gia” (National Security Strategy (NSS)) do Bush con ký ngày
21 tháng 9 năm 2002. Chính Wolfowitz, bốn ngày sau 11/9, đã đề nghị Bush
nên tấn công Iraq thay vì Afghanistan.
Vào giữa thập kỉ
90, có thêm một yếu tố mới ảnh hưởng đến hoạt động của nhóm tân bảo thủ: Chính
sách của Israel và sự đắc cử của Benjamin Netanyahu (sau khi Yitzhak Rabin, người
hùng của hiệp định Oslo, bị ám sát năm 1995). Cụ thể, từ mùa xuân 1997
Wolfowitz và nhóm diều hâu của đảng Cộng Hoà bắt đầu cổ vũ cho một chiến sách cứng
rắn hơn đối với Iraq.
Với đề nghị của
Douglas Feith (xem dưới đây), năm 2002 Wolfowitz cho thiết lập “Vụ Kế hoạch Đặc
biệt” (“Office of Special Plans”) do Abram Shulsky[19] làm thủ trưởng, báo cáo trực tiếp
cho Feith.
Abram Shulsky
cũng là học trò của Leo Strauss ở Chicago, cùng lúc với Wolfowitz. Nên nhắc
lại, đối với Strauss, “nghệ thuật giữ bí mật” là một trong những di sản trí thức
đáng nhớ nhất của các nhà hiền triết cổ đại. Ngay từ năm 1999,
Shulsky (và Gary Schmitt[20]) viết bài“Leo Strauss and the World of
Intelligence (By Which We Do Not Mean Nous)”, (“Leo Strauss và Thế
giới Tình báo”).[21] Trong bài này, lấy ý Strauss,
Shulsky và Schmitt cho rằng tình báo Mỹ có nhiều nhược điểm (1) Một là, ngành
này đã không thực sự thông hiểu “bản tính lật lọng” (duplicitous nature) của những
chế độ mà Mỹ đang đối đầu. (2) Hai là, sự bất lực của
ngành này khi mà đối thủ cố tình che giấu (deliberate concealment). (3) Ba
là, tình báo Mỹ vẫn còn dùng phương pháp “chứng minh” của các ngành khoa học
xã hội (dựa vào các phân tích định lượng, xác suất, vv..)
Theo Shulski (học
từ Strauss) tình báo phải đi tìm cái “nghĩa kín” (“hidden meaning”), phải nhìn
thông tin qua lăng kính của triết lí chính trị để hiểu thực chất của các chế độ
khác nhau. Dĩ nhiên, nhóm Shulsky không tin CIA và DIA,[22] mà nghe lời của Ahmed Chalibi và
nhóm Iraqi National Congress hơn. Cheney và nhóm diều hâu tân bảo thủ đã
dựa vào nhóm của Shulsky hơn là vào CIA. Chính giám đốc CIA (trong điều
trần ngày 9 tháng 3, 2004) cũng xác nhận là nhóm này đã báo cáo riêng cho Nhà
Trắng sau lưng CIA.
Trong nhóm tân bảo
thủ trong chính phủ Bush, Wolfowitz có lẽ là một người khó hiểu
nhất. Nhiều người cho rằng Wolfowitz là người tương đối có lí tưởng (dù
sai lầm), thật lòng muốn truyền bá cái “dân chủ” của Mỹ đến những quốc gia
khác. Không như những người tân bảo thủ khác, Wolfowitz không biện hộ cho
chính sách Mỹ trên căn bản lợi ích kinh tế vật chất của Mỹ.
4. Richard Perle
Richard Perle
(sinh năm 1941), thạc sĩ chính trị học (Đại học Princeton, 1967), là bạn của
Wolfowitz từ khi hai người cùng làm cho nghị sĩ Henry Jackson. Trong phái
tân bảo thủ, Perle là người chịu ảnh hưởng của Wohlstetter nhiều nhất.
Ngoài ra, ông cũng thân cận với nhà bình luận Irving Kristol, “bố già” phái
này.[23] Trong thời Reagan, Perle làm phụ
tá bộ trưởng quốc phòng, nổi tiếng là hiếu chiến, cực lực chống mọi hiệp ước kiểm
soát vũ khí, do đó thường được gọi là “Ông hoàng U ám” (“Prince of
Darkness”). Cũng có người gọi Perle là “Diều hâu của diều hâu” (“The
hawks' hawk”).
Ở những thời điểm
khác nhau, Perle kêu gọi phải có thêm vũ khí nguyên tử tốt hơn, chế nhạo ý niệm
“kiểm soát vũ khí”, đòi xé bỏ hiệp uớc ABM, khẳng định rằng Liên Xô không đủ sức
chạy đua vũ khí với Mỹ. Perle hô hào phải chiến thắng ở Việt Nam (đổ bộ
miền Bắc nếu cần). Ông ta ủng hộ Israel chiếm Lebanon, lật đổ chính quyền
Sandinistas ở Nicaragua, hối thúc Mỹ nhìn nhận Jerusalem là thủ đô của Israel,
cam kết bảo vệ Đài Loan, và công khai khinh miệt Liên Hợp Quốc.
Năm 1996 Perle
là tác giả chính (cùng với bảy người nữa, trong đó có Wolfowitz, Feith,
Wurmser) một báo cáo[24] cho chính trị gia Israel cực hữu
Benjamin Netanyahu . Đó là một sách lược hết sức hiếu chiến, khuyên
Israel xé bỏ hiệp ước Oslo, “giải phóng” Iraq, thay đổi chế độ ở Syria, Saudi
Arabia, Jordan...
Khi Bush con lên
cầm quyền, Perle được mời làm nhân vật số 3 ở Lầu Năm Góc song từ chối, có lẽ
vì muốn đứng ngoài chính phủ để tiện kinh doanh. (Perle có nhiều dính líu
tai tiếng đến hoạt động buôn bán vũ khí của Israel, và sau này cố vấn cho các
công ty hưởng lợi nhờ Bộ An Ninh Nội Địa của Mỹ mới thành lập). Cho đến gần
đây, ông là chủ tich của Defense Policy Board, một ban tư vấn chính sách quốc
phòng có rất nhiều ảnh hưởng ở Lầu Năm Góc. Vì bị tai tiếng lợi dụng móc nối để
kinh doanh, Perle phải từ chức chủ tịch Defense Policy Board vào tháng 3/2003,
và từ chức hẳn vào tháng 3/2004.
5. Những
người tân bảo thủ khác trong chính phủ Bush
5.1.
Condoleezza Rice
Condoleezza
Rice, cố vấn an ninh quốc gia của Bush thật ra không phải là người phe tân bảo
thủ ngay từ đầu. Bà tốt nghiệp ở đại học Denver và con đuờng tiến thân của
bà nhờ nhiều vào nhóm cựu bảo thủ như Brent Scowcroft,[25] George Shultz.[26] Tuy nhiên, bà cũng có nhiều quan
điểm tân bảo thủ, nhất là về cái tối thượng của quyền lợi nước Mỹ . (Bà thường
mở đầu các cuộc phỏng vấn, thuyết trình, với câu hỏi: “Quyền lợi của Mỹ là
gì?”) Bà được nhiều người biết qua bài “Protecting the National
Interest” (“Bảo vệ Quyền lợi Quốc gia”) đăng trên Foreign Affairs năm
2000. Trong đó, Rice (như các người tân bảo thủ khác) cũng kêu gọi Mỹ lật đổ
Saddam Hussein, nhưng là qua các nhóm đối lập Iraq thay vì dùng lính Mỹ.
