A. NGUYÊN NHÂN CHÍNH
TRỊ:
1) Sự cai trị chuyên chế
của các vị vua Bourbon. Để dễ tiếp cận, chúng ta chia nguyên nhân Cách mạng Pháp
thành ba loại hình chính: kinh tế, chính trị và tư tưởng. Đương nhiên, sự phân
chia này có phần nào tương đối, vì không có loại nào hoàn toàn đặc biệt. Nguyên
nhân tư tưởng, chẳng hạn, và ở một số mức độ nào đó cũng là nguyên nhân chính
trị, phần lớn có nguồn gốc kinh tế. Tuy nhiên, vì mục đích đơn giản hóa tốt
nhất nên tách riêng để nghiên cứu.
Một trong những nguyên nhân chính trị quan trọng
đã được đề cập. Đó là sự cai trị chuyên chế của các ông vua Bourbon. Trong gần
200 năm, chính quyền ở Pháp phần lớn là một thể chế một người. Trong các thế kỷ
14, 15, và 16 một loại nghị viện gọi là Estates General, bao gồm các đại biểu
của giải tăng lữ, giải quý tộc, và thường dân, gặp nhau trong thời gian cách
quãng không đều. Nhưng sau 1614 không còn nhóm họp nữa. Từ đó về sau, nhà vua
là người duy nhất được ký thác nắm quyền quốc chủ. Trong nghĩa này, nhà vua là
nhà nước. Nhà vua có thể giải quyết mọi vấn đề theo ý độc đoán của mình, không
sợ bị buộc tội hoặc hạn chế lập pháp theo một hình thức bất kỳ. Không hề có vấn
đề tính hợp hiến hay quyền tự nhiên của thần dân khiến nhà vua phải băn khoăn.
Nhà vua tống giam người khác vào ngục không cần xét xử bằng sắc lệnh của hoàng
gia, hay lettres de cachet. Nhà vua ngăn chặn sự phê bình
chính sách bằng cách áp đặt chế độ kiểm duyệt gắt gao đối với báo chí hoặc bằng
cách hạn chế tự do ngôn luận. Tuy nhiên phải nói rõ sự chuyên chế của các vua
Pháp thường bị phóng đại quá mức. Trong thực tế, có sự can thiệp tương đối ít
của những người viết hay nói, nhất là trong triều vua Louis XV và Louis XVI.
Không có hành động nào của những nhà vua này kiềm chế sự hóm hỉnh châm chọc
chua cay của Voltaire hoặc tịch thu số sách cấp tiến của Rousseau[1]. Trái lại, sự công kích của những người này và các
triết gia khác làm gia tăng tính độc hại khi cuộc Cách mạng đang đến gần. Dĩ
nhiên, giải thích không phải là do chủ nghĩa tự do của Louis XV và người cháu
trai tối dạ của ông mà đúng ra là do thái độ thờ ơ trong việc chính sự.
2) Đặc điểm phi lý trong
chính quyền Pháp. Một nguyên nhân chính trị thứ hai của Cách mạng Pháp là đặc điểm
phi lý và không hệ thống của chính quyền. Sự rối loạn gần như có ở mọi bộ
ngành. Cấu trúc chính trị là kết quả của một sự phát triển lâu dài mà không đều
có từ thời Trung cổ. Thỉnh thoảng có sự thành lập của nhiều bộ ngành mới để đáp
ứng điều kiện cụ thể với sự thiếu quan tâm đối với bộ ngành hiện có. Do đó có
quá nhiều sự chồng chéo trong chức năng hoạt động, và nhiều viên chức vô tích
sự bòn rút tiền lương trong ngân khố nhà nước. Mâu thuẫn quyền thực thi pháp lý
giữa các ban ngành kình địch thường làm chậm trễ hành động trong khâu giải
quyết vấn đề, thậm chí kéo dài đến cả tháng. Gần như mọi nơi tính không hiệu
quả, lãng phí và hối lộ là điều thường gặp trong hệ thống. Thậm chí trong các
vấn đề tài chính cũng không khá hơn các ngành chính sách công khác. Không những
chính quyền không có ngân sách, các tài khoản hiếm khi được duy trì, không có
sự phân biệt rạch ròi giữa thu nhập của nhà vua và thu nhập của nhà nước. Tệ
hơn cả là việc thu thu thập quốc khố vô cùng bừa bãi. Thay vì bổ nhiệm viên
quan thu thuế chính thức, thì nhà vua sử dụng hệ thống La Mã cổ đại giao việc
thu thuế cho các công ty tư nhân và cá nhân, cho phép họ giữ lại lợi nhuận mà
họ moi ở dân quá mức quy định. Tình trạng vô tổ chức tương tự cũng phổ biến
trong lĩnh vực pháp lý và quá trình xét xử. Gần như tỉnh nào ở Pháp cũng có
luật riêng dựa theo lệ làng. Do đó một hành động có thể bị phạt như một tội ác
ở miền nam Pháp, nơi có nhiều ảnh hưởng của La Mã, có thể được miễn trừ ở trung
hoặc bắc Pháp. Thiếu sự thống nhất đặc biệt trơ tráo trong tầng lớp thương
nhân, họ thường tham gia các vụ giao dịch ở những nơi xa xôi trong nước.
3) Các cuộc chiến tranh
tốn kém của các vua Pháp. Có lẽ mang tính quyết định nhất trong các
nguyên nhân chính trị là những cuộc chiến đầy tai họa mà nước Pháp tham gia
trong thế kỷ 18. Cách mạng không phải do những cuộc tấn công tự phát nhắm vào
một hệ thống vẫn trong thời kỳ sung sức, cho dù một số chính sách của hệ thống
có đàn áp thế nào đi nữa. Trước một cuộc biến động chính trị xã hội (vốn là
cách chúng ta định nghĩa một cuộc cách mạng thật sự) xảy ra, dường như cần phải
có tình trạng gần sụp đổ trật tự hiện hành. Một số vấn đề phải xảy ra để tạo ra
tình trạng hỗn độn, để lộ sự bất lực và mục nát của chính phủ và tạo ra sự phẫn
nộ và sự gian khổ mà nhiều người trong số những người trước đây ủng hộ chế độ
cũ lúc này trở mặt chống lại. Không có biện pháp nào tốt hơn được nghĩ ra để
đạt được những mục đích này ngoài mâu thuẫn với các cường quốc nước ngoài dẫn
đến thất bại nhục nhã hoặc ít ra là sự đảo ngược nghiêm trọng. Do đó, hầu như
không thể nghĩ đến một cuộc cách mạng vĩ đại nào trong thời hiện đại ngoại trừ
những cuộc chiến kéo dài và thảm khốc[2]. Cuộc chiến đầu
tiên chuẩn bị cho Cách mạng Pháp là Chiến tranh bảy năm (1756-1763), dưới triều
vua Louis XV. Trong cuộc chiến này, Pháp bị rơi vào bẫy chống lại Anh và Phổ,
mặc dù có sự giúp đỡ của Áo và có lúc cũng được Nga giúp, nhưng kết cục hoàn
toàn thảm bại. Kết quả, người Pháp buộc phải từ bỏ gần như hầu hết thuộc địa
của mình. Lẽ đương nhiên là, trên cơ sở hoàn toàn có thể biện minh, sự đổ lỗi
cho tai họa này nhắm vào sự bất lực của chính phủ. Hậu quả của cuộc đại bại này
càng thêm tệ hại khi năm 1778 Louis XVI quyết định can thiệp vào Chiến tranh
giành độc lập của Mỹ. Mặc dù, nước Pháp lúc này đang ở phe thắng, nhưng chi phí
duy trì hạm đội và quân đội ở Tây Bán Cầu trong hơn 3 năm hầu như làm cho chính
phủ phải phá sản. Như chúng ta biết, chính tình trạng bất lực tài chính khi đối
mặt với gánh nặng nợ không thể trả nổi trực tiếp dẫn đến sự bất hòa giữa nhà
vua và tầng lớp trung lưu cũng như cách mạng bùng nổ tiếp theo sau.
