GS
Cao Huy Thuần vừa cho ra mắt một tác phẩm mới: “Khi tựa gối khi cúi đầu” (Nhã Nam/NXB Văn học, 2011). Quyển sách
chia làm bốn phần: “Khi tựa gối”; “Khi cúi đầu”; và, đương nhiên, tiếp liền một
mạch: “Khi vò chín khúc”; “Khi chau đôi mày”! Mỗi phần gồm một số bài, lai láng
theo dòng tâm sự. Với tôi, tác giả là một người anh thân thương, một triết gia
chính hiệu. Thế mà anh lại viết thư riêng ghẹo tôi: “hình như có ông nào đó tuần
tuần tháng tháng viết gì đó về Chuyện xưa
chuyện nay. Biết đâu quyển sách gợi hứng cho ông để tay tiên thảo một bài
thơ liên hoàn”. “Bài thơ liên hoàn” đã có sẵn đây, và của chính tác giả, chứ
“tay tiên” nào viết nổi! Tôi chọn cách khôn ngoan nhất là… mượn hoa cúng Phật.
Xin bắt đầu bằng vài trích đoạn trong bài: “Tin cậy”, nối tiếp chủ đề “giao lưu
trực tuyến” ba kỳ mới đây. Các tựa nhỏ là của chúng tôi.
Tin
Cậy
Ai
cũng biết tin cậy là nền tảng của xã hội. Không có tin cậy thì không còn bất cứ
giao tiếp nào giữa người với người, và do đó cũng không còn xã hội. Không có
tin cậy giữa vợ với chồng, cha với con, thì gia đình tan nát. Không có tin cậy
giữa thầy với trò thì giáo dục vô hiệu. Không có tin cậy ở đồng tiền thì kinh tế
khủng hoảng. Không có tin cậy ở đất nước, người dân vượt biên. Ai cũng biết vậy,
nhưng phải đợi đến Locke (1632-1704) tin cậy mới đi vào lý thuyết chính trị để
cắt nghĩa nguồn gốc của quyền lực.
SỰ CHÍNH ĐÁNG CỦA
QUYỀN LỰC
Do
đâu quyền lực được xem như chính đáng? Locke trả lời: từ sự tin cậy của người
dân. Sự tin cậy đó cắt nghĩa tại sao con người từ bỏ tình trạng hoang dã ban sơ
để lập nên một uy quyền chính trị mà ngày nay ta gọi là nhà nước. Trong tình trạng
ban sơ, chỉ có cá nhân với cá nhân, tổ chức đoàn thể duy nhất là gia đình. Giữa
cá nhân và cá nhân, ai cũng tự do, muốn làm gì thì làm, ai cũng bình đẳng, ai
cũng tự lo bảo vệ sinh mạng, tài sản, ai cũng tự mình giải quyết xung đột, ai
cũng dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Thế nhưng trên đầu vẫn có một thứ luật,
luật tự nhiên, mà con người tự biết chẳng cần ai dạy, vì đã là người thì ai
cũng có lý trí bẩm sinh. Lý trí dạy: xâm phạm tính mạng của người khác thì người
khác xâm phạm tính mạng của mình. Xâm phạm tài sản của người khác thì của cải của
mình cũng bị xâm phạm lại. Vậy thì, đừng ai xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự
do, tài sản của ai. Luật đó là luật tự nhiên, luật sinh tồn hỗ tương, có qua có
lại. Vấn đề là: nếu luật đó bị vi phạm thì sao? Kẻ yếu làm sao tự xử? Yếu làm
sao xử được mạnh? Mà kẻ mạnh nào lại không có đứa mạnh hơn ở trên đầu? Chính vì
vậy, vì thiếu một tổ chức để phân xử, mà con người chấm dứt tình trạng ban sơ để
bước qua tình trạng xã hội có tổ chức. Bước qua như vậy không phải để sống, mà
để sống tốt hơn.
Với
thời đại gần đây, lý do đó lại càng rõ hơn nữa. Đồng tiền xuất hiện, kinh tế
trao đổi bước qua kinh tế tiền tệ, xã hội phải được tổ chức chặt chẽ. Với đồng
tiền, con người có khuynh hướng để dành, tích lũy. Từ đó, bất bình đẳng tăng
lên, tăng mãi, đến mức con người không thể ngủ yên nếu tài sản không được một tổ
chức bảo vệ: tổ chức ấy là tổ chức chính trị, là nhà nước.