Trong phe diều hâu, Rice là người hay dùng “đạo đức” để biện hộ cho chính sách
Mỹ, có lẽ do ảnh hưởng phần nào của gia đình (cha là giáo viên kiêm mục sư, mẹ
cũng là giáo viên). Condoleezza Rice rất tương đắc với Richard
Perle ở chỗ cả hai đều mạnh mẽ chủ trương Mỹ không cần tham vấn nước nào khác
khi ra quyết định. Bà khinh miệt chính sách đa phương của các chính phủ
trước, nhất là của Clinton.
Thật sự, phe tân
bảo thủ không coi Condoleezza Rice (bỏ đảng Dân Chủ sang đảng Cộng Hòa năm
1983) như là cùng nhóm của họ. Một phần là vì lúc còn làm cho Scowcroft,
Rice ủng hộ Gorbachev thay vì Yeltsin, trong khi phe Cheney, Wolfowitz, Libby
thì ủng hộ Yeltsin chống lại Gorbachev. Có lẽ vì không tin cẩn Rice, phe
diều hâu gài hai người vào làm phụ tá cho bà. Một là Stephen Hadley (đàn
em của Cheney và Wolfowitz), chủ tịch một ủy ban cấp thứ trưởng họp nhiều lần mỗi
tuần để bàn chuyện ngoại giao và quốc phòng. Người kia là Elliot Abrams,
từng là phụ tá của Reagan, bị ra toà vì vụ buôn bán vũ khí với Iran.
Abrams cầm đầu phòng Trung Đông sự vụ trong hội đồng an ninh quốc gia của
Condoleezza Rice. Ông ta cũng là con rể của Norman Podhoretz (xem dưới
đây, đoạn về William Kristol).
5.2.
John Bolton
Bolton là phụ tá
bộ trưởng tư pháp trong thời Reagan, chuyển sang làm phụ tá bộ trưởng ngoại
giao (chuyên trách vấn đề các tổ chức quốc tế) trong thời Bush cha, và hiện
là thứ trưởng ngoại giao chuyên trách kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế.
Bolton không phải là gốc Do Thái, tuy nhiên ông ta là đàn em của Jesse Helms,[27] gần gũi với phái “Christian right”
(đạo Tin lành cực hữu) hơn là những người tân bảo thủ khác. Ông ta từng
nói “Nếu toà nhà tổng thư ký Liên Hợp Quốc ở New York bị nổ tung mất 10 tầng
thì cũng không có hại chi cả”. [28]
5.3.
Douglas Feith
Phụ tá trực tiếp
cho Wolfowitz ở Lầu Năm Góc là Douglas Feith, luật
sư, đã từng làm phụ tá cho Perle trong thời Reagan,[29] Feith nổi tiếng là một người tính
tình rất “khó chịu” và thường là nguyên do xung khắc giữa Bộ Quốc Phòng và Bộ
Ngoại Giao Mỹ. Feith là gốc Do Thái diều hâu cực hữu, luôn nghĩ đến quyền
lợi của Israel. Trong bài “A Strategy for Israel” (“Một Chiến
lược cho Do Thái”) năm 1997, Feith (viết chung với Richard Perle) bảo Israel phải
tái chiếm các khu vực hiện do nhà cầm quyền Palestine cai quản, dù phải trả cái
“giá bằng máu” đắt. Thay vì “đổi đất lấy hoà binh”, Feith khuyến
cáo Netanyahu hợp tác với các quốc gia láng giềng để lật đổ Hussein. Feith hiện
phụ trách “Office of Reconstruction and Humanitarian Assistance for Iraq” (“Văn
phòng Tái thiết và Viện trợ Nhân đạo cho Iraq”).
5.4. David
Wurmser
David Wurmser,
phụ tá đặc biệt cho Bolton, là nhân vật hiếu chiến nhất trong bộ ngoại
giao. (Nên để ý: Colin Powell bị Bolton và Wurmser là người của Cheney và
Wolfowitz bao vây.)
Wurmser không phải
là phe “đạo đức” (như Condoleezza Rice), hay lí tưởng dân chủ, song, gần như
hơn ai hết, ông ta nhìn chính sách Mỹ qua lăng kính quyền lợi của Israel.
Tóm tắt, Wurmser xem Mỹ và Israel như một đối với tất cả các quốc gia khác ở
Trung Đông. Năm 1999 Wurmser cho xuất bản quyển “Đồng minh của bạo
chúa: Sự Thất bại của Mỹ trong việc Đánh bại Saddam Hussein”[30] (Perle viết lời tựa), phác hoạ hình
ảnh Trung Đông sau khi Saddam bị lật đổ, nhất là ảnh hưởng đối với Syria và
Iran, sẽ “tốt” đến bực nào. Theo Wurmser, Mỹ và Israel phải đập tan – không chỉ
giải giới – những chế độ “cực đoan” ở Trung Đông, cho dân vùng này bài học
rằng nếu chống lại Mỹhoặc Israel thì phải diệt vong. Wurmser
kêu gọi Mỹ và Israel phải để ý khai thác ngay cơ hội đến từ khủng hoảng.
Ông ta viết: “Khủng hoảng có thể là cơ hội”. “Hỗn loạn là tốt” (“chaos is
good”) “đoạn tuyệt” (“clean break”) là những câu Wurmser thường hay nói.
Sách lược chiến tranh cho Mỹ và Israel do Wurmser phác hoạ được xuất bản vào
tháng giêng năm 2001, chín tháng trước ngày 11/9. Vợ của David Wurmser là
Meyrav Wurmser (con gái một lãnh tụ cực hữu Israel) cũng là một tác giả năng động
trong nhóm tân bảo thủ, chuyên viết về những kịch bản gián điệp “rùng rợn” (chằng
hạn như Saddam Hussein và Al Qaeda đã cộng tác với nhau như thế nào, CIA cố
tình “chơi xấu” Bộ Quốc Phòng Mỹ ra sao, v..v..).
5.5.
Ahmed Chalabi và Judith Miller
Cũng nên ghi
thêm là Paul Wolfowitz và Ahmed Chalabi là bạn thân hồi còn học ở Chicago (gần
đây, Chalabi đã bị thất sủng với nhóm tân bảo thủ Mỹ vì có tin cho rằng Chalibi
đã hứa với Iran là sẽ bảo vệ quyền lợi Iran, không dùng Iraq để làm bàn đạp chống
Iran). Nhóm Wolfowitz (Middle East Media and Research Institute -- MEMRI)
còn có Judith Miller, nữ ký giả nổi tiếng của tờ
New York Times, chuyên trách về vũ khí sinh hoá. Chính Judith Miller hay
viết những bài trên New York Times bảo là “theo nguồn tin thông thạo” Iraq có đầy
những vũ khí hũy diệt hàng loạt (WMD), và cũng giúp quảng cáo Chalabi với báo
giới.
6. William
Kristol
Trong lúc nhánh
tân bảo thủ của Paul Wolfowitz nghiêng nhiều về mặt chiến thuật (chủ trương
đánh phủ đầu), và nhánh của Richard Perle nhấn mạnh đến quyền quyết định đơn
phương của Mỹ, thì nhánh thứ ba, tiêu biểu là William Kristol, cổ vũ cho vai
trò đế quốc của Mỹ.
William Kristol (sinh
năm 1953) là tiến sĩ chính trị học, có một thời dạy Harvard. Ông là con của
nhà bình luận tân bảo thủ tên tuổi Irving Kristol (chủ bút tờ Public
Interest) và bà Gertrude Himmelfarb, một trí thức cũng khá nổi danh.
Bạn thân của Irving Kristol là Norman Podhoretz, chủ bút nguyệt san Commentary
(tự xưng là cơ quan ngôn luận của người Mỹ gốc Do thái). Norman Podhoretz
là cha vợ của Elliot Abrams (xem đoạn về Condoleezza Rice phần trên).