Cách mạng Pháp không
phải là hệ quả của sự khổ sở, nghèo đói của dân chúng. Trở lại các nguyên nhân
kinh tế trong Cách mạng Pháp, trước tiên chúng ta phải ghi nhận rằng sự đau khổ
lan tràn trong đại bộ phận dân chúng không phải là nguyên nhân. Người ta cho
rằng Cách mạng xảy ra vì đa số người dân đang chết đói muốn có bánh mì, và do
hoàng hậu phát biểu, “Cứ để họ ăn bánh ngọt” là không đúng với thực tế lịch sử.
Mặc dù mất đế quốc thuộc địa, nhưng vào thời điểm cách mạng, nước Pháp vẫn còn
là một quốc gia giàu có, thịnh vượng. Trong hơn hai thế kỷ, giai cấp tư sản béo
bở do các khoản lợi nhuận thu được từ mở rộng mậu dịch, trong khi các giai cấp
lao động chỉ nhận được một vài mẩu bánh vụn còn sót lại trên bàn ăn của người
giàu. Quả thật, quan điểm của giới học giả hiện đại cho rằng nông dân Pháp
trong thế kỷ 18 khá hơn nông dân ở một nước châu Âu khác bất kỳ ngoại trừ nước
Anh[3]. Tình trạng của họ được cải thiện thật sự qua
bằng chứng số lượng nông nô giảm sút trong thế kỷ trước Cách mạng, và tỉ lệ
nông dân trở thành chủ đất ngày càng tăng. Chắc chắn vẫn còn tình trạng khổ sở
ở số cư dân sống trong các khu ổ chuột Paris, nhất là trong mùa đông khắc
nghiệt 1788-1789. Nhưng những người này không làm Cách mạng, họ tham gia cách
mạng sau khi người khác phát động. Cũng không nên quá nhấn mạnh rằng phong trào
của tầng lớp trung lưu đã tạo ra Cách mạng Pháp. Mục tiêu ban đầu của phong
trào này chủ yếu là vì lợi ích của giai cấp tư sản. Vì lãnh đạo giai cấp này
cần sự hỗ trợ của một tỉ lệ phần trăm dân chúng đông hơn, đương nhiên họ cũng
nhận biết sự than phiền của nông dân. Nhưng giai cấp vô sản nghèo gần như bị
phớt lờ.
B. NGUYÊN NHÂN KINH TẾ
THẬT SỰ.
1) Sự lớn mạnh của tầng
lớp trung lưu. Vậy nguyên nhân kinh tế thật sự là gì? Có lẽ chúng ta nên đặt ở
đầu danh sách sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu vươn đến vị trí quyền lực và
uy tín đặc biệt. Sự xuất hiện của một nhóm kinh tế mới hiểu được sự than phiền
và nhận biết được sức mạnh và tầm quan trọng của chính mình dường như là điều
kiện cần thiết để nổ ra một cuộc cách mạng bất kỳ. Tầng lớp này không bao giờ
bao gồm những cặn bã đáng thương của lòng nhân đạo - người khốn cùng, chết đói
và vô vọng. Trái lại, trong tầng lớp này luôn có cảm giác tự tin được truyền
cảm hứng từ sự thành công trước đó và được củng cố bằng suy nghĩ cho rằng nếu
cố gắng nữa sẽ mang lại nhiều cái lợi hơn trong tương lai. Trong những năm
thịnh vượng trước Cách mạng, giai cấp tư sản Pháp phát triển thành giai cấp
kinh tế thống trị. Ngoài đất đai ra, gần như toàn bộ cua cải sinh lợi đều nằm
trong tay giai cấp tư sản. Họ kiểm soát các tài nguyên mậu dịch, sản xuất và
tài chính. Ngoài ra, thành viên trong giai cấp này qua từng năm trông có vẻ ngày
càng giàu hơn. Năm 1789, ngoại thương của Pháp đạt đến mức 1.153.000.000 francs[4], một con số chưa từng có. Nhưng tác động chính của sự
thịnh vượng ngày càng tăng này làm cho giai cấp tư sản thêm bất đồng. Cho dù
một thương nhân, nhà sản xuất, chủ ngân hàng hoặc luật sư kiếm nhiều tiền cách
mấy đi nữa, thì họ vẫn không có đặc quyền chính trị. Hầu như không có thế lực
gì trong triều, không được hưởng danh dự cao nhất, và ngoại trừ trong sự tuyển
chọn trở thành quan chức địa phương cấp thấp, thì họ cũng không có quyền biểu
quyết. Ngoài ra, giới quý tộc nhàn rỗi, phù phiếm thường xem họ là kẻ hạ cấp.
Thỉnh thoảng, một số bá tước hoặc công tước hợm hĩnh đồng ý cho con trai mình
lấy con gái của một thị dân giàu có, nhưng thường có thông lệ ám chỉ cuộc hôn
nhân là “bón phân ở ruộng [mình]”. Khi tầng lớp trung lưu có nhiều thế lực và ý
thức tầm quan trọng của chính mình, thì họ phẫn nộ trước sự phân biệt đối xử
trong xã hội. Nhưng trên hết, do yêu cầu của giới lãnh đạo thương mại, tài
chính và công nghiệp muốn quyền lực chính trị phải tương xứng với vị thế kinh
tế của mình làm cho giai cấp tư sản trở thành một giai cấp cách mạng.
