Lời
giới thiệu: Khi mới được in lần đầu, cuốn sách
này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản
thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây
thực sự là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kỳ Duy
tân. Kể từ đó đến nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục, chỉ tính từ năm
1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản Iwanami Bunko cũng đã tái bản đến bảy
mươi sáu lần.
Trong cuốn sách
này, Fukuzawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ
của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của
nền học vấn mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp
trị…
Ông khẳng định mọi
người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn. Về học
vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải
xây dựng nền học vấn dựa trên “thực học”.
Về
tác giả Fukuzawa Yukichi:
Nói tới Fukuzawa
Yukichi, không người Nhật nào lại không biết. Họ nói về ông như một trong những
bậc “khai quốc công thần” của nước Nhật Bản hiện đại, hình ảnh của ông được in
trên đồng tiền có mệnh giá cao nhất ở Nhật, tờ mười nghìn yên.
Fukuzawa Yukichi
là nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với xã hội Nhật Bản thời cận đại.
Người Nhật tôn vinh ông là “Voltaire của Nhật Bản”, không chỉ vì tính triệt để
và tầm mức vượt trội trong tư tưởng của ông, mà còn vì cũng như danh nhân người
Pháp, Fukuzawa Yukichi cùng những người đồng chí của mình là những người khai
sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn
tinh thần cho công cuộc Duy tân của chính phủ Minh Trị. Những tác phẩm của ông
dù viết từ hơn một thế kỷ trước nhưng vẫn được người Nhật Bản ngày nay hết lòng
ngưỡng mộ.
***
Phần Một
Trời Không Tạo
Ra Người Đứng Trên Người
Mọi
người sinh ra đều bình đẳng, nếu có khác biệt là do học vấn
Người ta thường
nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng
dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con người thì tất cả sinh ra đều bình đẳng,
mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới,
giàu nghèo.
Loài người –
chúa tể của muôn vật – bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân tay mà biến mọi
thứ có trên thế gian thành vật có ích cho bản thân mình. Nhờ thế mà thỏa mãn được
nhu cầu ăn, mặc, ở, sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm cản trở cuộc
sống của đồng loại. Con người có thể sống yên ổn, vui vẻ trên thế gian. Đó là ý
Trời, là niềm hy vọng của Trời đối với con người.
Vậy mà nhìn rộng
ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực.
Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ đần độn; giữa người giàu và người
nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.
Như thế là tại
làm sao? Nguyên nhân thực ra rất rõ ràng.
Cuốn sách dạy tu
thân Thực ngữ giáo có câu: “Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức
là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiểu: sự khác nhau giữa người thông
minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
Trên thế gian có
cả việc khó lẫn việc dễ. Người làm việc khó được coi là người quan trọng. Người
làm việc dễ thường có địa vị thấp, bị coi thường. Công việc cần sự khổ nhọc về
tinh thần được xem là việc khó, còn lao động chân tay là việc dễ. Vì thế, học
giả, quan chức chính phủ, giám đốc các công ty lớn, chủ trang trại sử dụng nhiều
nhân công… là những người có địa vị cao, quan trọng. Một khi đã là những người
có địa vị, quan trọng thì đương nhiên gia đình họ cũng giàu sang sung túc đến mức
tầng lớp hạ đẳng nằm mơ cũng không được. Tuy vậy, nếu suy nghĩ kỹ lưỡng gốc rễ
của vấn đề thì chỉ có một nguyên nhân. Đó chẳng qua là do có chịu khó học hay
không mà thôi, chứ có người nào được Trời phú cho đâu. Ngạn ngữ có câu: “Trời
không ban cho con người phú quý. Chính con người tạo ra giàu sang phú quý”. Có
nghĩa là Trời nhìn vào kết quả hoạt động, lao động của con người để ban thưởng.
Như tôi đã đề cập:
ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu nghèo. Vì thế, có thể nói
rằng: người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người quan trọng, sống
sung túc; người vô học sẽ trở thành con người thấp kém, nghèo khổ.
Học
những môn thiết thực cho cuộc sống
Học vấn là gì?