Trừ vài năm làm
chánh văn phòng cho phó tổng thống Dan Quayle (thời Bush cha), William
Kristol hoạt động ngoài chính quyền, ăn nói khôn ngoan, nổi tiếng là trí thức,
có biệt danh là “bộ óc của Dan Quayle”. Kristol hiện là tổng biên tập
tuần báo Weekly Standard (chủ là ông trùm báo chí cực hữu người
Úc Rupert Murdoch). William Kristol là điển hình cho một nhánh quan trọng của
phái tân báo thủ, một thứ “hậu phương trí thức”. Họ là những người năng nổ
phát tán tư tưởng tân bảo thủ qua các cơ quan ngôn luận, tranh đấu trên mặt trận
tư tưởng hơn là trong nội bộ chính quyền như Perle, Wolfowitz.
Weekly Standard được
coi là ống loa của nhóm tân bảo thủ, đã cổ vũ “thay đổi chế độ” -- chẳng những ở
Iraq, mà còn ở Saudi Arabia, Syria, vv.. -- ngay từ thập kỉ
90. Kristol là bạn thân của Perle, Kagan (xem dưới đây) và giao thiệp rộng
rãi trong đảng Cộng Hoà. Tuần báo này hô hào Mỹ dùng sức mạnh quân sự để
bảo vệ quyền lợi và “giá trị” của Mỹ khắp mọi nơi, chớ ngần ngại làm đế quốc.
Trong cuộc bầu cử năm 2000, nhóm này ủng hộ McCain thay vì Bush (cho là Bush
quá yếu), và thường chỉ trích Colin Powell về cái mà họ gọi là tính “nhút nhát”
của ông này.[31]
Chính bộ phận
này của phe tân bảo thủ đã tạo cho phe này một uy thế đáng sợ. Ngoài
Kristol còn có Rich Lowry ở tờ National Review,Paul Gigot phụ
trách trang bình luận của tờ Wall Street Journal, Policy Review (của
Hoover Institution), National Interest (của Conrad Black, nhà tỷ
phú bảo thủ dân Anh); Commentary (tạp chí do Irving Kristol
sáng lập). Theo họ thì Mỹ cần phổ biến “dân chủ” và “giá trị” kiểu Mỹ
trên thế giới, và nếu cần, sử dụng quân sự vào việc đó.
7. Những
người tân bảo thủ khác ngoài chính phủ
7.1.
Robert Kagan
Một người nữa
cũng thuộc phe “Tân Đế Quốc”, hay viết chung với William Kristol, là ký giả
Robert Kagan (sinh năm 1959, thạc sĩ Harvard). Ông này là một viên chức trong
chính quyền Reagan từ năm 1984 đến 1988, cộng tác với Carnegie
Endowment for International Peace, một “lò nghiên cứu” của Mỹ. Kagan thường
viết cho Weekly Standard, Policy Review, Washington Post. [32]
Cùng với William
Kristol, Kagan là kiến trúc sư của chủ nghĩa can thiệp tân bảo thủ
(neoconservative interventionism). Hai người cùng viết bài “Về một
Chính sách Ngoại giao Reagan Kiểu Mới”[33] đăng trên Foreign Affairs năm
1996, bảo rằng Mỹ phải trở thành “bá chủ hoàn cầu” (global hegemony) và rằng
chính sách ngoại giao Mỹ phải nhằm khuyến khích cái mà Kagan gọi là “những giá
trị nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập” của Mỹ. [34] Cụm từ mà Kagan và Kristol dùng là
“benevolent hegomony” (bá chủ nhân từ) để gán cho vai trò mà Mỹ phải có trong
thế kỉ 21.[35]
Trong một bài
quan trọng[36] trên tạp chí Policy
Review năm 2002 (và thành sách năm 2003), Kagan có hai nhận
xét chính: Một là, thế giới quan của Mỹ và châu Âu bây giờ là rất
khác nhau, và hai là, sở dĩ châu Âu ngày nay là “thiên đàng”
(chữ trong tựa sách) là nhờ “quyền lực” của Mỹ.
Theo Kagan, sau
khi trải qua nhiều thế kỉ xâm lấn, đánh giết nhau, với hai trận Thế Chiến để lại
quá nhiều tàn phá thương vong, châu Âu chỉ muốn được hoà bình, yên ổn sinh sống.
Ước vọng này được củng cố thêm trong hơn nửa thế kỉ qua, sau khi nước Đức chẳng
những hết hiếu chiến mà còn tái thống nhất trong hòa bình, hội nhập vào cộng đồng
châu Âu. Tóm lại, châu Âu ngày nay gần như một “thiên đàng”, sống trong một thứ
thái bình vĩnh viễn như triết gia Immanuel Kant đã dự tưởng, trong đó pháp chế,
ngoại giao, tinh thần nhân nhượng ngự trị. Vì đã thành công giải quyết các vấn
đề của họ mà không cần vũ lực, các nước châu Âu ngày nay cho rằng mọi tranh chấp,
ở bất cứ đâu, đều có thể giải quyết cách ấy.
Mỹ, theo Kagan,
có cái nhìn khác. Đối với Mỹ, thế giới vẫn còn như một khu rừng man rợ đầy dã
thú (như trong triết lí Hobbes), chỉ nể sợ quyền lực. Do đó, Mỹ có bổn phận làm
người giữ trật tự an ninh cho nhân loại. Kagan nhấn mạnh: châu Âu đã hưởng thái
bình thịnh vượng trong hơn nửa thế kỉ qua chính là nhờ Mỹ. Từ việc phòng thủ lục
địa này trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đến bảo đảm nguồn dầu hoả, đến thống nhất
nước Đức, đến mang lại hoà bình ở Balkan, tất cả là nhờ sức mạnh quân sự, kinh
tế, và sự lãnh đạo của Mỹ. Hơn nữa, theo Kagan, Mỹ không giống những đế quốc thực
dân châu Âu ngày xưa. Mỹ là một bá chủ “nhân từ”, “quảng đại”, chỉ muốn truyền
bá những giá trị tiến bộ của nhân loại: “dân chủ”, “tự do”, “kinh tế thị truờng”.
Người châu Âu biết rõ như vậy, Kagan khẳng định.
Song, theo ý
Kagan, chính vì những dị biệt trong thế giới quan, và nhất là những chênh lệch
quá lớn về sức mạnh quân sự, Mỹ và châu Âu không còn cùng một “ngôn ngữ”, không
còn nghĩ giống nhau về vai trò của quyền lực trong các vấn đề quốc tế. Nói theo
Kagan, hai bên không còn chia sẻ một “văn hoá chiến lược” (“strategic
culture”). Câu nổi tiếng nhất của Kagan là “Người Mỹ đến từ sao Hoả, người Âu đến
từ sao Kim.”
Vì những lí do
trên, theo Kagan, không gì khó hiểu về sự khác nhau hiện nay giữa hai bờ Đại
Tây Dương: chính cách của Mỹ là phản ảnh sức mạnh của Mỹ, còn chính sách châu
Âu là phản ảnh sự nhược yếu của châu này. Sự “chia tay” này không phải là nhất
thời, chỉ xảy ra vì người cầm đầu chính phủ là ai đó, nhưng sẽ mãi mãi. Cụ thể,
đối với những người chỉ trích thái độ “cao bồi” của chính quyền Bush, Kagan khẳng
định rằng ngay Clinton cũng đã thay đổi chính sách từ đa phương (nhiệm kỳ 1)
sang đơn phương (nhiệm kỳ 2).