2) Phản đối chính sách
trọng thương. Yêu cầu muốn có quyền lực chính trị không chỉ là kết quả duy
nhất của sự thịnh vượng ngày càng tăng trong tầng lớp trung lưu, ngày càng có
nhiều lời kêu gọi bãi bỏ chính sách trọng thương. Trong thời gian đầu, giới
thương nhân và các nhà sản xuất hoan nghênh chính sách trọng thương vì tạo ra
nhiều thị trường mới và khuyến khích mậu dịch. Nhưng lúc bắt đầu Cách mạng
thương nghiệp, việc kinh doanh vẫn còn nhiều hạn chế. Khi thương mại và công
nghiệp phát triển mạnh trong những thế kỷ tiếp theo sau, giai cấp tư sản ngày
càng tự tin vào khả năng có thể tự mình đứng vững nếu kết hợp. Kết quả là ngày
càng có khuynh hướng xem sự điều tiết trong chính sách trọng thương là những
hạn chế kìm hãm. Thương nhân không thích độc quyền đặc biệt ban cấp cho các
công ty hưởng ân huệ và cản trở quyền họ được tự do mua bán trong các thị
trường nước ngoài. Các nhà sản xuất tức giận đối với luật kiểm soát tiền lương,
cố định giá, và hạn chế việc mua nguyên liệu bên ngoài nước Pháp và các thuộc
địa của Pháp. Đây chỉ là một số trong nhiều chính sách điều tiết gây khó chịu
do chính phủ thực thi, hoạt động theo hai mục đích chế độ gia trưởng và kinh tế
tự cung tự cấp. Có lẽ không có gì lạ khi tầng lớp trung lưu cho rằng tự do kinh
tế thuần túy là một thiên đường, cần phải giành lấy cho dù phải trả giá khủng
khiếp. Bằng mọi giá, gần như chắc chắn rằng mong muốn của giới thương nhân muốn
bãi bỏ chính sách trọng thương là một trong nhiều nguyên nhân chính dẫn đến
Cách mạng Pháp.
3) Đặc quyền còn tồn
tại:
Đẳng cấp thứ nhất. Một yếu tố thứ ba,
chủ yếu mang đặc điểm kinh tế, góp phần không nhỏ trong việc nổ ra cách mạng
Pháp là hệ thống đặc quyền bám rễ trong xã hội của chế độ cũ. Trước Cách mạng,
dân chúng Pháp chia thành ba giải cấp hoặc đẳng cấp: đảng cấp thứ nhất gồm giáo
sĩ, thứ hai là quý tộc và thứ ba là thường dân. Đẳng cấp thứ nhất thật sự chỉ
gồm 2 nhóm khác nhau: giáo sĩ cấp cao gồm hồng y giáo chủ, tổng giám mục, giám
mục, và cha trưởng tu viện; và giáo sĩ cấp thấp hoặc giám mục giáo xứ. Mặc dù
tất cả những người phụng sự cho Giáo hội này được cho là thành viên của một
nhóm đặc quyền, nhưng thật ra giữa hai nhóm có một khoảng cách đáng kể. Giáo sĩ
cấp thấp thường nghèo cũng như giáo dân thân phận hèn mọn nhất, và nói chung
rất đồng cảm với thường dân. Trái lại, giáo sĩ cấp cao sống ở những nơi đất đai
màu mỡ nhất, thường giao du với nhà vua và triều thần. Chưa đến 1% dân số,
nhưng họ sở hữu khoảng 20% diện tích đất, chưa kể đến số của cải khổng lồ dưới
dạng lâu đài, tác phẩm hội họa, vàng bạc châu báu. Một số giám mục và tổng giám
mục có thu nhập lên đến hàng trăm ngàn francs. Đương nhiên, hầu hết số giáo sĩ
cấp cao giàu có này ít quan tâm đến chuyện đạo. Một số tham gia chính trị, giúp
nhà vua duy trì sự cai trị chuyên chế. Những người khác cờ bạc hoặc dành thời
gian, sức lực của mình cho các thói hư tật xấu gây nhiều tai tiếng. Mặc dù không
thể cho rằng tất cả đều sa đọa, và thờ ơ chuyện đạo, nhưng khá nhiều người tham
nhũng, độc đoán, hống hách và ác ý làm cho nhiều người nghĩ rằng nhà thờ đã bị
mục nát tận xương tuy và những người lãnh đạo giáo hội phạm tội cướp bóc người
dân và lãng phí tài nguyên quốc gia.
Đẳng cấp thứ hai. Đẳng cấp thứ hai,
gồm giới quý tộc thế tục, cũng chia thành hai đẳng cấp phụ. Đầu tiên là quý
tộc cầm gươm, danh hiệu này có từ các bá chủ phong kiến thời Trung cổ.
Dưới họ là quý tộc áo thụng, có tổ tiên nắm giữ chức vụ xét xử
đối với một người có danh hiệu quý tộc; “áo thụng” là áo của quan tòa hoặc thẩm
phán. Mặc dù thường bị đạo hữu có dòng dõi lâu đời hơn xem thường, nhưng quý
tộc áo thụng là những thành viên cấp tiên, có học nhất trong giới thượng lưu.
Một số trở thành những nhà cải cách nồng nhiệt, trong khi một số khác đóng vai
trò nổi bật trong cuộc Cách mạng. Trong số họ cũng có nhà phê bình nổi tiếng
như Montesquieu, Mirabeau và Lafayette. Chính số quý tộc cầm gươm cấu thành một
giới đặc quyền trong đẳng cấp thứ hai. Cùng với giáo sĩ cấp cao, họ độc quyền
trong các chức vụ lãnh đạo trong chính phủ, công việc thường giao cho thuộc
cấp. Trong khi nắm trong tay số điền trang bao la, nhưng thường xuyên sống ở
Versailles và thường dựa vào quản gia hoặc chấp hành viên tòa án để moi tiền ở
nông dân cung phụng nhu cầu tiêu xài xa xỉ của mình. Thật ra chỉ có một ít
người lười biếng, vô tích sự, sinh ra đã là quyền quý, thực hiện một chức năng
có ích cho xã hội. Họ hoạt động như thể nghĩ rằng trách nhiệm duy nhất của mình
đối với xã hội là phải nịnh hót vua, tận dụng sự trọng đãi của cuộc sống cung
đình, và đôi khi bảo trợ cho nghệ thuật cổ điển đã suy tàn. Đúng ra, hầu hết
trong số họ là những vật ký sinh vô giá trị tiêu thụ của cải mà người khác phải
lao động vất vả mới có.
4) Hệ thống đánh thuế
không công bằng. Trong số những đặc quyền đáng giá nhất của giới tăng lữ và
quý tộc là đặc quyền đánh thuế. Một hệ thống đánh thuế không công bằng có thể
được xem là nguyên nhân kinh tế thứ tư của Cách mạng Pháp. Thuế ở Pháp, có từ
trước 1789 rất lâu, gồm hai loại chính. Thứ nhất là thuế trực tiếp, gồm taille, hoặc
thuế đánh vào tài sản thật và tài sản cá nhân, capitation, hoặc
thuế thân, và vingtième, hoặc thuế thu nhập, lúc đầu ở mức 5%,
nhưng vào thế kỷ 18 thường ở mức 10 hoặc 11%. Thuế gián tiếp, hoặc thuế cộng
vào giá hàng hóa và do người tiêu thụ sau cùng trả, chủ yếu là thuế đánh vào
hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài và thuế đánh vào hàng hóa vận chuyển từ tỉnh
này sang tỉnh khác trong nước Pháp. Ngoài ra, còn có gabelle, hoặc
thuế muối, có thể xem là một loại thuế gián tiếp. Đôi lúc, sản xuất muối là độc
quyền của nhà nước, mỗi cá nhân phải mua ít nhất mỗi năm 7 cân Anh muối của
chính phủ. Thuế cao cộng vào giá thành sản xuất, kết quả người tiêu dùng thường
mua muối với giá cao gấp 50 đến 60 lần giá trị thật. Trong khi vô cùng phiền
toái, thuế gián tiếp nói chung không được tính công bằng. Dĩ nhiên, đối với một
người bất kỳ, bất kể địa vị xã hội, khó tránh được việc đóng thuế. Tuy nhiên,
trong trường hợp của hầu hết các loại thuế trực tiếp, tình hình diễn ra ngược
lại đối với giới giáo sĩ, do quy định từ thời trung cổ rằng nhà nước không được
đánh thuế tài sản của Giáo hội, được miễn cả taille lẫn vingtième. Quý
tộc, nhất là quý tộc cấp cao, thường gây áp lực với nhà vua để được miễn tất cả
các khoản thuế trực tiếp. Do đó, nhiệm vụ chính cung cấp ngân quỹ cho chính phủ
chuyển cho thường dân, hoặc thành viên trong đẳng cấp thứ ba. Do một ít thợ thủ
công và người lao động có thể bị đánh thuế, nên gánh nặng chính thuế về nông
dân và giai cấp tư sản.