Đó không phải là học chỉ cốt để hiểu câu khó, chữ khó; càng không phải là việc
học chỉ để giải nghĩa văn cổ, đọc thơ, vịnh thơ. Học như vậy không có ích gì
cho cuộc sống cả.
Đọc các tác phẩm
văn học cũng là để động viên an ủi lòng người, như thế chẳng phải là môn học có
ích cho cuộc sống đó sao? Nhưng tôi không nghĩ rằng văn học là môn học quan trọng
đến mức “phải thờ phụng nó” như các thầy dạy Hán văn, Cổ văn thường nhấn mạnh.
Trong cuộc sống,
tôi hầu như không thấy thầy dạy Hán văn nào có được tài sản đáng kể, cũng như
các thương gia vừa giỏi thơ phú vừa thành công trong kinh doanh lại càng hiếm.
Với lối học như
hiện nay, chỉ tăng thêm sự lo lắng trong các bậc phụ huynh, nhà nông… những người
hết lòng chăm lo việc học tập của con cái: “Chúng nó cứ học theo kiểu này, chắc
có ngày tán gia bại sản mất”. Điều đó là đúng. Vì lối học này không thực tế,
không thể áp dụng kết quả học tập vào thực tiễn cuộc sống.
Vậy thì giờ đây
chúng ta phải học cái gì và học như thế nào?
Trước hết phải học
những môn thực dụng cần thiết cho cuộc sống hằng ngày. Ví dụ: Phải thuộc lòng bảng
bốn mươi bảy chữ cái Kana; Học cách soạn thảo thư từ, ghi chép trương mục kế
toán; Sử dụng thành thạo bàn tính; Nhớ cách cân, đong, đo, đếm; Tiếp đến là phải
học các môn như Địa lý để biết được phong thổ Nhật Bản và các nước trên địa cầu;
Vật lý là môn học giúp ta phân biệt được tính chất của mọi vật thể trong thiên
nhiên, qua đó tìm ra tác dụng của nó; Học Sử vì đây là môn học giúp ta hiểu biết
cặn kẽ mọi sự kiện ghi trên niên biểu lịch sử, qua đó chúng ta có thể nghiên cứu
quá khứ, hiện tại của mọi quốc gia; Học Kinh tế là môn giải đáp cho chúng ta mọi
vấn đề liên quan đến việc chi tiêu trong mỗi gia đình cũng như nền tài chính của
cả quốc gia; Học môn Đạo đức, môn này giúp ta hiểu về hành vi, hành động của bản
thân, hiểu cách cư xử, cách giao tiếp, cách sinh hoạt giữa người với người.
Để học các môn
này, cần thiết phải đọc tất cả các quyển sách của châu Âu đã được dịch ra tiếng
Nhật. Đối với các bạn trẻ có khả năng thì tôi khuyên nên đọc trực tiếp các
nguyên bản bằng tiếng Anh, Pháp, Đức. Khi học phải nắm được nội dung chủ yếu của
môn học, trên cơ sở đó phải hiểu được bản chất cơ bản của mọi sự vật. Học như vậy
mới có ích cho cuộc sống. Đó là “Thực học” mà ai cũng phải học, là học vấn mà hết
thảy mọi người đều phải tự trang bị, không phân biệt đẳng cấp, khoảng cách giàu
nghèo. Chính việc tự trang bị kiến thức này, từng cá nhân trên cơ sở làm trọn
chức trách của mình, sẽ điều hành quản lý tốt gia nghiệp được giao…
Cá nhân có độc lập
thì gia đình mới độc lập. Và như thế quốc gia cũng độc lập.
Tự
do không phải là chỉ biết có tôi, cho riêng tôi
Biết đúng vị
trí, chỗ đứng của mình là rất quan trọng. Kể từ khi sinh ra, con người không phải
chịu sự can thiệp của bất cứ một ai. Nam cũng như nữ đều có quyền tự do sinh sống.
Đúng là con người có quyền tự do, nhưng lúc nào cũng khăng khăng đòi phải được
làm theo ý muốn của riêng mình mà không biết rõ vị trí của mình thì sẽ trở nên
chỉ biết có mình, cho riêng mình. Như thế là tự mình làm hỏng mình.