Vậy
thì, con người thành lập tổ chức chính trị để tránh nguy hiểm của bất an ninh,
để tự do, để tài sản được bảo vệ. Muốn vậy, mỗi người phải từ bỏ quyền tự mình
hành xử luật tự nhiên và trao quyền đó cho một tổ chức độc lập, đứng trên mọi
cá nhân: đó là cái hợp đồng xã hội cơ sở. Quyền lực của tổ chức chính trị bắt
nguồn nơi sự từ bỏ đó của mọi người. Nhưng, khác với các nhà tư tưởng khác,
Locke không xem sự từ khước đó là vô giới hạn. Bởi vậy, quyền lực của tổ chức
chính trị chỉ rộng đến mức cần thiết, vừa đủ để đạt mục tiêu của xã hội, tức là
hạnh phúc của con người và an ninh của tài sản. Tổ chức chính trị đó thu hẹp tự
do và tài sản mà con người có trong tình trạng ban sơ, nhưng không triệt tiêu.
Đó là điểm mấu chốt trong Locke.
Có
thể con người mới tự nguyện, thỏa thuận, bước vào xã hội chính trị, chấp nhận
uy quyền của Nhà nước. Không có sự thỏa thuận đó, uy quyền chính trị sẽ không
chính đáng. Ông vua ngày xưa nhận quyền uy từ thiên mệnh. Nhà nước ngày nay nhận tính chính đáng từ sự thỏa
thuận của dân. Dân thỏa thuận vì dân tin cậy. Người cầm quyền nhận một nhiệm vụ
mà dân giao phó để thực hiện một mục tiêu mà hai bên thỏa thuận trong sự tin cậy
lẫn nhau. Tin cậy là gốc của quyền lực.
Trên
mặt lý thuyết, cái nhìn của Locke là cái nhìn đầy lạc quan. Khác với các tư tưởng
gia khác, ông nghĩ: tình trạng ban sơ không phải là hoàn toàn rừng rú, con người
không phải là chó sói với nhau. Từ đầu, con người đã biết sống hợp quần, chỉ vì
một lý do tự nhiên: bản tính của con người là tin ở lời nói, tin nhiều hơn là
nghi. Nếu từ đầu, từ căn bản, không ai tin gì ở lời nói của ai cả, thì làm sao
đồng ý được với nhau về cái hợp đồng xã hội? Huống hồ đây là một hợp đồng chuyển
nhượng quyền và tự do của mình cho một quyền lực mà mình chưa hề biết gì về
cách tổ chức, hoạt động. Bước nhảy từ tình trạng hoang sơ đến tình trạng xã hội
là một bước nhảy đầy bất trắc. Không tin nhau, không tin ở cái cơ cấu xã hội sẽ
tổ chức, ai dám nhảy? Ai dám nhảy với nhau và với cái quyền lực chưa hề biết mặt
mũi kia?
TRÁCH
NHIỆM TỪ HAI PHÍA
Bởi
vậy, con người trong cái hợp đồng xã hội của Locke là con người tự tín, tự chủ,
biết trách nhiệm. Tôi biết trách nhiệm về việc giữ lời nói của tôi, cho nên tôi
cũng tin rằng anh biết trách nhiệm về lời nói của anh. Ý thức về trách nhiệm hỗ
tương đó tạo ra mối liên hệ sâu xa giữa người với người: kẻ nào bội hứa, nuốt lời,
kẻ ấy đi ra khỏi cái hợp đồng đạo đức đã tạo ra khuôn phép cho đời sống xã hội.
Tôi cho anh bạc thật, anh không thể trả lại cho tôi bạc giả. Trong cái hợp đồng
ký kết giữa anh với tôi, giữa chúng ta với tất cả, giữa tất cả với quyền lực, mỗi
người đều là những con người trưởng thành, tự lập, có lý trí, biết trách nhiệm.
Con người trong tình trạng thiên nhiên đã thế, con người trong xã hội hiện đại
ngày nay lại càng như thế. Không thể có xã hội nếu không có những cá nhân biết
trách nhiệm. Không thể có một quyền lực chính đáng nếu quyền lực đó vô trách
nhiệm.