5) Tàn tích chế độ phong
kiến còn sót lại. Nguyên nhân kinh tế sau cùng của Cách mạng là tàn tích chế
độ phong kiến còn sót lại ở Pháp đến cuối 1789. Trong khi chế độ phong kiến đã
bị xóa sổ từ lâu nhưng tàn tích vẫn tồn tại, được dùng như công cụ thuận tiện
để duy trì quyền lực của nhà vua và vị thế đặc quyền của giới quý tộc. Ở một số
vùng thôn quê lạc hậu, vẫn còn tình trạng nông nô, nhưng sự phổ biến của thể
chế này không phải là phóng đại. Số lượng nông dân làm nông nô theo đánh giá ở
mức cao nhất là 1.500.000, trong số toàn bộ dân cư nông thôn ít nhất là
15.000.000. Đa số nông dân là người tự do. Một tỉ lệ đáng kể sở hữu đất mình
đang canh tác. Số khác là tá điền hoặc lao động làm thuê, nhưng tỉ lệ phần trăm
lớn nhất là người lĩnh canh, canh tác trên đất của giới quý tộc để hưởng tỉ lệ
hoa màu khi thu hoạch, thường từ 1/3 đến 1/2. Tuy nhiên, thậm chí những nông
dân này hoàn toàn tự do nhưng vẫn thực hiện nghĩa vụ có từ thời phong kiến. Một
trong những nghĩa vụ đáng ghét nhất là phải nộp tô hàng năm cho lãnh chúa trước
đây kiểm soát mảnh đất này. Nghĩa vụ khác là biếu giới quý tộc ở địa phương một
số tiền nhận được khi bán được đất. Ngoài ra, nông dân phải đóng góp banalités, hoặc
phí được cho là sử dụng nhiều phương tiện khác nhau của giới quý tộc. Trong
thời Trung cổ, phải đóng banalités vì đã sử dụng nhà máy xay
bột, máy ép nho và lò nướng của lãnh chúa. Vào thế kỷ 18, mặc dù có nhiều nông
dân tự mình mua sắm được dụng cụ này và không sử dụng máy của lãnh chúa nữa
nhưng vẫn phải đóng banalités như lúc trước.
Corvée và đặc quyền săn
bắn của giới quý tộc. Có lẽ điều gây bực tức nhất trong tất cả tàn tỉnh chế độ
phong kiến là Corvée và đặc quyền săn bắn của giới quý tộc. Corvée, trước đây
là yêu cầu lao động trên đất lãnh chúa, và làm cầu đường trong trang viên thái
ấp, lúc này là trách nhiệm của chính phủ. Mỗi năm, nông dân buộc phải gác lại
chuyện riêng của mình để làm đường cho chính phủ trong nhiều tuần. Các giai cấp
khác được miễn thi hành nghĩa vụ này. Thậm chí sự phiền toái nhiều hơn mà người
dân nông thôn phải chịu đựng là đặc quyền săn bắn của giới quý tộc. Từ thời xa
xưa, quyền được tự do thay đổi hướng săn đuổi được cho là đặc trưng của giới
quý tộc. Người sinh ra trong dòng dõi quyền quý có quyền tự do vô hạn trong
việc theo đuổi thú tiêu khiển đầy phấn khích này ở bất kỳ nơi nào mình muốn. Lẽ
đương nhiên, không có những chuyện vớ vẩn như quyền của nông dân đối với tài
sản cản trở cuộc săn bắn. Ở một số nơi, nông dân bị cấm làm cỏ hoặc gặt lúa
trong mùa sinh sản để không làm kinh động ổ gà gô. Thỏ, quạ và cáo cũng không
được giết cho dù chúng phá hoại mùa màng hoặc ăn gà vịt nuôi và gia súc nhỏ đi
nữa. Ngoài ra, nông dân được cho là phải chấp nhận để cho ngựa của thợ săn quý
tộc do vô tình giẫm phải trên ruộng lúa vào bất kỳ thời điểm nào.
C. NGUYÊN NHÂN TƯ TƯỞNG:
Học thuyết tự do
và dân chủ. Tất cả biến động quan trọng trong xã hội ở thời hiện đại đều phát
triển từ cơ sở nguyên nhân tư tưởng. Trước khi một phong trào đạt đến mức độ
của một cuội cách mạng thật sự, nhất thiết phải được một tập hợp quan điểm ủng
hộ, không những cung cấp mốt chương trình hành động mà còn đưa ra một tầm nhìn
thắng lợi của trật tự mới sẽ đạt được. Ở mức độ rộng, những quan điểm này là
kết quả của tham vọng chính trị và kinh tế, nhưng có lúc mang ý nghĩa của các
yếu tố độc lập. Nguyên nhân phụ và phái sinh ban đầu sau cùng trở thành nguyên
nhân chính. Sau cùng, việc thực hiện quan điểm được chấp nhận như là phương
tiện và thu hút lòng trung thành của người khác giống như phúc âm của một tôn
giáo mới. Nguyên nhân tư tưởng trong Cách mạng Pháp chủ yếu là kết quả của Thời
kỳ Khai sáng. Phong trào này tạo ra hai học thuyết chính trị hấp dẫn, ảnh hưởng
sâu rộng chưa từng có. Thứ nhất là thuyết tự do của các nhà văn như Locke và
Montesquieu, và thứ hai là thuyết dân chủ của Rousseau. Trong khi cả hai về cơ
bản trái ngược nhau, thì lại có chung nhiều thành phần. Cả hai dựa vào giả định
cho rằng nhà nước là một điều xấu cần thiết và chính phủ dựa vào cơ sở giao
kèo. Mỗi thuyết đều có học thuyết chủ quyền nhân dân, mặc dù cách giải thích
trái ngược nhau. Và sau cùng cả hai tán thành quyền cơ bản của cá nhân.
