Thái
Kim Lan
Ludwig Maximilian Universität, München
Ludwig Maximilian Universität, München
“Khai sáng và tiến bộ”
thường được hiểu là thành tựu tinh thần khoa học của triết học Tây phương từ
thế kỉ thứ 17, 18. Bài viết này do đó sẽ thảo luận “Khai sáng và tiến bộ” trên
bình diện ấy từ góc độ triết sử, nhưng kết luận của nó sẽ để ngỏ cho những thảo
luận kế tiếp chung quanh vấn đề “khai sáng” trên bình diện rộng hơn, toàn
thể hơn, vượt khỏi giới hạn Âu châu, bởi lẽ, tuy thuật ngữ “khai sáng” dùng để
chỉ khuynh hướng nổi bật của thời tân tiến, nó còn được hiểu như một tiến trình
khai phóng của con người trong bối cảnh lịch sử nói chung cũng như từ mỗi hoàn
cảnh hiện sinh riêng biệt trong thế giới thực tại mà con người đang sống.
Do đó những triết thuyết
Ðông phương về khai sáng của Khổng học, Ðạo học và Phật học cũng nên được thảo
luận trong tương quan này, nếu chúng ta ý thức rằng, ngày hôm nay triết học
không thể chỉ được hiểu là thuần túy triết học tây phương như trước đây với sự
chiếm lĩnh độc quyền tư tưởng của các hệ thống triết học tây phương, mà ngược
lại triết học ngày hôm nay nên hay cần phải được khảo cứu với một cái nhìn bao
quát bao gồm các triết thuyết Ðông Tây. Trong viễn tượng toàn cầu hóa và nhất
là trên diễn đàn Việt nam, đòi hỏi ấy có thể được xem như là một bổn phận.
Trong ý hướng ấy bài viết này là phần khởi đầu khiêm tốn cho các thảo luận
trong tương lai.
1. Vài nét tổng quát về vấn đề khai sáng
2. Các phong trào khai sáng nguyên thủy ở Anh, Pháp và Ðức
3. “Khai sáng” trong tiến trình xây dựng lịch sử về tự do
4. Tiến bộ công nghệ, kinh tế và biện chứng khai sáng
5. Dự án khai sáng? Một đề nghị thay kết luận
.....................................................................................................................
2. Các phong trào khai sáng nguyên thủy ở Anh, Pháp và Ðức
3. “Khai sáng” trong tiến trình xây dựng lịch sử về tự do
4. Tiến bộ công nghệ, kinh tế và biện chứng khai sáng
5. Dự án khai sáng? Một đề nghị thay kết luận
.....................................................................................................................
1. Vài nét tổng quát về
vấn đề khai sáng
1.1. Khái niệm “Khai
sáng”
Có thể nói trong lịch sử
triết học Âu châu, chưa có một trào lưu tư tưởng nào rực rỡ và sôi nổi như trào
lưu “khai sáng” trong khoảng giữa thế kỉ 18, một trào lưu đặc thù của tư tưởng
Tây Âu nhất là ở Anh, Pháp và Ðức: tại Pháp thế kỉ thứ 18 được xem là thời đại
của “ánh sáng” (le siècle des lumières), tại Anh, khai sáng được xem là
Enlightenment, “chiếu sáng” hay giác ngộ và tại Ðức “Aufklärung”, “khai sáng”.
Những danh hiệu này thoạt tiên nói lên niềm lạc quan nằm trong tư tưởng con
người thế kỉ thứ 18: bóng tối của huyền thoại, giáo điều, mê tín, lạc hậu, chậm
tiến, bất công, áp bức ngăn cản bước phát triển của con người trên tất cả các
lãnh vực xã hội, chính trị, văn hóa, tôn giáo, khoa học của quá khứ bị đánh
tan, nhường bước cho ánh sáng của Lý trí và Tiến
bộ. Chủ nghĩa lạc quan này đi từ sự tin tưởng toàn diện vào những
thành tựu khoa học của thời tân tiến và ý muốn áp dụng những thành tựu ấy vào
đời sống con người trong chiều hướng phát triển, tiến lên.
Tính lạc quan của trào
lưu khai sáng thế kỉ 17, 18 nằm trong ý niệm tiến bộ như là
hướng đi chắc chắn của khai sáng, từ đó “tiến bộ” mặc nhiên nằm trong ý niệm
khai sáng như một liên hệ nhân quả một chiều. Trong tương quan ấy khai
sáng và tiến bộ trước tiên phát khởi một sự đối
nghịch với truyền thống tư tưởng đang hiện diện hay thuộc vào quá khứ trên
nhiều bình diện, nhất là sự đối nghịch với những tương quan định chế xã hội,
tôn giáo (nhà thờ) và thế giới quan truyền thống của thế kỉ trước.
Những khái niệm
như thiên nhiên, con người và quyền lợi
của con người (nhân quyền) Lý trí và khoa học, nhân
đạo và tự do trở nên những khái niệm chủ đạo mới của
“khai sáng” và thường được sử dụng đồng nghĩa với sự từ khước những thế lực cũ
đang chế ngự xã hội đương thời.