Dựa trên đạo lý
mà Trời đã định, vị trí của mỗi người là ở chỗ: biết trọng tình người, không
làm phiền hay cản trở người khác, biết bảo vệ quyền tự do bản thân.
Tự do bản thân
không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, không có nghĩa là làm phiền hoặc cản trở
người khác. Ví dụ như có người nói: “Tiền tôi, thích uống rượu tôi uống, thích
mua ‘hoa’ tôi mua. Đó là quyền tự do của tôi, chứ động chạm gì tới ai”. Suy
nghĩ như vậy là sai. Ham mê tửu sắc làm ảnh hưởng tới người khác, lại lôi kéo bạn
bè, làm hại nền giáo dục xã hội. Cứ cho là tiền tôi tôi xài, nhưng không vì thế
mà có thể bỏ qua những hành vi tội lỗi gây ra cho xã hội.
Tự do và độc lập
không chỉ liên quan tới từng cá nhân mà còn là vấn đề của quốc gia nữa.
Nhật Bản chúng
ta là một quốc đảo nhỏ nằm ở phía Đông châu Á, cách xa đại lục, lâu nay không
giao thương với ngoại quốc, bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp. Mãi đến thời Gia
Vĩnh (1848-1854), khi hạm đội Mỹ kéo đến gây áp lực, Nhật Bản mới bắt đầu mở cửa
giao thương với nước ngoài. Thế mà ngay cả khi đã mở cửa, trong nước vẫn chưa hết
tranh cãi ồn ào xung quanh việc tiếp tục đóng cửa hay mở cửa, tiếp tục lên án
người ngoại quốc là lũ man di mọi rợ… Những cuộc tranh cãi như vậy thật là vô bổ,
có khác nào “Ếch ngồi đáy giếng coi Trời bằng vung”.
Thử nghĩ xem, chẳng
phải là người Nhật chúng ta cũng như người dân các nước phương Tây cùng ở trên
một quả đất, hưởng chung ánh mặt trời, ánh trăng, thở cùng một không khí, hưởng
cùng một đại dương và đều là con người cả đó sao. Chúng ta thừa sản vật thì
chia bớt cho người ta; người ta thừa sản vật thì chia lại cho mình, cùng học hỏi
lẫn nhau, không ai tự cao tự đại, không làm nhau hổ thẹn. Dân Nhật ta cũng như
dân họ đều cùng mong phát triển, cùng mong hạnh phúc đó sao?
Chúng ta phải tận
tâm làm hết sức mình trong quan hệ quốc tế sao cho đúng ý Trời, hợp lòng người.
Nếu đúng đạo lý thì cần phải chuộc lỗi với người Phi châu cũng phải làm. Còn để
bảo vệ lập trường chính nghĩa thì dù là pháo hạm Anh hay Mỹ, chúng ta cũng
không sợ. Khi quốc gia chịu nỗi nhục mất nước thì mọi người dân Nhật, không trừ
một ai, đều sẵn sàng xả thân để bảo vệ thanh danh của Tổ quốc. Như vậy, đất nước
mới tự do, quốc gia mới độc lập.
Thế nhưng trên
thế gian này, vẫn có quốc gia tự phong cho mình là trung tâm của vũ trụ. Họ
nghĩ là ngoài đất nước họ ra không có quốc gia nào tồn tại cả. Hễ cứ nhìn thấy
người ngoại quốc thì miệt thị như loài thú hoang, gọi họ là man di mọi rợ. Kết
cục là quốc gia đó tự chuốc lấy sự căm ghét của các nước khác. Đó là một kiểu
“chỉ biết cái tôi” ở tầm quốc gia, đó là cách ngoại giao không biết mình biết
người, không nắm rõ ý nghĩa của từ “Tự do”.
Học để dám nói
lên chính kiến và thực hiện đầy đủ bổn phận với đất nước
Kể từ khi thiết
lập chế độ quân chủ, nền chính trị Nhật Bản đã có những thay đổi mạnh mẽ. Về đối
ngoại, chính phủ đã bang giao với ngoại quốc trên cơ sở công pháp quốc tế. Về đối
nội, chính phủ đã mang lại tinh thần “tự do, độc lập” cho dân chúng. Người dân
chúng ta đã được phép mang đầy đủ họ và tên; được phép cưỡi ngựa… Đó là sự thay
đổi to lớn kể từ thuở lập quốc, tạo cơ sở bình đẳng về địa vị giữa các thành phần
Võ sĩ (samurai), Nông, Công, Thương trong xã hội.