Thuyết chính trị tự do
của John Locke. Cha đẻ của thuyết tự do trong thế kỷ 17 và 18 là John Locke
(1632-1704), mặc dù một số thuyết được cho là lấy từ tác phẩm của John Milton
(1608-1674), James Harrington (1611-1677) và Algernon Sydney (1622-1683). Triết
học chính trị của Locke chủ yếu nằm trong Second Treatise of Civil
Government, do ông công bố năm 1690. Trong chuyên luận này ông phát
triển một lý thuyết chính phủ hạn chế được sử dụng để biện minh cho một hệ
thống cai trị theo nghị viện mới được thiết lập ở Anh sau Cách mạng vinh quang.
Ông cho rằng ban đầu mọi người sống trong nhà nước tự nhiên trong đó tự do và
bình đẳng tuyệt đối chiếm ưu thế, và không có chính phủ nào thuộc loại khác.
Luật duy nhất là luật tự nhiên, mỗi cá nhân tự mình thực thi để bảo vệ quyền tự
nhiên đối với sinh mạng, tự do và tài sản. Tuy nhiên, nó tồn tại không lâu, cho
đến khi con người bắt đầu nhận thức rằng sự bất tiện của nhà nước tự nhiên
nhiều hơn thuận tiện. Mỗi cá nhân cố gắng thực thi quyền của riêng mình, thì sự
bất an và hỗn độn là kết quả chắc chắn xảy ra. Do đó, con người nhất trí với
nhau trong việc thành lập một xã hội dân sự, thiết lập một chính phủ, và nhường
một số quyền lực cho chính phủ. Nhưng họ không làm cho chính phủ trở nên chuyên
chế. Quyền lực duy nhất mà họ ám chỉ là quyền hành pháp đối với luật tự nhiên.
Vì nhà nước không gì khác hơn quyền lực chung của tất cả thành viên trong xã
hội, nên thẩm quyền của nhà nước “không gì khác hơn thẩm quyền của những người
đã sống trong nhà nước tự nhiên trước khi họ bước vào xã hội và nhường thẩm
quyền này cho cộng đồng”[5]. Tất cả quyền lực không phải
giao nộp hoàn toàn mà được giữ lại dành riêng cho chính nhân dân. Nếu chính phủ
vượt quá hoặc lạm dụng thẩm quyền được nêu rõ ràng trong giao kèo chính trị,
thì nhà nước sẽ trở thành chuyên chế, khi ấy nhân dân có quyền giải tán hoặc
nổi loạn và lật đổ.
Lên án chính thể chuyên
chế của Locke. Locke lên án chính thể chuyên chế trong mọi hình thức. Ông
lên án chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng ông phê phán quyền tuyệt đối của
quốc hội không gay gắt bằng. Mặc dù ông bênh vực uy quyền tối cao của ngành lập
pháp, với ngành hành pháp chủ yếu là một cơ quan của lập pháp, tuy nhiên ông
không cho đại biểu của dân có quyền lực vô hạn. Lập luận rằng chính phủ được
hình thành ở những người muốn bảo vệ tài sản (điều ông thường định nghĩa theo
nghĩa bao hàm sinh mệnh, tự do và động sản)[6] ông
phủ nhận uy quyền của một cơ quan chính trị bất kỳ xâm phạm quyền tự nhiên của
một cá nhân. Luật tự nhiên, thể hiện những quyền này, là sự giới hạn tự động
đối với tất cả các ngành trong chính phủ. Cho dù đa số đại biểu của dân nhiều
cách mấy đi nữa yêu cầu hạn chế tự do ngôn luận hoặc tịch thu và tái phân phối
tài sản, thì không có hành động nào như thế mang tính hợp pháp. Nếu được tiến
hành một cách phi pháp thì sẽ biện minh cho biện pháp phản đối hiệu quả ở đa số
công dân. Locke quan tâm nhiều đến việc bảo vệ tự do cá nhân hơn vấn đề thúc
đẩy tính ổn định hoặc tiến bộ xã hội. Nếu phải chọn, có lẽ ông thích những cái
xấu của tình trạng vô chính phủ hơn là những cái xấu của chế độ chuyên quyền
dưới bất cứ hình thức nào.
Ảnh hưởng của Locke. Ảnh hưởng của một
vài triết gia chính trị trong lịch sử thế giới không nhiều hơn ảnh hưởng của
Locke. Không những thuyết của ông về quyền tự nhiên, chính phủ hạn chế, và
quyền chống đối chế độ chuyên chế trở thành một nguồn quan trọng trong thuyết
Cách mạng Pháp mà còn được nhiều người ở Mỹ chấp nhận. Tư tưởng của ông cung
cấp hầu hết nền tảng lý thuyết cho cuộc nổi dậy của thuộc địa chống lại sự đàn
áp của Anh, được phản ánh rõ nét trong Tuyên ngôn độc lập với toàn bộ các đoạn
văn trong văn kiện ấy gần như sao chép từ Second Treatise of Civil Government. Nguyên
lý Locke cũng có nhiều ảnh hưởng trong việc soạn thảo Hiến pháp và nhất là lập
luận của Hamilton, Madison và Jay đưa ra trong Federalist thúc
giục sự phê chuẩn. Sau này, khi chính phủ mới ban hành luật Ngoại kiều và nổi
loạn, chủ yếu dựa vào thuyết của Locke, do Madison và Jefferson đưa ra trong
các Giải pháp Virginia và Kentucky yêu cầu một số Bang chống lại sự tiếm quyền.
Thuyết chính trị tự do
của Voltaire. Ở Pháp, đại biểu nổi bật nhất trong thuyết chính trị tự do
là Voltaire (1694-1778) và nam tước Montesquieu (1689-1755). Như đã nêu,
Voltaire xem đạo Cơ Đốc chính thống là kẻ thù tệ hại nhất của nhân loại, nhưng
ông cũng khinh miệt chính phủ chuyên chế. Trong thời gian sống lưu vong ở Anh,
ông nghiên cứu tác phẩm của Locke, rất ấn tượng trước những khẳng định quả
quyết về tự do cá nhân. Trở về Pháp trong khi vẫn còn khá trẻ, ông dành hết
phần đời còn lại của mình để đấu tranh cho tự do tư tưởng, tín ngưỡng và chính
trị. Giống với Locke, ông xem chính phủ là một điều xấu cần thiết, phải giới
hạn quyền lực ở mức thực thi quyền tự nhiên. Ông cho rằng mọi người khi sinh ra
đều có quyền bình đẳng về tự do, tài sản và sự bảo vệ của luật pháp. Nhưng
Voltaire không phải là một người dân chủ. Ông có khuynh hướng nghĩ về một hình
thức chính phủ lý tưởng như một chế độ quân chủ khai sáng hoặc một nền cộng hòa
do tầng lớp trung lưu chi phối. Gần cuối đời ông vẫn còn ít nhiều sợ quần
chúng. Thậm chí ông sợ rằng sự chỉ trích của mình đối với tôn giáo có tổ chức
sẽ kích động vô số hành động bạo lực. Người ta kể rằng sau khi ông bị một số
nông dân vào nhà cướp, ông đi lễ trong một mùa liên tục để thuyết phục những
người quê mùa nghĩ rằng ông vẫn tuyệt đối tin ở Chúa.