Trong ánh sáng lạc quan
này, “Thời đại khai sáng không mang tính lịch sử, thường mơ về một mẫu nhân
dạng phổ quát và lý tưởng, tương tự hình ảnh mà người Stoa[1] mơ
ước, trong con người ấy thiên nhiên và lý trí sẽ tác tạo điều tột hảo có thể
thực hiện được lấy từ bản chất ‘người’ cho con người. Hãy truyền bá ánh sáng
của lý trí, đức hạnh! Hạnh phúc sẽ đến ngay trong tay các bạn. Ðó là niềm tin
tổng quát của những nhà khai sáng.”[2] Từ đó nhân
danh lý trí và con người, khái niệm khai sáng
thường được dùng phần lớn để chỉ những phong trào tạo nên hay nhằm mục đích tạo
nên sự chuyển đổi ý thức con người cũng như những thay đổi định chế và cơ chế
sau sự tan rã của xã hội Âu châu cổ điển cùng những ý niệm về giá trị của nó
trên các lãnh vực kinh tế và thương mại, luật pháp và quốc gia, nghệ thuật và
khoa học cũng như trên lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ðiển hình cho sự hi vọng
lạc quan này là cuộc cách mạng Pháp trong viễn tượng tạo nên nền cộng hòa kiểu
mẫu cho nhân loại.
1.2. Thoái bộ
(Rückschritt, regression) và lịch sử khai sáng
1.2.1. Thoái bộ
1.2.1. Thoái bộ
Nhưng lịch sử của tiến
trình khai sáng đã để lại những kinh nghiệm không hoàn toàn lạc quan như chính
những người chủ trương bảo vệ khai sáng chờ đợi. Cuộc cách mạng Pháp 1789 với
những hậu quả của nó đã là một câu trả lời trực tiếp cho phong trào khai sáng
và cho thấy phần nào tính hời hợt của thứ “triết lý bình dân” (Popularphilosophie)
mà những nhà phê bình thường gán cho thời khai sáng trong giai đoạn đầu khi so
sánh nó với những nghiên cứu khoa học cơ bản của thế kỉ đi trước. Cuộc cách
mạng Pháp và những hậu quả của nó đã đem không ít bóng tối bao trùm lên những
“ánh sáng” lạc quan. Bởi thế ngay trong lòng thế kỉ khai sáng, Lessing cũng như
Kant đã có cái nhìn phê bình về ý niệm khai sáng như một trào lưu ngoại tại
chưa được chủ thể hóa. Nhất là ý niệm trừu tượng của nó về “con người lý tưởng
phổ quát” đã không chú trọng đến những liên hệ với các điều kiện lịch sử đương
thời. Với Kant, và sau đó với Hegel và Marx, ý niệm khai sáng trong chiều hướng
phê phán đã được nâng lên bình diện triết học lịch sử và từ đó ý niệm khai sáng
đã được tiếp tục thảo luận trong tương quan với ý niệm lịch sử về tự do.
1.2.2. Có thể
có hay không có lịch sử khai sáng?
Nói “lịch sử” có
nghĩa là tiến trình “khai sáng” phải được đặt trong bối cảnh và điều kiện xã
hội mà con người đang sống. Thảo luận về tương quan giữa khai sáng và
“lịch sử về tự do của con người chưa hoàn tất”, như Oelmüller[3] nêu
lên, cũng có nghiã là thảo luận về sự “tiến bộ” của con người trong lịch sử, mà
“tự do” vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của khai sáng và tiến bộ.
Trong tương quan lịch
sử, vấn đề “Khai sáng” được đặt ra cũng không còn mang tính lạc quan hiển nhiên
của trào lưu thế kỉ thứ 18. Khai sáng không còn được nhìn như một tiến trình
một chiều theo đường thẳng, đơn điệu mà là một tiến trình gồm nhiều cấp bậc với
những bước tiến bộ và thoái bộ, lắm lúc phản tiến bộ. Nhất là kinh nghiệm
cho thấy rõ sự kiện đi sau không tất yếu là điều tốt hơn sự kiện đi trước. Từ
đó tiến trình này không tất yếu là tiến trình nhân quả đơn phương có thể lý
thuyết hóa để được giải thích trọn vẹn như những nhà khai sáng đưa ra ở trên,
mà là một tổng thể phức tạp gồm toàn diện dữ kiện bao gồm nguyên do hình thành
và phát triển của chính tiến trình khai sáng.
Quá trình này cũng không
còn thuần túy ở Âu châu mà còn ở trong hướng nhìn về toàn thể nhân loại. Khởi
điểm của nó không còn giới hạn từ kinh điển Âu châu mà từ đa số các hệ thống
văn hóa xã hội lịch sử trên thế giới. Những hệ thống này không phát triển (theo
chiều hướng tiến bộ) đồng thời và rất khác biệt nhau trong vai trò ấn định đời
sống hiện tại và xã hội tương lai. Hơn nữa, trong các xã hội công nghiệp tây
phương lẫn đông phương, trong nhiều hoàn cảnh lịch sử khác nhau, những khái
niệm chủ yếu, thường được coi là mục đích của khai sáng (như tự do và tự chủ,
trưởng thành và nhân đạo, tiến bộ và giải phóng, toàn thể và hòa giải), ngày
càng trở nên thiếu chính xác và mất khá nhiều nội dung.
Thật thế, khi xét đến
tiến trình lịch sử “khai sáng”, những chặng đường chủ nghĩa phát xít và Stalin,
sự tàn phá môi trường sinh thái do những tiến bộ công nghệ về thiên nhiên và xã
hội, cũng như những luận giải muốn loại bỏ vai trò chủ thể phê phán và lịch sử
về tự do – hai yếu tố chủ đạo của phong trào khai sáng – trong những
lý thuyết khoa học của thời hậu tân tiến (Postmodern), hậu lịch sử (Posthistoire),
ta không thể đơn giản cho rằng giai đoạn hiện tại đối với quá khứ là “tiến bộ”
và đáng được gọi là “thời đại khai sáng.”
Chính Kant cũng đã nhận
định rằng thời đại của ông cũng không phải là thời đại khai sáng (“Trả lời câu
hỏi: Khai sáng là gì?”) nhưng ông tin rằng “một mảnh ruộng đã được khai quang
cho mầm khai sáng được mọc lên và tiếp tục đơm hoa kết trái.”