Chế độ đẳng cấp
– địa vị của một người được quy định trước cả khi người đó ra đời – đã hoàn
toàn bị xóa bỏ.
Từ nay trở đi địa
vị xã hội của cá nhân sẽ được quyết định tùy theo tài năng, phẩm cách và vai
trò của mỗi người. Quan chức chính quyền được bổ nhiệm theo tài năng và nhân
cách và là người thực thi luật pháp cho chúng ta. Chúng ta kính trọng họ theo lẽ
đó, chứ không phải chúng ta kính trọng chức vụ và thành phần xuất thân của họ.
Chúng ta không phải tuân theo con người họ. Chúng ta chỉ tuân thủ Luật pháp (Quốc
pháp) mà họ đang thừa hành.
Dưới thời chính
quyền phong kiến Mạc phủ, người dân chúng ta luôn phải khiếp sợ, né tránh, cúi
rạp mình trước các Tướng quân. Ngay cả lũ ngựa của các Tướng quân cũng làm
chúng ta hoảng sợ không dám đi chung đường với chúng; bầy chim cắt dùng nhử mồi
khi các Tướng quân đi săn bắn, cũng làm chúng ta khiếp đảm, phải cúi lạy, phải
phủ phục cho đến khi lũ chim bay khuất mới dám ngẩng đầu đứng lên đi tiếp. Người
ta đã buộc chúng ta phải quen, phải sợ những thứ được coi là “luật lệ”, “tập
quán” hà khắc ấy. Giờ đây nghĩ lại ai ai cũng cảm thấy kinh tởm.
Những thứ “luật
lệ”, “tập quán” đặt ra một cách vô cớ đó, không phải là luật pháp hay quốc pháp
để chúng ta phải tuân thủ. Chúng là những thứ đã cướp đoạt mọi quyền tự do của
chúng ta. Chúng là những thứ được đặt ra để gieo rắc nỗi sợ hãi trong chúng ta
trước uy quyền của chế độ phong kiến Mạc phủ và nhằm để che đậy bản chất lộng
hành, không minh bạch của chính chế độ đó.
Giờ đây, toàn bộ
cái chế độ và luật lệ ngu xuẩn ấy đã bị xóa sổ. Vì thế, không lẽ gì chúng ta cứ
phải sợ bóng sợ vía các cấp chính quyền đó mãi.
Nếu có gì bất
mãn với chính quyền hiện tại, chúng ta phải kháng nghị, tranh luận một cách đường
đường chính chính. Tại sao chúng ta chỉ dám nói xấu, kêu ca sau lưng họ mà
không dám chỉ mặt vạch tên.
Những kháng nghị
hợp lòng dân, đúng đạo Trời, dù có phải đổi cả tính mạng chúng ta cũng phải
tranh đấu. Đây là bổn phận mà mỗi người dân chúng ta phải thực hiện đối với đất
nước.
Học
để hiểu “trách nhiệm” của bản thân
Như tôi đã nói ở
trên, “độc lập và tự do” dựa trên đạo lý của Trời đã trở thành nguyên tắc trong
mỗi người cũng như của cả quốc gia chúng ta. Nếu như có kẻ gây phương hại đến
nguyên tắc này thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng
không sợ, huống hồ chúng ta lại phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?
Giờ đây, chúng
ta đã xác lập được tinh thần cơ bản: mọi người dân đều bình đẳng, vì thế chúng
ta hãy yên tâm phát huy hết mọi khả năng sức lực và trí tuệ của mình.
Mỗi người đều có
mỗi bổn phận, do đó phải tự vun đắp tài năng, rèn luyện nhân cách sao cho xứng
đáng với bổn phận đó. Để làm được điều này, ai ai cũng phải học chữ, học ngôn
ngữ. Có chữ, biết ngôn ngữ sẽ lý giải được mọi đạo lý của sự vật.
Nói đến đây chắc
các bạn sẽ hiểu giúp tôi rằng: học vấn là vấn đề cấp bách biết nhường nào.