Kagan không ngạc
nhiên về thái độ bài Mỹ ở châu Âu những năm gần đây. Mỹ, với tham vọng bá quyền,
sử dụng ngôn ngữ của quyền lực, châu Âu – quá “lí tưởng” – thì dùng ngôn ngữ của
hoà bình. Vì ngân sách quốc phòng ít oi, tiếng nói của các nước châu Âu trong
các liên minh quân sự của họ với Mỹ ngày càng ít được nghe. Chính sự chênh lệch
quân sự giữa châu Âu và Mỹ, theo Kagan, đã làm yếu đi liên hệ giữa hai bờ Đại
Tây Dương. Hơn nữa, sự sụp đổ của Liên Xô không những đã làm Tây Âu mất đi một
đối thủ chiến lược, nó còn làm giảm đi ảnh hưởng chính trị của Tây Âu khắp thế
giới,
Kagan ca tụng
ngôi vị độc tôn của Mỹ. Ông mạnh dạn khẳng định Mỹ đã làm nhiều điều tốt hơn xấu,
rằng thế giới ngày nay tốt đẹp là nhờ sự khống trị, bá quyền của Mỹ. Kagan cho
rằng Mỹ không nên để các thể chế quốc tế ràng buộc, làm giảm hiệu quả những
hành động đơn phương của Mỹ.
Theo Kagan, các
nước Tây Âu đã không dám trực diện hiểm hoạ của Iraq, mà đối với Mỹ thì quá rõ
ràng. Thái độ “hiếu hoà” của châu Âu, theo Kagan, không phải vì châu Âu đạo đức
gì hơn Mỹ, nhưng chỉ vì châu Âu quá yếu đuối về quân sự. Tuy nhiên, Kagan không
đổ lỗi hoàn toàn cho Tây Âu, ông cũng cho rằng chính quyền Bush quá kiêu căng.
Ông ta khuyến cáo chính quyền Bush nên nể trọng hơn ý kiến của các quốc gia
khác. Tuy nhiên cuối cùng Kagan vẫn nghĩ rằng Mỹ có thể đơn phương hành động,
không cần sự đồng ý của châu Âu.
Cái mới trong ý
kiến của Kagan không phải ở chỗ ông cho là có sự dị biệt giữa thái độ của Mỹ và
Châu Âu, nhưng ở cách ông giải thích sự dị biệt đó. Có lẽ Kagan là người có
trách nhiệm tinh thần lớn nhất cho sự chia rẽ giữa Mỹ và châu Âu hiện
nay. Có lẽ điều Kagan nói mà đáng nhớ nhất là ông ta công khai ủng hộ
“tiêu chuẩn kép” (“double standard”). Cũng nên nói thêm là Kagan thường
chỉ trích Colin Powell và khuyến cáo Mỹ nên mở rộng chiến tranh ngoài
Afghanistan.
Theo Kagan thì
vai trò giữa Mỹ và Châu Âu đảo ngược sau Thế Chiến I. Ngày nay Âu Châu
quá “hiếu hoà”, nhút nhát. Mỹ “hiếu chiến” không phải vì Âu
Châu có văn hoá hơn, Mỹ “cao bồi hơn” nhưng tại vì Âu châu yếu hơn, Mỹ mạnh hơn.
7.2. Max
Boot
Max Boot là một
tác giả còn rất trẻ (sinh năm 1969), từng giữ chức biên tập trang bình luận của
tờ Wall Street Journal. Ông viết rất siêng năng, với tác phẩm
gây nhiều dư luận là quyển “Những Cuộc Chiến tranh Man rợ vì Hòa bình: Chiến
tranh cỡ nhỏ và Sự Phất lên của Quyền lực Mỹ”[37](2002). Trong tác phẩm này, Boot kiểm
lại kinh nghiệm đế quốc của Anh và Mỹ trong hơn hai thế kỷ qua và đưa ra một ý
kiến táo bạo: Mỹ phải khai sáng cho những nước “kém văn minh”, bằng vũ lực đế
quốc nếu cần.
Theo Boot, không
thể tránh đựơc những cuộc “chiến tranh nhỏ”. Đó là hậu quả tất nhiên của
sức mạnh của Mỹ. Mỹ đã luôn luôn quá mạnh ở khắp nơi trên thế giới, do đó
không thể tránh nhập cuộc dù có khi sự can thiệp ấy không thể biện minh trên
tiêu chuẩn “chính trị thực tế” (“realpolitik”). Dù muốn dù không. Mỹ phải
chuẩn bị cho vai trò ấy. Câu hỏi là Mỹ có làm được việc đó tốt hay
không. Hơn nữa, theo Boot, Mỹ không nên đi vào những chiến dịch như vậy với
hi vọng sẽ không bị thương vong. Phải chấp nhận thương vong.
Max Boot khẳng định
Mỹ đang là nước mạnh nhất hoàn cầu, vậy thì hãy tận dụng quyền lực đó, chớ né
tránh rụt rè. Theo Boot, Mỹ không nên chỉ bảo vệ “quyền lợi quốc
gia” (Boot đi xa hơn Condoleezza Rice) nhưng phải mạnh dạn hơn, làm nhiệm
vụ “cảnh sát đế quốc” (“imperial policing”). Mục đích không phải chỉ là
đánh bại địch thủ về mặt quân sự, nhưng còn là phải “xây dựng quốc gia”
(“nation building”), nghĩa là phải sẵn sàng chiếm đóng lâu dài các nước
khác. Ngây ngất trong ý kiến đó, Boot còn thêm rằng một chính sách như vậy
không cần thông qua quốc hội Mỹ, chỉ cần sự quản lí của Nhà Trắng và Lầu Năm
Góc, với sự ưng thuận của nước chủ nhà (như kiểu Đại Hàn trước đây). Chính Max
Boot, trong một bài báo trên tờ Financial Times vào đầu tháng
7/2003 đã kêu gọi Mỹ thiết lập một Bộ Thuộc Địa.
Không ngạc nhiên
gì khi thấy Max Boot và những người “Tân Đế Quốc” (hoặc Tân Thực Dân) như ông
múa bút trên diễn đàn của tạp chí tân bảo thủ như Weekly
Standard, National Review (tổng biên tập là Rich Lowry), đánh
trống khua chiêng đòi đánh chiếm Iraq. Đối với họ, “thay đổi chế độ” ở
Iraq chỉ là bước đầu. Dùng Iraq làm bàn đạp, Mỹ sẽ kế tiếp thay thế
các cố đạo (“mullah”) ở Iran, Wahhab ở Saudi Arabia, đó là không nói đến bàn đạp
đã có sẵn ở Balkans, ở Afghanistan, ở Trung Á.
7.3. Eliot
Cohen
Tuy có lẽ không
phải do sự phân công tiền định, Eliot Cohen đã giúp nhóm tân bảo thủ chống lại
một lời chỉ trích khác: đó là trong đám của họ chưa ai từng đi lính chiến đấu
(Bush là thành viên lính cảnh vệ (National Guard) thì không kể). Cohen hiện
là giáo sư ở trường Cao Đẳng Hải Quân (Naval War College), nhưng đã từng làm việc
với Wolfowitz trong chính quyền Bush cha, và là thành viên của Ban Tư vấn Chính
sách Quốc phòng (Defense Policy Board).