Ảnh hưởng của
Montesquieu. Một nhà tư tưởng chính trị sâu sắc và có hệ thống hơn
Voltaire là người cùng thời với ông nhưng lớn tuổi hơn, nam tước de
Montesquieu. Mặc dù, như Voltaire, là học trò của Locke và cũng là người thán
phục các thể chế ở Anh, Montesquieu là một nhân vật độc đáo trong số nhiều
triết gia chính trị trong thế kỷ 18. Trong Spirit of Laws (Tinh
thần của luật pháp) nổi tiếng, ông mang đến nhiều phương pháp và khái niệm mới
trong thuyết nhà nước. Thay vì cố gắng tìm một ngành khoa học cai trị bằng cách
suy luận thuần túy, ông áp dụng phương pháp của Aristotle nghiên cứu hệ thống chính
trị thực tế được cho là đã hoạt động trước đây. Ông thường xem nhẹ quan điểm
của Locke về quyền tự nhiên và nguồn gốc giao kèo của nhà nước, và cho rằng ý
nghĩa của luật tự nhiên phải được tìm thấy trong thực tế lịch sử. Ngoài ra, ông
phủ nhận rằng không có hình thức chính phủ nào hoàn hảo thích hợp cho mọi người
dân trong mọi hoàn cảnh. Trái lại, ông cho rằng các thể chế chính trị muốn
thành công phải phù hợp với điều kiện cụ thể và trình độ tiến bộ xã hội của
quốc gia mà chúng phục vụ. Vì thế ông phát biểu rằng chế độ chuyên quyền thích
hợp nhất với các nước có lãnh thổ rộng, chế độ quân chủ hạn chế thích hợp với
quốc gia diện tích vừa, và chính phủ cộng hòa thích hợp có diện tích nhỏ. Đối
với quê hương ông, nước Pháp, ông nghĩ rằng chế độ quân chủ hạn chế là hình
thức thích hợp nhất, vì ông cho rằng nước Pháp quá lớn không thể xây dựng chính
thể cộng hòa trừ phi dựa vào một số loại kế hoạch liên bang.
Phân chia quyền lực,
kiểm tra và cân bằng. Montesquieu đặc biệt nổi tiếng với thuyết phân chia quyền lực.
Ông công khai thú nhận rằng khuynh hướng tự nhiên của con người là phải lạm
dụng quyền lực người khác giao phó cho mình, do đó mỗi chính phủ, cho dù thuộc
hình thức nào đi nữa, cũng có khả năng thoái hóa thành chế độ chuyên quyền. Để
tránh kết quả như thế, ông lập luận rằng uy quyền của chính phủ nên được phân
nhỏ thành 3 phần tự nhiên lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bất kỳ lúc nào hơn
hai ngành này được phép kết hợp trong cùng một sự kiểm soát, thì ông tuyên bố
tự do đã đến hồi kết. Phương pháp hiệu quả duy nhất để tránh sự chuyên chế là
làm cho mỗi ngành trong chính phủ có khả năng hành động kiểm tra đối với hai
ngành còn lại. Chẳng hạn, ngành hành pháp phải có quyền lực bằng cách biểu
quyết hoặc kiềm chế sự vĩ phạm của ngành lập pháp. Đến lượt ngành lập pháp có
thẩm quyền buộc tội để kiềm chế ngành hành pháp. Và sau cùng, có một bộ máy tư
pháp độc lập được quyền bảo vệ quyền cá nhân chống lại hành động tùy tiện của
ngành lập pháp hoặc hành pháp. Dĩ nhiên, kế hoạch ưa thích này của Montesquieu
không phải nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho chế độ dân chủ. Thật ra,
mục đích của kế hoạch này phần lớn trái lại: ngăn uy quyền tuyệt đối của đa số,
được thể hiện như thông thường thông qua đại biểu của dân trong ngành lập pháp.
Đây là minh họa điển hình của thái độ không ưa mà giai cấp tư sản thường dành
cho chính phủ chuyên chế trong mọi hình thức, cho dù một vài hoặc nhiều người.
Nguyên tắc phân chia quyền lực của Montesquieu không phải là không gây được ảnh
hưởng. Nguyên tắc này được kết hợp trong các chính phủ đầu tiên được thành lập
trong Cách mạng Pháp, và được thay đổi rất ít trong Hiến pháp nước Mỹ[7].
Thuyết chính trị dân
chủ. Quan
điểm thứ hai trong số các quan điểm chính trị có vị trí quan trọng trong cơ sở
tư tưởng của Cách mạng Pháp là quan điểm dân chủ. Trái với chủ nghĩa tự do, chế
độ dân chủ ít quan tâm đến việc bảo vệ quyền cá nhân như thực thi sự cai trị
của dân. Do đó, trong ý nghĩa lịch sử ban đầu, chế độ dân chủ không thể tách
rời với quan điểm chủ quyền thuộc về quần chúng. Điều mà đa số công dân mong
muốn là luật uy quyền cao nhất đối với đất đai, vì tiếng nói của nhân dân là
tiếng nói của Chúa. Người ta thường cho rằng trong chế độ dân chủ thiểu số sẽ
tiếp tục được hưởng trọn quyền tự do phát biểu tư tưởng, nhưng sự giả định này
không hẳn đúng. Quyền cao nhất duy nhất của thiểu số là quyền trở thành đa số.
Với điều kiện là một nhóm cụ thể vẫn còn là thiểu số thì thành viên trong nhóm
không thể yêu cầu quyền hành động cá nhân bất kỳ vượt khỏi tầm kiểm soát của
nhà nước. Nhiều đại biểu của chế độ dân chủ trong thế hệ hiện nay phủ nhận rằng
phát biểu này là đúng và sẽ kiên quyết cho rằng sự quyết tâm của họ đối với với
tự do ngôn luận và tự do báo chí là quyền mà chính phủ không thể vi phạm hợp pháp
được. Nhưng thái độ này xuất phát từ thực tế quan điểm hiện hành thường kết hợp
với chủ nghĩa tự do. Quả thật, chế độ dân chủ và chủ nghĩa tự do lúc này được
sử dụng như thể giống hệt nhau về nghĩa. Tuy nhiên, ban đầu là hai quan điểm
hoàn toàn khác biệt. Chế độ dân chủ trong lịch sử cũng bao gồm quan điểm sự
bình đẳng tự nhiên của mọi người, trái với đặc quyền cha truyền con nối, và
niềm tin không đổi vào sự sáng suốt, đức hạnh của quần chúng.