Hiện nay, tầng lớp
thường dân cũng đã sánh vai ngang hàng với tầng lớp Võ sĩ (samurai), cho nên
con đường được lựa chọn vào các chức vụ trong chính quyền cũng mở ra cho chúng
ta nếu chúng ta có tài.
Chúng ta phải tự
giác trước bổn phận của bản thân, không chạy theo những hành động rồ dại, phải
cẩn trọng.
Tôi chắc rằng
không ai đáng thương hại hơn là những người vô tri thức, những người không hiểu
lẽ phải, và cũng không ai khó giao tiếp hơn những người ấy. Vì không có tri thức,
không có năng lực tự thức tỉnh nên họ căm ghét oán giận những người giàu có
chính đáng, đôi khi họ tập hợp thành bầu đoàn đi đánh cướp.
Bản thân họ được
luật pháp bảo vệ, nhưng hễ cứ cảm thấy bất lợi cho mình thì họ lại thản nhiên
vi phạm, ngang nhiên phá luật.
Lại có không ít
người, có được chút ít tài sản, tiền bạc thì chỉ lo tích trữ, cất giấu, không
bao giờ suy nghĩ đầu tư cho con cháu học hành. Vì thế con cháu họ chỉ biết ăn
chơi, lêu lổng, dốt nát và cứ thế tiêu pha tàn phá tài sản của ông cha mình.
Đối với những
người như vậy, không thể mang đạo lý ra để giảng giải mà chỉ có cách là dùng uy
lực đe dọa chứ không có cách nào khác. Ám chỉ điều này, người phương Tây có câu
tục ngữ: “Dân ngu tự chuốc lấy chính sách bạo tàn”. Người dân tử tế nghiêm túc
thì chính phủ cũng buộc phải tử tế nghiêm túc.
Nước Nhật chúng
ta có dân, trên dân có chính phủ. Phẩm cách của dân rơi vào vòng ngu tối, vô học
thì luật pháp của chính phủ cũng trở nên hà khắc. Nhưng nếu quốc dân có chí học
hành, tiếp thu văn minh thì không có cách nào khác, chính phủ cũng sẽ phải quảng
đại, nhân đạo.
Luật nước hà khắc
hay quảng đại hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ, phẩm cách của quốc dân.
Có người dân nào
lại mong muốn một chế độ chính trị tàn bạo?
Có người dân nào
lại mong cho đất nước kém phát triển?
Có người dân nào
lại mong cho nước mình bị ngoại bang khinh miệt?
Không và không
thể có. Đó là tình con người trong mỗi chúng ta.
Nếu như ai ai
cũng một lòng một dạ báo đáp cho Tổ quốc, nơi mình sinh thành thì chúng ta
không bao giờ phải lo nghĩ hay bất an đến tương lai, đến tiền đồ của Nhật Bản.
Mục đích của chúng ta chỉ có một: giữ gìn hòa bình cho đất nước.
Do vậy, điều
quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác là mỗi người chúng ta ai ai cũng phải học
hành, mở mang tri thức, mài giũa tài năng, nhân cách sao cho xứng với bổn phận
của mình.
Ngược lại, chính
phủ phải có trách nhiệm soạn thảo và thông báo đến mọi người dân những chính
sách dễ hiểu. Mục tiêu duy nhất của chính phủ là phải mang lại cuộc sống ấm no,
yên ổn cho dân.
Những lời về học
vấn mà tôi khuyên nhủ các bạn cũng chỉ nhằm tới điều này.
Nhân dịp khai
trường “Keio Nghĩa thục” tại quê tôi, huyện Nakatsu, tỉnh Oita, tôi chấp bút viết
chương này đưa cho bạn bè, đồng hương xem. Nhiều bạn hữu, sau khi đọc xong, nói
với tôi rằng: bài viết này không chỉ cho bạn bè, đồng hương tham khảo mà nên gửi
tới bạn đọc gần xa nữa, như vậy sẽ có hiệu quả hơn, nên tôi đã cho in thành nhiều
bản để các bạn cùng đọc.
Tháng
Hai năm Minh Trị thứ năm (tức năm 1871)
Nguồn: hocthenao.vn