Ngược lại, những lý
thuyết gia của hậu tân tiến và hậu lịch sử cho rằng sự tin tưởng lạc quan thiếu
phê phán của thời khai sáng trước Kant phản ảnh ít nhiều ảo tưởng ước mơ trong
giai đoạn phôi thai của quá trình hình thành xã hội công nghiệp tư sản ở Tây
Âu. Khai sáng do đấy trước hết nên được xem như là một sự chấm dứt, “sự thoát
ly”, những ý niệm, giá trị tinh thần, tôn giáo, xã hội và chính trị Âu châu
thời cổ, mà không phải là sự khởi đầu cho một tiến trình tiến bộ làm nên lịch
sử về tự do của con người. Trên phương diện lịch sử triết học, ý niệm khai sáng
chỉ còn được sử dụng trong ý nghĩa lịch sử về các ý niệm cũng như chính trị học
về các ý niệm nằm trong khai sáng. Trong ý nghĩa này Foucault cho rằng giai
đoạn khai sáng đã là một “khoảnh khắc đặc thù” không có tính lịch sử.
Tuy nhiên trong những
thảo luận hiện nay về khai sáng trên các lãnh vực khoa học thực tiễn và nhân
văn và ngay cả trong ngôn ngữ thường nhật, “Khai sáng” vẫn là một đề tài có nội
dung nhiều hơn là chỉ thuần có ý nghĩa lịch sử về các khái niệm hay chính trị
học về ý niệm, dù giới hạn thực hiện của khai sáng tùy thuộc vào điều kiện xã
hội và chính trị được ý thức một cách rõ rệt.
1.2.3. Biện chứng khai
sáng
Trong chừng mực giữ
khoảng cách với trào lưu khai sáng thế kỉ thứ 18, “khai sáng” vẫn là đề tài
được các nhà khoa học xã hội chú trọng.
Lý thuyết phê bình của
Horkheimer, Adorno, Marcuse, Habermas và lý thuyết duy lý phê bình của Popper
và Albert tìm cách đặt vấn đề khai sáng trong ý nghĩa tích cực. Hơn hai thế kỉ
đã đi qua, sự sử dụng khái niệm “khai sáng” ngày nay không thể mang nội dung và
phương pháp luận của liên hệ một chiều, mà ngược lại sự phản tỉnh phê phán về “khai
sáng” trong tiến trình “biện chứng khai sáng” là bước cần thiết cho tư duy, nếu
không muốn rơi vào sự lạc quan ngây thơ thuần túy của khởi nguyên khai sáng,
một tư duy mà chủ thể của nó trong dòng lịch sử đã biến thể từ “lý trí thuần
túy” và “lý trí thực hành” đang trở thành “những lý trí thưởng thức, lý
trí trò chơi” và nhất là “lý trí dụng cụ” (instrumentale Vernunft), như
Horkheimer nhận xét:
“Công bằng, Bình Ðẳng,
Hạnh Phúc, Bao Dung… tất cả những khái niệm lý tưởng trong các thế kỉ trước bao
hàm nội tại trong khái niệm lý trí hoặc cần phải được lý trí phán đoán và kiểm
xét, ngày hôm nay đều đã bị trốc rễ. Tuy chúng vẫn còn được xem là chủ đích và
cứu cánh, nhưng không có một thẩm cấp (Instanz) nào có quyền tuyên bố giá trị
cho những khái niệm nói trên cũng như cho chúng một thực tại có giá trị khách
quan… Ai có thể nói rằng một trong những lý tưởng nói trên có liên hệ mật thiết
với chân lý chặt chẽ hơn là khái niệm tương phản? Theo tư duy triết lý của một
người trí thức trung bình tân tiến, thì đối với người này chỉ còn có một quyền
lực: đó là khoa học. Khoa học được hiểu như là phương pháp phân loại các dữ
kiện thực tế và tính toán sự gần đúng (Berechnung der Wahrscheinlichkeit). Quan
điểm cho rằng công bình và tự do về bản chất tốt hơn là không công bình và
không tự do thì lại không được kiểm chứng một cách khoa học (theo ý nghĩa trên)
và do đấy có thể bị xem là vô dụng…”[4]
Do đấy, khai sáng phải
có sức phản tỉnh và phê bình trong tinh thần biện chứng để tìm lại vai trò khai
quang, khai phá trong hoàn cảnh xã hội mới với những điều kiện mới.
Trong tình hình khoa học
hiện tại, “ý niệm khai sáng” được sử dụng lại một cách đa dạng trong xã hội học
như là một hiện tượng xã hội: “khai sáng ứng dụng” (angewandte Aufklärung) của
Dahrendorf, “phản khai sáng” (Gegenaufklärung) của Gehlen, “khai sáng xã
hội học” của Luhmann.
Trên lãnh vực truyền
thông và công luận, khái niệm này thường được sử dụng để biện minh hay che đậy
những thủ thuật xúi dục hay dụng ý đối nghịch khai sáng.
Trong những cuộc thảo
luận hoặc tranh chấp công khai giữa các định chế khác nhau (tư bản- cộng sản)
hay hệ thống văn hóa khác nhau (độc tài - dân chủ) trên các lãnh vực chính trị,
triết học, khoa học, triết học hành động, đạo đức học, khai sáng vẫn được đưa
ra như một phương thức cho hành động bao gồm những tiêu chuẩn quyết định cho
một kế hoạch.