Rousseau, người sáng lập
chế độ dân chủ. Người sáng lập chế độ dân chủ theo mô tả trên là Jean – Jacques
Rousseau (1712- 1778). Vì Rousseau cũng là cha đẻ của chủ nghĩa lãng mạn, nên
chúng ta nghĩ rằng tình cảm sẽ ảnh hưởng đến đánh giá chính trị của ông. Ngoài
ra, tính nhất quán không phải lúc nào cũng là đặc điểm nổi bật trong lập luận
của ông. Có ý nghĩa quan trọng nhất trong các tác phẩm của ông về thuyết chính
trị là Social Contract và Discourse on the Origin of Inequality. Trong
cả hai tác phẩm này, ông ủng hộ luận điểm phổ biến cho rằng con người lúc đầu
sống trong nhà nước tự nhiên. Nhưng trái với Locke, ông cho rằng nhà nước tự
nhiên này là một thiên đường thật sự. Không ai chịu đựng sự bất tiện khi duy
trì quyền của riêng mình chống lại người khác. Quả thật, có rất ít khả năng xảy
ra xung đột trong mọi hình thức, vì tài sản riêng không tồn tại trong thời gian
dài, và mọi người đều bình đẳng như hàng xóm. Tuy nhiên, sau cùng, điều xấu
phát sinh, chủ yếu là do một số người dời cọc cắm ở lô đất của mình và tự nhủ,
“phần đất này là của tôi”. Chính hành vi như thế phát triển nhiều mức độ không
công bằng khác nhau, do đó, “thủ đoạn lừa gạt”, “phô trương xấc láo” và “tham
vọng khôn cùng” ít lâu sau chi phối mối quan hệ ở con người[8].
Hy vọng an toàn duy nhất lúc này đối với con người là phải thiết lập một xã hội
dân sự và giao nộp tất cả quyền của mình cho cộng đồng. Họ làm điều này bằng
giao kèo xã hội, trong đó mỗi cá nhân đồng ý với toàn bộ tập hợp cá nhân phục
tùng nguyện vọng, ý kiến của đa số. Vì thế nhà nước ra đời.
Quan niệm của Rousseau
về quyền tối thượng. Rousseau phát triển một quan niệm về quyền tối thượng khác
với quan niệm của những người theo chủ nghĩa tự do. Trong khi Locke và môn đệ
cho rằng chỉ một phần nhỏ quyền lực tối cao nhường cho nhà nước thì phần còn
lại phải do nhân dân nắm giữ, Rousseau quả quyết quyền tối thượng không thể
phân chia, và tất cả chủ quyền nay được giao cho cộng đồng khi thành lập xã hội
dân sự.
Ông nhất mực cho rằng mỗi cá nhân trong khi trở
thành một đối tác trong giao kèo xã hội từ bỏ tất cả quyền của mình cho người
khác và đồng ý hoàn toàn quy phục ý kiến chung của tập thể. Tiếp đến quyền lực
tối cao của nhà nước không hề bị giới hạn. Ý kiến chung của tập thể, được thể
hiện qua sự biểu quyết của đa số, là phán quyết sau cùng. Những gì đa số quyết
định luôn luôn đúng theo nghĩa chính trị thì hoàn toàn ràng buộc mọi công dân.
Nhà nước, trong thông lệ thực tế nghĩa là đa số, theo luật định có quyền tuyệt
đối. Nhưng theo Rousseau, điều này không có nghĩa là tự do cá nhân hoàn toàn bị
xóa bỏ. Trái lại, khuất phục trước nhà nước có tác động thúc đẩy tự do thật sự.
Cá nhân khi nhường quyền của mình cho cộng đồng đơn thuần chỉ là sự trao đổi sự
tự do của động vật trong nhà nước tự nhiên với sự tự do thật sự của sinh vật có
lý trí trong việc chấp hành luật pháp. Ép buộc cá nhân tuân thủ ý kiến tập thể
chỉ đơn thuần “buộc cá nhân ấy tự do”.
Cũng phải hiểu rằng khi Rousseau ám chỉ nhà nước
như một cộng đồng tổ chức chính trị, có chức năng tối cao trong việc thể hiện ý
kiến của tập thể. Uy quyền của nhà nước không thể được đại diện, nhưng phải
được thể hiện trực tiếp thông qua việc chính nhân dân ban hành các luật cơ bản.
Mặt khác, chính phủ đơn thuần chỉ là cơ quan hành pháp của nhà nước. Chức năng
của chính phủ không phải là phát biểu có hệ thống ý kiến tập thể mà chỉ đơn
thuần là thực hiện ý kiến này. Ngoài ra, cộng đồng có thể thành lập chính phủ
hoặc xóa sổ “bất kỳ khi nào mình thích”.
Ảnh hưởng của Rousseau. Ảnh hưởng thuyết
chính trị của Rousseau không hề phóng đại chút nào. Quan điểm sự bình đẳng và
quyền tối cao của đa số là những cảm hứng chính cho giai đoạn thứ hai trong
Cách mạng Pháp, đặc biệt đối với những người cấp tiến giáo điều như Robespierre
cùng với môn đệ cuồng nhiệt nhất của mình. Nhưng ảnh hưởng của Rousseau không
chỉ giới hạn trong nước. Một số thuyết của ông phát triển sang Mỹ và được chấp
nhận trong một số nguyên tắc Chế độ dân chủ Jackson - dĩ nhiên, mặc dù có lẽ
cực đoan khi những người ủng hộ Jackson chưa hề nghe tên Rousseau. Những người
theo chủ nghĩa duy tâm lãng mạn Đức, vào đầu thế kỷ 19, ca ngợi nhà nước như
“Chúa trong lịch sử” có vẻ cũng vay mượn một số quan điểm triết học trong The
Social Contract[9]. Từ học thuyết của Rousseau nhà nước
có quyền lực vô hạn hợp pháp, và tự do thật sự bao gồm sự quy phục ý kiến tập
thể, đây không phải là bước quá khó khăn để ca ngợi nhà nước như một mục tiêu
tôn thờ và làm cho cá nhân thu nhỏ thành một bánh răng đơn thuần trong guồng
máy chính trị[10]. Cho dù Rousseau có quan điểm rằng đa
số bị kiềm chế đạo đức hạn chế và nhất mực dựa vào quyền của nhân dân để ''hạ
bệ'' chính phủ, thì những giới hạn này chưa đủ làm mất tác dụng khi ông nhấn
mạnh đến quyến lực cao nhất tuyệt đối.
Ảnh hưởng của thuyết
kinh tế mới. Như một nguyên nhân tư tưởng sau cùng làm bùng nổ Cách mạng
Pháp, ảnh hưởng của thuyết kinh tế mới ít nhất cũng dành cho sự chú ý ngẫu
nhiên. Trong nửa sau thế kỷ 18, có nhiều nhà văn lỗi lạc bắt đầu công kích
những giả định truyền thống cho rằng nhà nước kiểm soát sản xuất và mậu dịch.
Mục tiêu đặc biệt của sự chỉ trích nhắm vào chính sách trọng thương. Ở mức độ
rộng, kinh tế học mới dựa trên những quan niệm cơ bản trong Thời kỳ Khai sáng,
đặc biệt là tư tưởng vũ trụ theo thuyết cơ giới do những định luật bất biến chi
phối. Khái niệm này lúc bấy giờ thịnh hành cho rằng lĩnh vực sản xuất và phân
phối của cái theo luật không thể cưỡng lại cũng như định luật vật lý và thiên
văn. Thuyết kinh tế mới cũng được xem là trung hòa chủ nghĩa tự do chính trị.
Mục đích chính của cả hai hoàn toàn như nhau: giảm quyền lực của chính phủ
xuống mức tối thiểu thích hợp với sự an toàn và bảo vệ cá nhân bằng những biện
pháp tự do càng nhiều càng tốt trong việc theo đuổi phương sách của mình.