“Đóng góp” quan
trọng gần đây của Cohen là quyển “Supreme Command” tán tụng tài lãnh đạo của
các lãnh tụ dân sự như Lincoln, Churchill, Ben-Gurion, Clemenceau. Nghiên
cứu bốn vị này, Cohen cho rằng tuy khác nhau về nhiều mặt, họ giống nhau ở chỗ
(1) rất tò mò, (2) nhiều trực giác, (3) đọc rộng, nhất là về lịch sử và tiều sử,
(4) trong những khi khủng hoảng, hết sức cố gắng trau giồi kiến thức, thu thập
thông tin. Họ không cứng nhắc khi đeo đuổi mục tiêu. Họ thách thức
những người thuộc quyền, và có khả năng không nhân nhượng, đáng kể là dám chấp
nhận số thương vong thường dân cao.[38]
Cohen kết luận rằng
khi các lãnh tụ dân sự giao phó toàn quyền cho tướng lãnh (như Johnson,
Clinton) thì có phần chắc là thất bại. Theo Cohen, những lãnh tụ kiệt xuất
trong thời kỳ chiến tranh là những người đích thân tham gia hoạch định chiến
thuật quân sự. Cohen cho rằng “vấn đề” với các tướng lãnh là họ ngại mạo
hiểm (risk averse), bị ám ảnh bởi chiến tranh vừa xảy ra (mà không nghĩ đến cái
sắp tới) và đôi khi chỉ lo bảo vệ quyền lợi binh chủng của mình.
Nhờ Cohen, nhóm
diều hâu tân bảo thủ (không ai có một ngày mặt quân phục) có cớ bác bỏ những chế
nhạo việc họ hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến tranh.
8. Tân bảo
thủ văn hoá
Sẽ là thiếu sót
nếu chỉ xem phái tân bảo thủ (và nhất là Leo Strauss) về mặt chính trị hoặc ngoại
giao. Theo tạp chí The Economist thì ảnh huởng sâu đậm
nhất của Strauss không phải ở chính sách ngoại giao, nhưng về chính sách nội bộ
của Mỹ (qua những người như Leon Kass, John Walters, Lynne Cheney). Và
cũng như tuần báo này nhận xét: rốt cuộc có một sự oái oăm tuyệt vời:
chính quyền Bush thường bị (nhất là Âu châu) khinh miệt là thiếu giáo dục, lại
là một chính quyền bị ảnh hưởng nhiều nhất của triết lí cao xa, nhất là triết
lí Âu Châu, không khác gi các nước Châu Âu cũ!!!
Trên mặt trận
văn hoá, người phổ biến rộng rãi tư tưởng của Leo Strauss là Allan Bloom. Ông
này là tác giả quyển “best seller” The Closing of the American Mind,[39] và là thầy của Francis Fukuyama và
Paul Wolfowitz ở Chicago. Allan Boom là một người nhiều ấn tượng mà cuộc
đời đã được nhà văn Saul Bellow (Nobel văn chương 1976) dựa vào để viết quyển
tiểu thuyết Ravelstein (trong đó Wolfowitz cũng được xuất hiện
qua một nhân vật phụ) năm 2000.[40]
Cả Strauss và
Bloom chỉ trích kịch liệt chủ nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism), viện
dẫn những lời giáo huấn của các học giả cổ đại, và có một quan điểm “elitist”[41] về vai trò của giáo dục. Là học
giả trong truyền thống Socrates, hai ông này nhiệt liệt tin vào chức vụ “quân
sư”, vai trò mà Kristol đã đóng đối với Dan Quayle.
Về xã hội, tân bảo
thủ chống lại chính sách “tích cực nâng đỡ” (“affirmative action”) của nhà nước,
theo đó dân da màu, chẳng hạn, phải được ưu tiên thuê khi họ xin việc làm, hoặc
nhận vào đại học. Phái tân bảo thủ không cho là xã hội nên đặt định những
loại “hạn ngạch” như thế, dù là với thiện chí đền bù những nạn nhân của sự kỳ
thị trong quá khứ, hay bị thiệt thòi vì những lí do xã hội khác. Họ chế
nhạo phong trào phụ nữ đòi quyền lợi giống như nam giới, cho rằng vai trò của
phụ nữ là làm mẹ, làm nội trợ, không phải đi làm kiếm tiền. Họ cũng cho là nhà
nước phải nâng đỡ trường đạo như trường công.
Về văn hóa, những
người tân bảo thủ không ưa chính sách đa văn hoá (multiculturalism). Họ cho rằng
văn minh của Mỹ phải trung thành với truyền thống văn minh tây phưong, nước Mỹ
là nước Do Thái – Thiên chúa giáo (Judea-Christian). Họ than phiền về
tình trạng suy đồi của văn hoá hiện đại mà họ cho là hậu quả của sự đánh mất những
giá trị tây phương cổ truyền. Đây là nền tảng tư tưởng của những
người bảo thủ văn hoá như Allan Bloom mà sau này có tiếng vọng ở Francis
Fukuyama và Lynne Cheney.[42] Họ chế nhạo phong trào “phải đạo
chính trị” (“political correctness”), coi đó là phản Mỹ, đi ngược văn minh Mỹ.
Một tác giả nữa
cũng tự nhận đã chịu ảnh hưởng của Leo Strauss là Dinesh D’Souza, một loại “trẻ
ngỗ nghịch”,[43] gốc Ấn Độ.[44] Chàng này cho biết điều Leo
Strauss gây nhiều ấn tượng với anh ta nhất là chỗ Strauss cho có cái đúng và
cái sai, hẳn hoi, tức là không có sự mập mờ của chủ nghĩa tương đối về văn hóa,
(“cultural relativism”). D’Souza cho rằng học trò của Strauss hay
dùng triết lí về “quyền thiên bẩm” (“natural rights”), tức là căn bản của các
nhà hiền triết cổ đại để phân biệt chánh tà, để bảo vệ dân chủ thiên hướng tự
do (“liberal democracy”) và giá trị đạo đức chống lại những kẻ thù trong cũng
như ngoài nước. Năm 1992, D’Souza viết “Những người theo Strauss có một sự
rành rọt trí thức (intellectual rigor) rất hấp dẫn. Họ cổ vũ cho ý niệm
“chính khách” (statesman) và có ý kiến rằng các “ông hoàng” (prince) phải được
quân sư cố vấn, như trong triết học Machiavelli và Aristotle. Điều này là
cần thiết, họ khẳng định, bởi lẽ “lãnh tụ” không phải bao giờ cũng là người
khôn lanh nhất trên đời.”
Giới hạn của bài
này không cho phép khai triển thêm về liên hệ giữa tân bảo thủ và các đại
công ty của Mỹ (Halliburton của Cheney, vv), cũng như đối với chủ nghĩa toàn thống
Thiên chúa giáo (“Christian fundamentalism”) (qua Bộ trưởng Tư pháp John
Ashcroft và phe của ông). Liên minh này có thể còn tiếp tục trong chính
sách Mỹ đối với Syria, Iran, và có thể cả Saudi Arabia, nhưng khó đi xa
hơn. Đối với Trung Quốc chẳng hạn, yếu tố Israel sẽ trở nên ít quan trọng,
và những áp lực kinh tế và ngoại giao khu vực sẽ mạnh hơn (mặc dù nhóm
“Christian fundamentalists” cũng sẽ có ảnh hưởng lớn trong chính
sách ngoại giao Mỹ đối với Trung Quốc)
9. Tân bảo thủ tự
biện hộ
Để công bằng,
thiết nghĩ cũng nên tường thuật cách tự bào chữa của nhóm tân bảo thủ (chống lại
cáo buộc cho rằng chính phủ Bush hiện nay bị thao túng bởi một băng đảng trí thức
hiếu chiến gốc Do Thái, trong lẫn ngoài chính quyền, chỉ nghĩ đến quyền lợi
Israel)
Trả lời chỉ
trích “dân Do Thái ở Mỹ chỉ muốn Mỹ xâm lăng Iraq vì lợi ích của Israel”, phe
tân bảo thủ nhắc rằng có rất đông người Mỹ gốc Do Thái (ngay trong giới bình luận
gia) chống chính sách Mỹ đối với Iraq.[45] Đúng là như vậy, và còn có thể nói
thêm là một phần đáng kể dân Israel cũng là yêu chuộng hoà bình, chấp nhận
Palestine, cho xâm lăng là sai. Tuy nhiên, người chỉ trích phái tân bảo
thủ sẽ vạch rõ là phe này là phản ánh lập trường của thành phần Do Thái diều
hâu cực hữu (ở Mỹ cũng như ở Israel), và đó mới chính là điều đáng
nói.[46]
Đối với chỉ
trích “chính quyền Bush bị phe hiếu chiến tân bảo thủ khuynh đảo”, những người tân
bảo thủ trả lời: các cố vấn cao cấp nhất của Bush (như Cheney, Rumsfeld,
Powell, Rice) đâu phải Do Thái, đâu phải ngây thơ, đâu phải không biết gì về
quân sự, ngoại giao? Không lẽ những người này cũng bị phe tân bảo thủ phỉnh
gạt?