1.3. Góc nhìn Việt Nam
Trong khuôn khổ của thảo
luận “khai sáng và tiến bộ”, một hiện tượng liên hệ đến trí thức Việt nam là
phong trào tranh đấu, cả trong lẫn ngoài nước, cho hòa bình tại Việt Nam trong
những thập niên 60, 70. Ở đây ý niệm “tiến bộ” đã được sử dụng trong các
tranh luận công khai giữa hai hệ thống tư tưởng “tư bản và cộng sản”, “thuộc
địa và giải phóng”, “đế quốc và nhược tiểu, chậm tiến” trở nên những khái niệm
chủ đạo trên bình diện tranh chấp vũ lực giữa các quốc gia và đảng phái tại Âu
châu trong tương quan chiến tranh lạnh, tại Việt Nam, trong tương quan chiến
tranh “giải phóng”. Một thời, nhiều trí thức Việt Nam tự cho mình thuộc phe
“tiến bộ”, và nằm trong trào lưu “khai sáng tiến bộ” khuynh tả của Âu châu
trong thế đối nghịch với phe bảo thủ, với những tiêu chuẩn và phương tiện thực
hiện trùng hợp với lý tưởng của thời khai sáng: hòa bình, tự do, bình đẳng
trong tiến bộ khoa học. Phong trào “tiến bộ” trong suy luận của nhóm trí thức
này vô hình chung phản ánh lại sự sôi động của thời khai sáng cũ chưa được phản
tỉnh trên mức độ phê phán, mặc dù “phong trào tiến bộ” tự cho mình đang ở vị
trí của lý trí phê phán những thực tại lịch sử đang diễn biến trong hiện tại.[5]
1.4. Thời sự khai sáng
Sự sụp đổ của chế độ
cộng sản như là thành phần của ý niệm khai sáng tiến bộ tại Ðức và Nga đã đưa
Fukuyama trong quyển Cáo chung lịch sử đi đến nhận định tuy
khá vội vàng nhưng phản ánh suy nghĩ nhất thời phổ thông hiện nay, rằng từ
đó “chế độ tư bản” được mặc nhiên chính danh như là con đường duy nhất
của sự tiến bộ[6], từ đó lịch sử con người không cần
phải viết thêm và ta có thể tuyên bố sự cáo chung lịch sử. (Chúng ta sẽ trở lại
cuộc tranh luận về tiến bộ giữa Habermas và Fukuyama trong phần 3 dưới
đây).
Ở đây cho thấy hơn một
lần tính mâu thuẫn hay thế kẹt (Aporie) của khai sáng nằm chính trong ý niệm
tiến bộ mà Kant cho là thiên chức thiêng liêng của con người. Bởi vì trong lúc
lý trí con người khởi sự triển khai và thực hiện ý niệm này, tri thức mà nó
thâu lượm được rốt cùng chỉ là thấy rõ được giới hạn của nó là không thể “tiên
tri” được tiến bộ trong tương lai. Kết quả của khai sáng do đấy có thể không
nằm trong dự đoán, nhưng là hiện trạng xã hội có tính lịch sử dang dở mà “khai
sáng” lại phải khởi đầu đặt vấn đề để thoát ly ra khỏi sự lệ thuộc vào những
điều kiện có tính tiêu cực của xã hội đang làm cho con người trở thành nô lệ
hay một công cụ của các thế lực kìm hãm tiến bộ và tự do…
1. 5. Vẫn còn tồn tại
vấn đề khai sáng
Như thế với những luận
cứ hợp lý chú trọng đến hoàn cảnh thực tại, khai sáng vẫn là sự thức tỉnh của
chính con người, – để dùng một danh từ khác với thuật ngữ tây phương
– tìm cách thoát ly và giải phóng khỏi những điều kiện xã hội, lịch sử
tiêu cực trong đó con người đang hứng chịu, từ đó đóng góp cho sự tiếp tục tiến
đến sự hoàn thành lịch sử tự do. Trong tương quan này, chúng ta trở lại với ý
niệm khai sáng mà Kant đã đưa ra như một ý niệm chủ đạo điển hình có thể làm
nền tảng cho những cuộc thảo luận tiếp về vấn đề khai sáng:
“Khai sáng là sự thoát
ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra. Vị
thành niên là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập
mà không cần sự chỉ đạo của người khác…Hãy có can đảm sử dụng trí tuệ của chính
mình! Ðó là phương châm của Khai Sáng”[7]
Quan niệm về khai sáng
của Kant, trao trả sự tự chủ (Autonomie) và tự do (Freiheit) cho con người khi
sử dụng trí tuệ của mình để “trưởng thành trong hành động” có nghĩa con
người hoàn toàn có khả năng trau dồi đức hạnh và tạo dựng hạnh phúc cho chính
mình, nói lên được đặc tính tiêu biểu của khai sáng Âu châu. Ðịnh nghĩa
này vừa nói lên khái niệm khai sáng của thế kỉ 18, tiêu biểu cho tư tưởng Âu
châu, vừa đưa ra một cái nhìn phê phán triết học về tiến trình khai sáng: khai
sáng chỉ có ý nghĩa trong tương quan giữa khai sáng và lịch sử về tự do của con
người.
Ðịnh nghĩa về con người
“trưởng thành” mang một nội dung mới so với quan niệm truyền thống cổ điển Âu
châu, khác với quan niệm cổ điển, con người không phải là một thực thể phụ
thuộc một đấng thần linh sáng tạo ra nó, và do đấy không mang tính thời gian và
lịch sử. Ngược lại, con người của thời khai sáng là một chủ thể tạo lịch sử của
chính nó. Nói cách khác, lịch sử là tác phẩm của con người, trong ý nghĩa lịch
sử về sự giải phóng khỏi tình trạng xã hội tiêu cực hoặc, nói rõ hơn, về sự
thực hiện tự do của con người trong xã hội. Những triển khai kế tiếp sẽ cho ta thấy
tính đặc thù của Khai sáng tây phương đồng thời dẫn đến sự tương đồng và dị
biệt giữa hai nền văn hóa Tây Ðông trong tương quan nói trên, điển hình với
quan điểm “minh minh đức” và chữ “nhân” của Khổng học và quan niệm “giác ngộ và
giải phóng” trong tri thức luận và giải thoát luận của Phật giáo, mà có lẽ
trong những bài viết sắp tới sẽ đề cập đến.