CHA,
CON VÀ GIÀN LỬA
Giữa
những con người biết trách nhiệm như vậy, sự tin cậy đối với hợp đồng chính trị
dựa trên lý trí, không phải dựa trên lòng tin mù quáng, và khác với lòng tin
tôn giáo mà câu chuyện Abraham trong Thánh kinh là biểu trưng. Thánh kinh kể
nguyên văn: “Thượng đế gọi ‘Abraham!’ Abraham trả lời: ‘Con đây!’ Thượng đế bảo:
‘Dẫn đứa con duy nhất của ngươi, đứa con mà ngươi yêu thương, Isaac, dẫn đến ngọn
núi mà Ta sẽ chỉ, thiêu nó trên giàn lửa’. Sáng sớm, Abraham thức dậy, bửa củi,
chất củi trên lưng lừa, dẫn Isaac đến nơi hẹn. Qua ngày thứ ba, Abraham ngước mắt,
thấy núi từ xa. Abraham lấy củi chất trên lưng Isaac, tay cầm lửa và dao, cùng
đi lên núi. Isaac nói: ‘Đây là lửa, đây là củi, còn đâu là con cừu để giết?’
Abraham trả lời: ‘Này con, Thượng đế sẽ lo việc mang cừu đến’. Và cả hai tiếp tục
đi. Đến nơi, Abraham dựng một bàn tế, chất củi. Ông trói Isaac, đặt trên đống củi.
Rồi Abraham đưa tay lấy con dao để cứa cổ đứa con trai duy nhất mà ông yêu
thương. Nhưng sứ giả của Thượng đế gọi ông từ trên trời, bảo ngừng tay lại.
‘Abraham! Ngươi đã biết sợ Thượng đế, biết không từ chối Thượng đế đứa con của
ngươi, đứa con duy nhất’. Abraham ngừng tay, thấy trong bụi cây cặp sừng của một
con cừu bị vướng, bèn bắt con cừu cho vào giàn lửa”. (…)
Thượng
đế rất bằng lòng về thái độ của Abraham. Thượng đế muốn thử lòng tin của ông và
biết ông có lòng tin tuyệt đối. Nếu đây chỉ là lòng tin tôn giáo, ta kính cẩn
cúi đầu. Vấn đế là không ít quyền lực muốn đưa lòng tin tôn giáo đó vào mối
tương quan với người dân: dân là tín đồ, mình là Thượng đế, mệnh lệnh là tuyệt
đối. Bảo đi là đi, bảo chết là chết: không thiếu gì thơ văn ca tụng những lòng
tin chính trị như vậy. Kể nguyên văn một đoạn trong Thánh kinh là cốt để so
sánh với thơ văn sùng tín đưa lòng tin chính trị vào cõi tuyệt đối của lòng tin
tôn giáo. Tin cậy trong Locke không phải như vậy. Đó là tin cậy giữa những con
người mở mắt, ngang nhau, không trên không dưới, sáng suốt, có lý trí, những
con người tin có điều kiện. Điều kiện là: nếu anh làm tôi mất lòng tin thì tôi
rút lui sự tin cậy. Trong tương quan giữa người dân và quyền lưc, Locke nói: nếu
quyền lực không làm đúng nhiệm vụ được giao phó, dân sẽ xem như đang ở trong
tình trạng chiến tranh, nghĩa là sẽ chống lại để lấy lại tự do nguyên thủy. Quả
quyết đó của Locke mở ra một chân trời mới trong học thuyết chính trị đương thời:
trước cả Cách mạng 1789, Locke đã chủ trương nguồn gốc của quyền lực nằm nơi
dân. Dân trao quyền, không phải là trao hẳn, mà là trao có điều kiện. Điều kiện
đó là phải giữ lòng tin, trust. Trong thời đại dân chủ ngày nay, ta nói: đó là
lòng tin đặt vào những người biết trách nhiệm. Cơ sở của quyền hành là trách
nhiệm. Không biết trách nhiệm thì quyền lực chỉ là bạo lực.