Để phản biện lời
bào chữa này, có thể nói rằng, đúng thế, những người này không ngây thơ, song
chính phe tân bảo thủ cho họ một chỗ dựa lí thuyết và hướng họ vào
một lộ trình chính sách mà họ không nghĩ đến (dù không hẳn là ngược lại
với con đuờng họ sẽ đi). Lấy trường hợp Bush, ông ta là một người sẵn
tính “du côn”, thù vặt, từ nhỏ đến lớn chỉ biết nương tựa thế lực gia
đình. Phe tân bảo thủ khích Bush bằng cách nhắc ông ta rằng Saddam
Hussein là người định ám sát Bush cha, vô cùng nguy hiểm. Còn với Rumsfield,
Cheney thì họ sẽ bảo rằng đánh Iraq là việc phải làm để củng cố thế lực Mỹ, có
lợi cho tư bản Mỹ (cụ thể là công ty của các ông ấy).
Đối với chỉ
trích “đây là một âm mưu bí mật của bọn diều hâu Do Thái, tân bảo thủ” [47] thì họ phân bua: “Chúng tôi đã viết
sách, viết báo hàng chục năm nay công khai biện hộ cho lập trường này, nào có
giấu giếm ai?”. Cách phản biện này cũng không hoàn toàn đúng. Thực
sự, câu hỏi là: Chính quyền Bush có sòng phẳng với dân chúng về mục tiêu chiến
tranh Iraq không? Nếu muốn xâm chiếm Iraq vì dầu hoả, hoặc vì quyền lợi Israel
thì cứ công khai cho mọi người biết. Cái giấu giếm phản dân chủ là cứ nói
đánh Iraq bởi lẽ (a) Iraq có vũ khí giết người hàng loạt, (b) Hussein thông đồng
hay ủng hộ khủng bố (cụ thể là Al Qaeda), (c) muốn giải phóng Iraq đang sống dưới
chế độ độc tài khắc nghiệt. Sở dĩ đa số người Mỹ ủng hộ chiến tranh là vì
họ tin những sự lừa dối ấy.
Phe tân bảo thủ[48] cũng khẳng định rằng chính sách Mỹ
phải là nhằm phục vụ quyền lợi nước Mỹ, phe phái nào ở Mỹ cũng nhất quyết như vậy,
không chỉ có nhóm tân bảo thủ. Có thể trả lời là đồng ý, song cách Mỹ
bảo vệ quyền lợi đó hiện nay là thiếu khôn ngoan, làm mất lòng tất cả những quốc
gia từng là đồng minh thân thiết của Mỹ, và phung phí thiện cảm mà hầu hết mọi
người trên thế giới đã dành cho Mỹ sau vụ 11 tháng 9.
Một biến thể của
lí luận này là quan điểm cho rằng chính sách đế quốc, thái độ đơn phương hành động
của Mỹ không chỉ bắt đầu với Bush nhưng đã có từ Clinton (nhất là nhiệm kỳ 2)
hoặc trước hơn nữa. [49] Tương tự, không phải chỉ đến khi
Bush lên cầm quyền thì chính phủ Mỹ mới nói dối với công chúng. Điều khác
biệt là sự nói dối của Bush và nhóm tân bảo thủ được những người này xem như là
một triết lí cần thiết của người lãnh đạo, như Leo Strauss đã dạy!
10. Thay lời
kết
Trở lại câu hỏi
cơ bản mà bài này đặt ra: Có chăng một nhóm tân bảo thủ với những mưu đồ mờ ám
đang thực sự lèo lái chính sách ngoại giao của chính phủ Bush hiện nay?
Câu trả lời khách quan cần trước hết vài điều tự cảnh giác.
Một là,
khuynh hướng tưởng tượng ra một “âm mưu bí mật” (conspiracy) nào đó đàng sau những
sự cố khó giải thích là điều thường có trong những người đa nghi, lắm lúc thái
quá. Đối với nhiều người không ủng hộ Bush, sẵn cho là ông ta kém thông
minh, hiểu biết, thì sự nghi ngờ có kẻ giựt dây Bush là dễ hiểu. Song, kết
luận khách quan khoa học đòi hỏi bằng chứng rõ ràng, xác thực, không chỉ là những
tưởng tượng chủ quan. Hai là, như Fukuyama nhận xét (xem bài
trên Times of London), những người tân bảo thủ (như Wolfowitz)
không phải là nông cạn, hoặc cưỡng từ đoạt lý vì lợi ích cá nhân.
Đánh giá ảnh hưởng
phe tân bảo thủ còn nhiều khó khăn khác.
Một là, không
phải mọi thành viên phe này đều đồng ý với nhau về mọi điểm. Lấy trường hợp
Leo Strauss và Alexandre Kojève. Kojève, có phong thái lạc quan, nhiệt liệt
ủng hộ các tổ chức quốc tế (như WTO), là thầy tinh thần của Francis Fukuyama (The
End of History phần nào chỉ là phát triển lí thuyết của Kojève).
Fukuyama lại chịu thêm ảnh hưởng của Leo Strauss (qua Allan Bloom) về giá trị
tuyệt đối của văn minh cổ đại La Hi. Song Strauss và Kojève lại rất khác
nhau (một người bi quan, một người lạc quan) và đã công khai bút chiến nhiều lần.
Vậy thì nên xem ai là tiêu biểu cho triết lí tân bảo thủ?
Hai là,
tư tưởng mỗi người cũng thiếu nhất quán. Lại lấy Leo Strauss làm ví dụ:
Có lúc thì ông chỉ trích thời Khai Sáng, có lúc thì ông lại xem đó như một thuở
hoàng kim. Gần đây hơn, Kagan và Kristol cũng thay đổi ý kiến từ bài này
sang bài khác.
Và ba là,
nhiều người trong phe tân bảo thủ ít viết sách hoặc bài đăng báo (Wolfowitz chẳng
hạn) nên cũng khó đoán biết lí luận của họ ra sao.
Thế thì tại sao
nhóm tân bảo thủ lại có ảnh hưởng đến thế trong chính phủ Bush? Đầu dây mối
nhợ có thể chính là Dick Cheney. Cheney là một
người có tài ma-nớp chính trị thượng thừa (xem Mann (2004)), và nhìn lại thì tất
cả những người tân bảo thủ đều có liên hệ trực tiếp đến ông ta vào lúc này hoặc
lúc khác. Chính Cheney đã tự đề cử mình ra ứng cử với Bush,
và chính Cheney đã phụ trách việc bàn giao từ chính phủ Clinton sang chính phủ
Bush. Được gần như toàn quyền bổ nhiệm thành viên cho chính phủ Bush,
Cheney đã bổ nhiệm Wolfowitz và Perle, rồi sau đó là Feith, Wurmser, Libby,
Bolton, v.v.