Trước khi nói về tương
quan nói trên để hiểu rõ cơ cấu các cuộc thảo luận về khai sáng, vài dòng sơ
lược về “khai sáng” tại Anh, Pháp và Ðức.
2. Các phong trào khai sáng nguyên thủy ở Anh, Pháp và Ðức[8]
2. Các phong trào khai sáng nguyên thủy ở Anh, Pháp và Ðức[8]
2. 1. Phong trào khai
sáng tại Anh
Ý niệm tự do hay chủ
thuyết tự do là một trong hai đặc điểm của phong trào khai sáng Anh, một chủ
thuyết tự do trong nghĩa điển hình cá nhân chủ nghĩa nằm trong triết học của
John Locke (1622-1704).[9] Lý thuyết của Locke về
các quyền tự nhiên (naturrechte) bất khả xâm phạm, tuyệt đối của cá nhân (không
thể có một thỏa ước nhà nước nào có thể xóa bỏ), về những quyền nguyên thủy của
mỗi con người không thể nhượng bán, đổi chác được, về tư tưởng phát triển tự do
cho nhân cách cá nhân (Persönlichkeit) không có sự bắt buộc và rập mẫu, về đòi
hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước để tránh mọi lạm dụng thế lực đơn phương
đã mọc rễ ở Âu châu. Locke trở nên đạo sư của thế giới tây phương về ý niệm tự
do.
Montesquieu, Voltaire
triển khai những tư tưởng triết học nhà nước của Locke, Jean Jacques Rousseau
lấy lại tư tưởng giáo dục của ông để quảng bá cho lý thuyết của mình và thuyết
phục Âu châu bằng sự hùng biện vượt xa Locke. Tràn qua châu Mỹ, những tư tưởng
của chủ thuyết tự do đã trở nên nền tảng tư duy về lý thuyết và hành động tại
đây, và không những ở Mỹ, mà khắp nơi trên thế giới ý niệm tự do của thời khai
sáng và những lý thuyết về nhân quyền đã trở nên những ý niệm cơ bản mọc rễ hầu
như trong tất cả các hiến chương của thời tân tiến, trong những điều được gọi
là quyền cơ bản của con người.
Song song với ý niệm tự
do, quan điểm khai sáng của Anh được hình thành trên lãnh vực tư tưởng tôn giáo
với chủ thuyết duy thượng đế “Deismus” vượt ra ngoài lý thuyết Ki tô giáo
(Christentum). Tuy lấy tên là lý thuyết duy thần hay duy thượng đế (“Deismus”
có nghĩa là “lòng tin thượng đế”), nhưng ý niệm thượng đế ở đây hoàn toàn là
thượng đế của tôn giáo lý trí (Vernunftreligion), một thuợng đế theo ý nghĩa
của chủ thuyết duy máy móc (Mechanismus) đến từ lý thuyết cơ bản của khoa vật
lý cổ điển, độc lập với niềm tin đấng cứu thế của thiên chúa giáo. Từ quan điểm
vật lý học về một bộ máy vĩ đại thế giới, về liên hệ nhân quả và tính quy luật
chặc chẽ của tiến trình hoàn cầu không bị ngẫu nhiên ô nhiễm, ý niệm thượng đế
chỉ được hiểu như một vị thần của bộ máy vũ trụ. Ý niệm này thanh lọc tất
cả những gì siêu nhiên, ngoại hạng, đầy phép lạ theo kinh điển, nó là khởi
nguyên của bộ máy hoàn cầu nhưng một khi vận hành, bộ máy chuyển động theo quy
luật tự nhiên không cần đến sự can thiệp của thượng đế. Khoa học thời tân tiến
tin tưởng chắc chắn vào tri thức khoa học đến nỗi không tin cái gì khác ngoài
điều mà khoa học suy luận có thể có được. Với lòng tin khoa học hầu như không
tự phản tỉnh về chính tiêu chuẩn của khoa học và lại dựa trên những điều kiện
của chính khoa học, những nhà “tư tưởng tự do” (Freidenker) như Edward
Herbert (1583-1648) chủ trương tôn giáo lý trí. Tôn giáo của lý trí trở nên
tinh thần thời đại của thời khai sáng, là tôn giáo đích thực trong lúc Ki tô
giáo trở nên một tôn giáo xưa cũ, huyền bí và đầy mê tín dị đoan. John Toland
(1696, Christianity not Mysterious), Matthew Tindal (1730, Christianity
as Old as The Creation). Thoạt tiên chủ trương của họ chỉ giới hạn vào
trong giới thượng lưu như một học thuật riêng biệt không được phổ biến cho quần
chúng.
2. 2. Phong trào khai
sáng tại Pháp
Phê phán tôn giáo trở
nên cực đoan và quyết liệt là một đặc điểm của phong trào khai sáng tại Pháp.