CON
NGƯỜI DÂN CHỦ
Chính
vì đánh hơi thấy trước bước đi của thời đại như vậy mà Locke là ông tổ của những
nước dân chủ đầu tiên trên thế giới. Nước Anh trước, nước Mỹ sau, họ khám phá
ra điều mới lạ: họ cai trị dân tốt hơn khi dân được hưởng tự do. Tự do chính trị,
không những không đưa đến hỗn loạn phương hại cho quyền hành của họ, mà còn làm
tăng sức mạnh của quyền hành, làm quyền lực vững hơn, cường tráng hơn. Với sức
mạnh đó, họ chế ngự thế giới, lạ thật, các nước tự do chế ngự thế giới thiếu tự
do! Từ thế kỷ 17, 18, tư tưởng đi trước, sức mạnh đi theo, lịch sử đã dẫn tự do
định cư trên khắp toàn cầu, từ tự do dân tộc đến tự do cá nhân, từ tự do trong
đầu óc đến tự do trong hiến pháp. Ở đâu có cản trở tự do, ở đấy lòng tin càng mất.
Không ai chối từnguyên tắc tự do dân chủ được, kể cả Vạn Lý Trường Thành.
Nói
như vậy không có nghĩa là lấy chế độ chính trị của các nước Âu Mỹ làm chuẩn. Họ
có cái hay mà cũng có cái dở, có ưu có khuyết. Khuyết điểm của họ, ngày nay họ
thấy rõ như nhìn vào lòng bàn tay: đó là cá nhân chủ nghĩa thái quá. Cá nhân chỉ
nghĩ đến mình, thì ý thức tập thể, đời sống cộng đồng, đời sống xã hội, đời sống
chính trị, chế độ dân chủ, tất cả đều bị tổn thương và chính tự do cũng mất.
Con người dân chủ là con người tự mình phán đoán, quyết định, điều đó hay,
nhưng nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lợi ích cá nhân, không biết dung hòa quyền
lợi, thì chính họ đã đánh mất đi cái bí quyết thành công của chế độ dân chủ là
tinh thần mực thuớc, phải chăng. (…)
Ai
cũng nói: sự tin cậy nằm nơi cội rễ của cây dân chủ. Rồi ai cũng chỉ cái cây
dân chủ mà nói: nó đang héo. Nó héo vì tin cậy bị lung lay: dư luận không tin nữa
ở bầu cử, không tin nữa ở các cơ quan đại diện, không tin nữa ở sự trong sạch của
chính trị. Chế độ dân chủ đang tự nghi ngờ mình, ngay trên xứ sở đã sinh ra nó.
Chưa lúc nào lý thuyết của Locke trở thành thời sự như vậy ở Âu Châu. Trên báo
chí, trên truyền thông, trên các diễn đàn trí thức, khắp nơi, đâu cũng đặt câu
hỏi: làm thế nào để vực dậy lòng tin cậy nơi con người dân chủ?
KHỦNG
HOẢNG VÀ LÒNG TIN
Nhưng
có phải chính chế độ dân chủ làm mất lòng tin không? Chắc chắn không. Chế độ
dân chủ, nhất là ngày nay, phải giải quyết một mâu thuẫn nội tại: làm sao hòa
giải giữa tự do của người dân, càng ngày càng khó tính vì độc lập hơn, tự chủ
hơn, đòi hỏi hơn, với nhu cầu của chính quyền phải hành động, phải quyết định,
nghĩa là phải chọn lựa những giải pháp ít mất lòng tin nhất trong những điều kiện
kinh tế, xã hội càng ngày càng khó khăn? Làm thế nào? Dẹp bớt dân chủ chăng?
Đâu có, phải tăng cường dân chủ! Dân chủ đại diện bị mất lòng tin? Thì phát triển
thêm dân chủ tham dự. Thì tìm mọi cách để người dân tham gia nhiều hơn nữa vào
việc công. Thì mở rộng thêm xã hội công dân. Dân chủ là chính thể luôn luôn đi
tới, luôn luôn tiến bộ, luôn luôn năng động. Động cơ của dân chủ chính là cái
tính không bao giờ thỏa mãn của người dân, nó thúc đẩy chế độ phải bước đi nữa,
nhanh hơn, xa hơn. Hoài nghi, bất trắc, cảm tưởng đi hoài không đến, là cái giá
phải trả để chế độ chuyển động và để người dân tự do. Bởi vậy, “khủng hoảng” là
cơn đau cứ tái diễn hoài trong chế độ dân chủ, nhưng phải có thất bại để được
thành công. “Không có thất bại nào lớn hơn thành công” là vậy. (…)
Hoài nghi, bất
trắc, cảm tưởng đi hoài không đến, là cái giá
phải trả để chế
độ chuyển động và để người dân tự do.
(Nguồn: triethoc.edu.vn)