Một vấn đề liên
hệ: đó là cuộc bầu cử năm 2000 đã cho nhiều bài học đáng tiếc về thể chế của Mỹ.
Cụ thể, nó cho Bush và đảng Cộng hòa thấy rằng dù thua phiếu vẩn có thể “thắng
cử” nếu biết gian lận, nếu có nhiều luật sư dám chơi xấu, nếu có các quan tòa
(kể cả tối cao pháp viện) thuộc phe mình, và nhất là nếu có các phương tiện
truyền thông trong tay.
Phe tân bảo thủ
cũng may mắn là họ “phất” đúng vào lúc mà sức mạnh của Mỹ là vô địch (nhất là với
thế hệ “vũ khí khôn”) và quân đội Mỹ toàn là tình nguyện, do đó đa số dân Mỹ ít
thấy những phiêu lưu quân sự của Mỹ có ảnh hưởng đến cá nhân và gia đình họ như
trong những chiến tranh trước. Lẽ dĩ nhiên là những cuộc phiêu lưu này sẽ
có ảnh hưởng kinh tế không tốt, song chính quyền Bush nghĩ rằng họ có thể đổ lỗi
này cho đảng đối lập.
Một nghịch lí
trong thế giới quan tân bảo thủ là nó vừa “lý tưởng” lại vừa bi quan. Họ
“lý tưởng” ở chỗ tin rằng viễn ảnh nhân loại có thể tốt hơn, sáng sủa hơn, cụ
thể là trong một mô thức tự do dân chủ (Fukuyama). Do đó họ tin rằng Mỹ
không nên ủng hộ những quốc gia độc tài. Họ có nhiều điểm chung với những
người phe tả từng là bạn của họ: muốn tái tạo thế giới trong tinh thần
Khai sáng, Dân chủ.
Thật vậy, nhiều
người (như John Gray) chỉ trích phái tân bảo thủ về cái nhìn “cách mạng lạc
quan” (revolutionary optimism) ấy, tin rằng dân chủ đều có thể có ở mọi nơi, thậm
chí có thể xảy ra rất nhanh (như những người tân bảo thủ có ảo mộng về dân chủ ở
Iraq)
Song, mặt khác,
trái với “cựu bảo thủ” ở Mỹ, tân bảo thủ lại bi quan về bản tính con người.
Đó là thế giới quan của những người tha huơng (diaspora), nạn nhân của những cuộc
tàn sát diệt chủng (pogrom, Holocaust). Họ là những người
“Spartan”. Hơn nữa, nếu không hẳn là kỳ thị chủng tộc, những người tân bảo
thủ cũng có phần khinh rẻ những giống dân khác (nhất là Á Rập), cho rằng các nước
này quá lạc hậu (ngay so với các nước kém phát triển khác, như ở châu Á chằng hạn)
và Mỹ có thể đem văn minh đến các nước này và đồng thời bảo vệ
an ninh cho Israel (xem Daniel Pipes, Martin Kramer và nhất là Bernard
Lewis). Sẽ quá đơn giản nếu cho rằng họ chỉ vì quyền lợi Israel, bất chấp
quyền lợi của Mỹ. Có thể là trong tiềm thức, đó là cái họ muốn, song đừng
quyết đoán rằng đó là ý đồ của họ.
15 tháng 3 năm
2004
Trần Hữu Dũng
THAM KHẢO
Bacevich, Andrew
J., 2003, American Empire: The Realities and Consequences of US
Diplomacy, Cambridge. MA: Harvard University Press.
Boot, Max, 2001,
“The Case for American Empire,” Weekly Standard
Boot, Max, 2002, The
Savage Wars of Peace: Small Wars and the Rise of American Power, NY: Basic
Books, 2002,
Boot, Max,
2003, “Washington needs a colonial office,” Financial Times, July
2.
Boot, Max, 2003,
“Think Again: Neocons”, Foreign Policy, Jan-Feb.
Connelly, M., và
Paul Kennedy, 1994, “Must It Be the Rest Against the West?,” Atlantic
Monthly, December, pp. 61-84.
Drew, Elizabeth,
2003, “The Neocons in Power,” New York Review of Book, June
12.
Drezner, Donald,
2003, “Et Tu, Kristol?”, The New Republic, May 14
Drury, Shadia,
1988, The Political Ideas of Leo Strauss, NY: Macmillan
Drury, Shadia,
1999, Leo Strauss and the American Right
D'Souza, Dinesh,
2003, “ The
Power of Virtue,” Washington Post July 4
Ferguson, Niall, Empire:
The Rise and Demise of the British World Order and the Lessons for Global Power,
NY: Basic Books
Fukuyama, F, The End of History?
Fukuyama, F.,
2002, “Has History Started Again?,” Policy, Winter.
Heer, Jeet,
2003, “The Philosopher,” Boston Globe, March 11
Judis, John,
2003, “What Woodrow Wilson can teach today's imperialists,” The New
Republic, May 31
Kagan, Robert,
2003, Of Paradise And Power, America and Europe In the New World Order, NY:
Knopf.
Kennedy, Paul,
1988, The Rise and Fall of the Great Powers: Economic Change and
Military Conflict, 1500-2000, NY: Random House
Kennedy, Paul,
1993, Preparing for The Twenty-First Century, NY: Random House
Kikutani, M.,
2003, “How Books Have Shaped U.S. Policy,” New York Times April
5
Kristol,
William, and Robert Kagan, 1996, “Toward
a Neo-Reaganite Foreign Policy,” Foreign Affairs
Lal, Deepak,
2002, In Defense of Empires, Washington D.C.: American Enterprise
Institute
Lenzner, Steven,
và William Kristol, 2003, “What was Leo
Strauss up to?”, tr 19-39, Public Interest, Fall
Mandelbaum,
Michael, 2002, Peace, Democracy, and Free Markets in the Twenty-First
Century, NY: Public Affairs
Mann, James,
2004, Rise of the Vulcans, NY: Viking
Marshall, Joshua
M., 2003, “Practice
to Deceive,” Washington Monthly, April
Prestowitz,
Clyde, 2003, Rogue Nation: American Unilateralism and the Failure of Good
Intentions, NY: Basic Books
Schell,
Jonathan, 2003, The Unconquerable World: Power, Nonviolence, and the
Will of the People, NY: Metropolitan
Urquhart, Brian,
2003, “World Order & Mr. Bush,” New York Review of Book¸ October
3
Swidey, Neil,
2003, “The Analyst,” Boston Globe¸May 18
[1]Phiên
bản đầu tiên của bài này đã được đọc tại Hội Thảo Mùa Hè, Munich 24-26 tháng 7,
2003. Tác giả xin cám ơn Vũ Quang Việt và Cao Huy Thuần đã góp nhiều ý kiến
hữu ích trong lần hiệu đính này. Mọi lỗi lầm, sơ sót còn lại hoàn toàn là
trách nhiệm người viết.
[4]Trường
hợp ngoại lệ là Cheney, Rumsfeld, và chính Bush. Song những người này
không là tân bảo thủ thật sự, như sẽ nói dưới đây.
[5]Thương
nghị sĩ Henry Jackson, đảng Dân chủ Mỹ, là người cực lực chống lại chính sách
hoà giản với Liên Xô. Cha của ông là một thành viên đắc lực của phong
trào công đoàn, và ông là phái tả chống cộng từ giai cấp công nhân
(working-class left). Ông chủ trương Mỹ phải luôn luôn đi trước trong cuộc
chạy đua vũ khí với Liên Xô, ủng hộ chiến tranh Việt Nam, và làm áp lực Liên Xô
cho dân Nga gốc Do Thái được di cư.