Luận chứng của chủ nghĩa vô thần và duy vật chiếm ưu thế trong các cuộc tranh
luận và phê bình thiên chúa giáo cũng như nhà thờ với ý hướng không phải để cải
thiện mà để dẹp bỏ. Có thể nói sự ly khai khỏi ảnh hưởng tôn giáo qua thế lực
của nhà thờ và giáo điều kinh viện là một trong những điều kiện để các nghiên
cứu khoa học được thực hiện một cách độc lập trên mọi lãnh vực. Chính sự tiến
bộ khoa học hình thành trong tương quan đối nghịch với nhà thờ trong các thế kỉ
17, 18 vừa là một kết quả ưu việt về văn hóa, công nghệ, vừa là một vấn đề gây
ảnh hưởng rạn nứt sâu đậm trên nhân sinh quan và thế giới quan (khoa học và tôn
giáo) của xã hội tây phương cho đến ngày nay.
Ở đây tưởng nên nêu rõ
việc hiểu lầm của đa số người Ðông phương ngoài cuộc cho rằng thiên chúa giáo ở
các nước Tây phương đã đóng góp cho tiến bộ khoa học. Thật sự, chính sự
ly khai và lắm lúc xung đột đối nghịch với giáo điều thiên chúa giáo và thế lực
tôn giáo (mà Kant cho rằng đây là những thế lực làm cho con người bị lệ thuộc
nhiều nhất) là một trong những động cơ thúc đẩy sự phát triển của khoa học và
thành tựu tiến bộ ngày nay.
Trên lãnh vực chính trị,
khai sáng Pháp sôi động trong sự chờ đợi cách mạng và thực hiện cách mạng
(1789). Ý niệm tiến hóa (evolution) đối với trào lưu này trở nên lỗi thời so
với cuộc cách mạng (Revolution) chỉ chực bùng nổ. Sự nồng nhiệt làm cho chính
những người được ưu đãi trong cách mạng (Pháp) cũng không được “khai sáng” hay
lý giải được rõ rệt những nghi vấn nằm trong khẩu hiệu hô hào cách mạng.
Tất cả đều cho Lý Trí,
Tự Do và Tiến bộ
Người mở đường khai sáng
Pháp Pierre Bayle (1647 – 1705), tác giả của cuốn Từ điển Lịch Sử và
Phê Bình (Dictionnaire historique et critique) nổi tiếng, chủ
trương không thoả hiệp giữa lý trí và tôn giáo, đưa ra tinh thần hoài nghi và
phê bình môn siêu hình học. D’Alembert và Diderot chủ biên tác phẩm tiêu biểu
của thời khai sáng Pháp: cuốn Bách Khoa Từ điển (Encyclopedie).
Khi ra đời, công trình đồ sộ này đã đuợc xem là biểu hiệu cao độ thành tựu khoa
học và tinh hoa tinh thần của mọi người và mọi thời.
Jean Le Rond
d’Alembert (1717-1783) không phải là người vô thần nhưng ông chống đối mọi
cuồng tín tôn giáo của cơ đốc giáo, chủ trương bao dung và tự do lương tâm.
Trong thư viết cho Đại đế Frederick ngày 30-11-1770, d’Alembert mô tả lý tưởng
tôn giáo của bác ái và sự tôn thờ thượng đế tâm linh hoàn toàn độc lập với giáo
điều của Paulus, của các vị lãnh đạo nhà thờ và các kinh sách. Trong một bức
thư khác ông yêu cầu vị vua này xây một đền để tôn thờ tính nhân loại và công
bằng xứng đáng với thượng đế.
Không như
d’Alembert, Denis Diderot tự nhận là một người vô thần. Chịu ảnh hưởng của
David Hume và những nhà tâm lý học liên tưởng (Psychologie der Assoziation) có
khuynh hướng duy vật, Diderot trở nên nhà lãnh đạo học phái duy vật của phong
trào khai sáng Pháp. Trường phái này đã gây sôi động một thời với J. de La
Mettrie (1709-1751) (tác phẩm: L´homme machine, 1748), Paul-Henri
d’Holbach (1723-1789), Claude Adrien Helvetius (1715-1771), Etienne Bonnot de
Cadillac (1715-1780) và nhất là nhà tâm lý học duy vật Pierre-Jean-Georges
Cabanis (1757-1808) với lời tuyên bố “thể xác và tinh thần hoàn toàn chỉ là
một: chỉ có một môn khoa học về con người; và sinh thể học, tâm lý và đạo đức
học chỉ là ba ngành của một khoa học duy nhất: Những dây thần kinh: đó là tất
cả con người”. Ông là người tiền phong của khoa tâm lý học và của khoa nhất
nguyên luận tân tiến (moderner Monismus) về sau.
Nhưng hiện thân
của phong trào khai sáng Pháp thật sự là Voltaire (1694-1778), thiên tài văn
học người Pháp và kẻ tiên phong tranh đấu cho lý trí, tính khoan dung và quyền
con người. “Người đã trao tặng cho tinh thần nhân loại sức mạnh xung kích mãnh
liệt, người đã chuẩn bị chúng ta thực hiện tự do”, đó là câu đề trên quan tài
của ông. Tất cả sức mạnh của phong trào khai sáng là nằm trong câu đó. Trong
khoảng hai thế kỉ, Voltaire là linh hồn của cả phong trào. Tuy không phải
là một tư tưởng gia chính xác và sáng tạo, Voltaire có biệt tài thu hút người
khác, không bằng lý luận triết học chặt chẽ mà bằng văn chương. Ðọc Voltaire
độc giả có cảm tưởng văn chương đồng nghĩa với khoa học trong sự hùng biện và
sắc sảo của nó. Voltaire đả kích chế độ cường quyền của Louis XV và sự thiếu
khoan dung của nhà thờ Ki tô giáo và giáo điều của nhà thờ. Cội rễ của mê tín
và cuồng tín, theo ông, là nguyên nhân gây trở ngại cho thời đại khai sáng.