Học thuyết của phái
Trọng nông. Người đầu tiên trong số các chiến sĩ hàng đầu có thái độ xét
lại các vấn đề kinh tế là thành viên trong một nhóm gọi là phái Trọng nông. Nổi
bật nhất là François Quesnay (1694-1774), tác giả của Tableau
Economique, kinh thánh của phái Trọng nông; Dupont de Nemours
(1739-1817), tổ tiên của dòng họ Dupont ở Mỹ; và Robert Jacques Turgot
(1727-1781), bộ trưởng tài chính trong thời gian ngắn dưới triều vua Louis XVI[11]. Từ đầu, phái Trọng nông lên án học thuyết của chính
sách trọng thương. Một trong những mục đích chính của họ là việc chứng minh dự
án nông nghiệp, khai khoáng và đánh bắt cá trong thiên nhiên đối với quốc gia
còn quan trọng hơn thương mại. Thiên nhiên theo họ là nguồn mang lại của cải
thật sự, vì thế những ngành công nghiệp này hàng năm khai thác tài nguyên thiên
nhiên và thu được những sản phẩm có giá trị nhất cho con người. Mậu dịch về cơ
bản vô ích, vì chỉ đơn thuần chuyển hàng hóa có sẵn từ người này sang người
khác. Cùng với thời gian, những học thuyết này không quan trọng bằng quan điểm
khác mà phái Trọng nông cho rằng quan trọng hơn hết, đó là sự tự do hóa hoạt
động kinh tế từ thoát khỏi sự bóp ngạt do nhà nước áp đặt. Phái Trọng nông yêu
cầu chính phủ nên hạn chế mọi hành động can thiệp vào việc kinh doanh, ngoại
trừ trường hợp cần thiết để bảo vệ sinh mạng và tài sản. Trước nay chưa hề có
hành động nào cản trở hoạt động của luật kinh tế tự nhiên. Học thuyết này được
tóm tắt trong châm ngôn kỳ quặc, Laissez faire et laissez passer, le
monde vade lui-même (Cứ làm đi và cứ để mặc họ, mọi chuyện sẽ tự diễn
tiến tốt đẹp). Tư tưởng laissez faire ít lâu sau được thể hiện
trong các khái niệm như tính bất khả xâm phạm tài sản cá nhân và quyền tự do ký
hợp đồng và tự do cạnh tranh. Vì thế đây chính là sự đối lập với chính sách
trọng thương hạn chế.
Kinh tế học của Adam
Smith. Nổi
tiếng nhất trong số các nhà kinh tế học trong Thời kỳ Khai sáng và cũng là một trong
những nhân vật nổi tiếng nhất của mọi thời đại là Adam Smith (1723-1790). Là
người Scotland, Smith bắt đầu sự nghiệp của mình trong tư cách giảng viên văn
học Anh ở đại học Edinburgh. Từ đại học này, và sau đó không lâu ông, được đề
bạt chức giáo sư luận lý học ở Học viện Glasgow. Ông nổi tiếng lần đầu tiên
trong năm 1759 khi công bố Theory of moral Sentiments. Mặc dù đôi
lúc ông quan tâm đến vấn đề kinh tế học chính trị nhưng sự quan tâm này được
kích thích một cách hiệu quả sau hai năm cư trú ở Pháp trong khi làm thầy dạy
kèm công tước trẻ tuổi xứ Buccleuch. Ở Pháp ông trở thành thành viên lãnh đạo
của trường phái Trọng nông và thích thú khi nhận thấy một số thuyết của họ phù
hợp với thuyết của mình. Ông mô tả kinh tế Quesnay, với tất cả những điểm chưa
hoàn thiện như “sự tiếp cận chân lý gần nhất chưa được công bố về nguyên tắc
của khoa học đó”.
Nhưng Smith không hề gia nhập theo tiêu chuẩn
của phái Trọng nông, mặc dù phần lớn học thuyết của họ chắc chắn có ảnh hưởng
đối với ông. Năm 1776, ông công bố Inquiry into the Nature and Causes
of the Wealth of Nations, thường được cho là chuyên luận về kinh tế
học có nhiều ảnh hưởng nhất từ trước đến nay. Trong chuyên luận này, ông cho
rằng lao động chứ không phải nông nghiệp hoặc sự hào phóng của tự nhiên, là
nguồn tạo ra của cải đích thực. Trong khi nói chung ông chấp nhận nguyên
tắc laissez faire, thì lại thú nhận rằng sự thịnh vượng của
mọi người tốt nhất bằng cách để cho mỗi cá nhân theo đuổi sự quan tâm của riêng
mình, tuy nhiên ông thừa nhận một số hình thức can thiệp của chính phủ cũng là
điều đáng mong muốn. Nhà nước nên can thiệp để tránh bất công và đàn áp, vì sự
tiến bộ của giáo dục và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, và nhằm duy trì những dự án
cần thiết vốn không bao giờ tư nhân bỏ tiền đầu tư. Dù sao những hạn chế của
quan điểm này vẫn còn dựa trên nguyên tắc laissez faire, Wealth of
Nations của Smith được các nhà kinh tế học thế kỷ 18 và 19 chấp nhận
xem như Kinh thánh. Ảnh hưởng của nó trong Cách mạng Pháp mang tính gián tiếp
nhưng không phải là không sâu xa, cung cấp câu trả lời sau cùng đối với lập
luận trọng thương, và do đó làm tăng thêm tham vọng của giai cấp tư sản đối với
một hệ thống chính trị tiếp tục cản trở con đường tự do kinh tế.
[1] Voltaire bị
tống giam một khoảng thời gian, sau đó bị trục xuất sang Anh vì các bài viết đả
kích cay độc của mình, nhưng đây chỉ là thời gian đầu trong sự nghiệp của ông.
Hầu hết những lời phê phán đanh thép của ông đối với chính quyền và nhà thô đều
diễn ra sau khi từ Anh trở về Pháp.
[2] Dĩ nhiên, sự
phân biệt rút ra giữa cách mạng thật sự và bất đồng trong cung đình, thường phổ
biến ở bán đảo Balkan và các nước châu Mỹ Latin, thật ra không gì ngoài việc
thay cho các cuộc bầu cử.
[7] Muốn biết ảnh
hưởng của Montesquieu đối với những người sáng lập chính phủ Mỹ, nên đọc E. M.
Burns, James Madison: Philosopher of the Constitution, trang 180-83.
[10] Muốn biết thêm
phần luận thuyết chính trị của những người Duy tâm lãng mạn, xem trong phần
Thời kỳ Chủ nghĩa lãng mạn và Phản động.
[11] Một nhà kính
tế học khác là Vincent de Gournay (1712-1759), có nhiều ảnh hưởng đối với phái
Trọng nông, nhưng thật ra ông chưa hề là thành viên của trường phái này. Người
ta thường cho rằng chính ông là người đưa ra cụm từ laissez faire (đừng bận
tâm).
Nguồn: http://www.bachkhoatrithuc.vn/