[6]Sự
ủng hộ này tương đối còn “ôn hoà” trước năm 1993, nhưng sau thỏa hiệp Oslo vào
năm ấy thì sự ủng hộ này nghiêng hẳn về phe cực hữu Likud -- từ chính phủ
Benjamin Netanyahu đến Ariel Sharon ngày nay.
[7]Thật
ra, phát giác này không là mới. Năm 1987 (khi Reagan còn làm tổng thồng)
tuần báo Newsweek đã có bài “The cult of Leo Strauss”.
[8]Harrington
là tác giả quyển The Other America (mô tả sống động tình trạng
nghèo khỗ ở vùng Appalachia ở Mỹ) rất có ảnh hưởng đối với chính sách “xoá đói
giảm nghèo” của chính quyền Kennedy.
[10]Quen
thân với Alexandre Kojève lúc này. Kojève là triết gia có ảnh hưởng trực
tiếp đến Francis Fukuyama, như sẽ nói sau đây.
[11]“Cộng
hoà Weimar” là tên gọi các chính phủ dân chủ ở Đức trong khoảng thời gian giữa
khi vua Kaiser Wilhem II thoái vị và Hitler lên cầm quyền năm 1933. Chính
phủ Weimar không được nhiều ủng hộ của dân chúng vì họ chấp nhận những điều khoản
ngặt nghèo mà Thỏa ước Versailles đã áp đặt lên nước Đúc (những bồi thường nặng
nề mà Đức phải trả, gây nên xáo trộn kinh tế và sự mất giá của đồng Đức
Mã). Song thời kỳ này cũng đánh dấu tự do chính trị và sáng tạo trong
lãnh vực văn hoá. Những điều này chấm dứt khi Hitler lên cầm quyền.
[12]Âm
hưởng của chủ thuyết này là rõ rệt nhất ở Victor David Hanson, guru của Dick
Cheney, sau này. Song Hanson cũng có ý khinh miệt những người tân bảo thủ tháp
ngà như Leo Strauss và đồ đệ.
[15]Nên
để ý Wohlstetter đề nghị đem máy bay thả bom của Mỹ ra xa chiến trường, che giấu
vững chắc, kĩ lưỡng, để có thể trả đũa (chủ thuyết này sẽ được Wolfowitz áp dụng
gần đây ở bán đảo Triều Tiên)
[17]Đặc
biệt là vợ ông, Roberta Wolfstetter, cũng là một sử gia quân sự có tiếng, tác
giả “Pearl Harbor: Warning and Decision,” một nghiên cứu về sự thất bại của
tình báo.
[19]Wolfowitz
và Shulsky cùng viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Wohlstetter, và cùng
ra trường năm 1972.
[20]Gary
Schmitt là giám đốc điều hành của The New American Century, một
nhóm chuyên gia ngoại giao nhiều ảnh hưởng, do William Kristol sáng lập.
[21]Trong
bài này, hai ông cho rằng nhân cách Leo Strauss có nhiều nét giống George
Smiley trong các truyện gián điệp của John le Carré!
[26]Ngoại
trưởng thời Bush cha. Sau khi Clinton lên, Shultz trở ra khu vực tư, làm một
thành viên hội đồng quản trị của đại công ty Bechtel.
[28]Tưởng
cũng nên nói thêm là ba người dính líu đến vụ chính quyền Bush làm áp lực CIA
(vụ uranium, v..v..) là Stephen Hadley (người của Cheney, phụ tá cho
Rice), Scooty Libby (chánh văn phòng của Cheney), và John Bolton.
[32] Vợ
của Kagan là Victoria Nuland, hiện là đại diện cho Dick Cheney trong Hội đồng
An ninh Quốc gia của Mỹ
[34] Trong
một cuộc phỏng vấn (xem bài của Emily Eakins trong New York Times),
Kagan nói: “It's very American for us to try to replicate our systems to the
best of our ability," và "We didn't go to war against Japan with the
intention of building a democracy there, but we couldn't imagine not building a
democracy once we went in.”
[35]Gần
đây, Fareed Zakaria (người Mỹ gốc Ấn Độ) cũng đã gián tiếp biện hộ cho lập trường
này. Zakaria cho rằng dân chủ là không quan trọng bằng một hệ thống luật
pháp bảo đảm quyển lợi của con nguời. Như vậy thì, tuy không nói ra,
Zakaria cho rằng hệ thống luật pháp này có thể được áp đặt trái nguyện vọng của
đa số. Tiếp tục suy diễn lí luận của ông ta: luật pháp là cần hơn dân chủ,
thì làm thuộc địa có khi còn tốt hơn độc lập. Lẽ dĩ nhiên
Zakaria chối là không (như D’Souza) có ý biện hộ cho chế độ thuộc địa, nhưng
trong mắt người đọc, không thể có cái cảm tưởng rằng theo ông ta, loại “thực
dân tốt” (như Anh đối với Ấn Độ) có khi đáng có hơn là “dân chủ xấu”. Phản ứng
của phe tân bảo thủ (cụ thể là Robert Kagan và Joshua Muravchik) đối với Fareed
Zakaria cũng là đáng để ý. Chẳng những không đồng ý với Zakaria, Kagan còn cho
rằng Zakaria “phản dân chủ”. Song có lẽ lí do chính khiến Kagan không thích
Zakaria là vì Zakaria chỉ trích dân chủ kiểu Mỹ và tán tụng EU. Một điều
nữa là, nếu theo luận điệu của Zakaria thì Mỹ không còn lí do gì để gieo” dân
chủ” đến các nuớc khác: chế độ “không dân chủ” ở các nuớc khác lắm lúc lại tốt
hơn! Tuy nhiên, David Frum lại hoàn toàn tán đồng Zakaria trong National
Review (June 1, 2003)
[36] “Paradise
and Power” đã được so sánh với Fukuyama (1989), Samuel Huntington (1993), và
George Kennan (1947).
[38]Cohen
cho là Rumsfeld có những đức tính này, song Bush cha không hội đủ (và đã không
chiến thắng hoàn toàn chiến tranh thứ nhất ở vùng Vịnh).
[40]Trong Ravelstein, Saul
Bellow mô tả cảnh hai nhân vật (phỏng theo) Wolfowitz and Bloom đối thoại về
Desert Storm như sau: "And it was essential to fit up-to-the-minute
decisions in the gulf war — made by obviously limited pols like Bush and
Baker" ... "into a true-as-possible picture of the forces at work —
into the political history of this civilization.”
[41] Tạm
dịch là “tính ưu tú”, theo đó giáo dục (nhất là giáo dục cao đẳng) không phải
dành cho mọi người mà chỉ cho thành phần ưu tú trong xã hội.
[42]Vợ
của Dick Cheney và cũng là một trí thức nổi tiếng, làm chủ tịch National
Endowment for the Humanities thời Reagan.
[44]Một
điều thú vị là một số người năng nổ nhất trong vấn đề này lại là những người mới
nhập cư, như D’Souza, Zakaria. Quả là “bảo hoàng hơn vua!”
[46]Cũng
có thể nói thêm là một số thành viên quan trọng của phe tân bảo thủ không là Do
Thái (William Bennett, Victor Davis Hanson, John Bolton).
[48]Đặc
biệt là Ramesh Ponnuru (cũng là một người Mỹ gốc Ấn), cộng tác viên của tuần
báo National Review.
Nguồn: tapchithoidai.org