Nhưng Voltaire không phải là vô thần như địch thủ của ông gán cho. Chịu ảnh
hưởng của những nhà tư tưởng tự do Anh và chủ thuyết thực nghiệm cũng như vật
lý học của Newton, ông đã biến lý thuyết của họ thành cơ sở căn bản cho triết
học của Pháp ở thế kỉ 18 (qua tác phẩm Elements de la philosophie de
Newton (1788)).
Cũng trong tinh
thần ấy, Montesquieu (1689-1755) đã gây ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới
với quyển L´Esprit des lois. Trong tác phẩm này, tư tưởng tự do,
không mang định kiến, đã vạch ra một lối nhìn mới, khách quan, và đầy triển
vọng giáo dục về lý thuyết pháp luật. Montesquieu dùng phương pháp so sánh,
trình bày liên hệ chặc chẽ giữa sự ban bố luật pháp với những điều kiện tôn
giáo, xã hội, nơi chốn và khí hậu thời tiết của mỗi dân tộc. Nguyên tắc tối cao
của đời sống quốc gia luôn luôn được nhấn mạnh nhằm phục vụ sự an lạc của dân
tộc và sự tự do của người công dân. Dưới ảnh hưởng của triết học Locke,
Montesquieu chủ trương phân quyền thế lực quốc gia (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) để bảo vệ quyền tự do. Với tác phẩm nói trên ảnh hưởng của Montesquieu
vượt xa tư tưởng của Locke khi được truyền bá trong tất cả ngôn ngữ văn hóa thế
giới.
Rousseau (1712-1778) là
một trong những nhà khai sáng lớn nhất của Pháp, nhưng thật sự lại là người
vượt qua, hay phê bình khai sáng, là đối thủ của Voltaire và kẻ đả kích những
nhà bách khoa tự điển. Rousseau cũng chủ trương tiến bộ, tự do và hạnh phúc của
nhân loại, nhưng với những phương tiện khác. Trong lúc Voltaire là nhà duy lý
và duy trí thức, thì Rousseau là người của tình cảm và của con tim. Trong tất
cả các tác phẩm của ông, tiếng nói tâm truyền tâm là ngôn ngữ chính, mà tác
phẩm Julie, ou La Nouvelle Helois (1761) được xem là tiêu
biểu, làm cho tác giả của nó trở nên nhà tiên tri của thời “Sturm und Drang”
(Giông tố và khát vọng) trong lịch sử văn hóa loài người.
Rousseau có biệt
tài nói lên được những ước vọng uẩn khúc của toàn thể nhân loại mà những lý
thuyết vô tâm của tư tưởng duy lý và duy vật không thể đáp ứng, do thế ông trở
nên người của cách mạng Pháp và tuyên ngôn của nó về nhân quyền. Tất cả ý hướng
của Rousseau có thể thu gọn trong mấy chữ: “trở về với thiên nhiên”. Thiên
nhiên do đấy là khái niệm chủ đạo trong triết học văn hóa và xã hội của
Rousseau. Ông chống lại mọi khuynh hướng văn hóa bị mài dũa đến mất bản chất,
mọi sự trau chuốt và xa xỉ. Nhân loại nên trở về với sự đơn giản của thiên
nhiên, trở về với đức hạnh công dân, với sự đắm mình trong hạnh phúc gia đình,
một thứ hạnh phúc lý tưởng ngược lại với những mâu thuẫn giai cấp cũng như
những hình thức quá đáng của các tổ chức nhà nước và tôn giáo. Theo ông, tất cả
những tác tạo văn hóa đều che đậy con người thực chất nguyên ủy. Chỉ trong
thiên nhiên, con người mới bình đẳng, tự do và là huynh đệ thực sự.
Ðể bảo đảm tự do
và bình đẳng Rousseau chủ trương chế độ dân chủ cực đoan và chủ quyền nhân dân.
Nhà nước do đấy chính là người dân, nhà nước không gì khác hơn là một khế ước
xã hội (contrat social) tự do, thể hiện ý muốn của người dân được xem là những
công dân (citoyen), mà những công dân này đều là những con người tự do, bình
đẳng và thiện hảo. Xã hội của Rousseau là thiên đường trên trần thế, ngược lại
với xã hội của con người thú dữ của Hobbes. Sự giáo dục con người trong thiên
đường lãng mạn và lý tưởng này do đấy hoàn toàn không bị ràng buộc về mọi
phương diện. Rousseau cho rằng ý niệm thượng đế không thuộc lãnh vực tri thức
và trí tuệ mà thuộc về cảm giác và con tim. Lòng tin vào thượng đế qua con tim,
vào đức hạnh và bất tử là yếu tố cơ bản của tôn giáo.
Quan điểm của
Rousseau bị tất cả các khuynh hướng từ mọi lãnh vực chống đối, và tác phẩm của
ông đã bị quốc hội ra lệnh đốt sạch. Thật sự những khái niệm thiên nhiên, văn hóa,
bình đẳng, nhân loại qua ngòi bút đam mê của Rousseau quá đa diện, mập mờ để
xác định đúng ý nghĩa của chúng. Trong phong trào khai sáng, Rousseau đưa ra
một chủ trương ngược lại với ý niệm tiến bộ mà ánh sáng của lý trí đem đến; ý
niệm đã nuôi dưỡng chủ nghĩa lạc quan văn hóa thời khai sáng. Rousseau từ chối
điều này, do đấy tuy ở trong thời khai sáng, ông được xem là người vượt qua
phong trào này, với một ảnh hưởng vũ bão cho những trào lưu kế tiếp trên chính
lãnh vực văn hóa của toàn thế giới.
2. 3. Phong trào khai
sáng tại Ðức
Trong giai đoạn phôi
thai (1690-1720), phong trào khai sáng ở Đức có khuynh hướng trở về với ý thức
chủ thể thế tục theo kiểu thời Phục hưng. Con người được chú trọng hơn vũ trụ
và khoa tâm lý học chiếm vai trò chủ yếu hơn khoa siêu hình học, con người là
một thực thể cảm giác với những tham muốn quyền lợi cần được khảo sát. Sự đối
kháng với siêu hình học của Aristotle, việc muốn tìm hiểu con người trong thể
tính toàn diện của nó, cũng như khoa thần học và giáo điều dựa vào Aristotle và
kinh viện là một trong những đề tài thảo luận của khai sáng Ðức trong giai đoạn
đầu. Từ đó trật tự luật pháp được Christian Thomasius (1655-1728) quan niệm như
là một trật tự cho đời sống bản năng và cảm xúc dưới sự tham khảo ý tưởng lợi
ích, và như là những biện pháp ngăn chận sự lạm dụng ích kỉ riêng tư do bản
năng ham muốn chiếm hữu, tham vọng, sở thích thỏa mãn thể diện… gây ra. Pháp
luật không phải là bổn phận đạo đức nội tâm liên quan tới những nguyên nhân
tiềm ẩn siêu việt nào đó mà là tính lợi ích đã được cân nhắc khôn ngoan và do
những phương tiện thế lực nhà nước bắt buộc cho một tổng thể cá nhân. Ðó là lý
tưởng đời sống của thời khai sáng. Con người trí thức (homo sapiens) biết dùng
lý trí để chế ngự cuộc sống và kiến tạo hạnh phúc cho mình mà không sợ trở
thành một loại công dân tiểu tư sản. Quan điểm này từ chối những lý tưởng của
thế giới giác tính (mundus intelligibilis), theo kiểu Plato, Aristotle, có
nguồn gốc nhân bản từ ảnh hưởng của các chủ thuyết duy cảm giác (Sensualismus)
và chủ thuyết duy lợi ích của Hobbes và Locke. Trên bình diện tôn giáo, một
khuynh hướng tôn giáo mới đưọc nảy sinh: khuynh hướng ngoan đạo “Pietismus”,
trong đó tôn giáo không gì khác hơn là cảm giác, là đức tin đóng kín đối với
bên ngoài, không phải là tri thức (Wissen) về thế giới. Thế giới có bước đi
riêng. Với “Pietismus”, con người vẫn tại thế và thuần tín. Ảnh hưởng của
Luther và Socrates là những nét nổi bật trong đức tin và đức hạnh của giai đoạn
khai sáng này.
Christian Wolff
(1679-1754) và trường phái của ông đánh dấu giai đoạn kế tiếp của khai sáng Ðức
với chủ thuyết duy lý và sự kế tục truyền thống kinh viện (Scholastik), mặc dù
ông vẫn trung thành với những lý tưởng của thời khai sáng như đức hạnh, hạnh
phúc và tiến bộ. Tri thức và đức tin, siêu hình học và tôn giáo (ở đây là thiên
chúa giáo) không còn bị phân rẽ như trong giai đoạn trước, mà ngược lại siêu
hình học kinh viện cổ điển được hồi sinh với công trình học thuật của ông. Ðối
với Wolff siêu hình học là bước chuẩn bị tiến đến thượng đế. Tuy thế ông lại bị
kết án là kẻ vô thần, bởi vì người ta cho rằng tôn giáo của Wolff không phải là
“đức tin” mà chỉ là siêu hình học duy lý. Trong ảnh hưởng của tư tưởng triết
học Leibniz, Wolff cho rằng lý trí và lòng tin không mâu thuẫn nhau. Ở điểm này
Wolff vẫn trung thành với tư tưởng chủ đạo của “nền triết học muôn thuở”
(philosophie perennis) phương tây đã được xây dựng từ Plato. Ông nổi tiếng là
người bình dân hóa học thuyết duy lý của Leibniz. Ảnh hưởng học thuật của ông
rất rộng lớn. Khi Kant phê bình nền siêu hình học nhà trường và tuyên bố đã ra
khỏi giấc ngủ giáo điều, thì chính siêu hình học của Wolff là đối tượng mà Kant
đề cập.
Phong trào khai sáng Ðức
đạt đến cao độ (1750-1780) với Friedrich đại đế đệ nhị (Friedrich der Große II,
1712-1786), vị vua mà Kant ca ngợi là người đã ưu đãi, bảo trợ và thực hiện
khai sáng, một vị quân chủ đã được khai sáng. Ông đã quy tụ về Hàn lâm viện
Berlin (Akademie von Berlin) những nhà khai sáng lừng danh của Pháp: Claude
Adrien Helvétius đến thành phố Postdam sau khi tác phẩm Về Tinh Thần (De
L’Esprit) bị đốt ở Pháp, Voltaire vừa là bạn vừa là thượng khách, và Rousseau
đã được đón tiếp nồng hậu . Vương triều và hàn lâm viện nước Phổ cũng được
“Pháp hóa”. Trước đó những tác phẩm tôn giáo Duy Thượng Đế (Deismus)
của Toland và Tindal đã được phổ biến.
Tinh thần của giai đoạn
này nổi bật với khuynh hướng chống nhà thờ và chống thần học. Chủ thuyết
Deismus được Hermann Reimarus (1694-1768) triển khai, cho ta thấy rõ xu hướng
của chủ thuyết duy cơ giới (Mechanismus, mechanisme) đã thâm nhập vào hệ thống
tư tưởng tôn giáo duy lý trí (Vernunftreligion, religion de la raison). Thượng
đế, theo Reimarus, phải đạt được mục đích mà thượng đế đề ra bằng một trật tự
thế tục hợp lý và minh bạch, không mang một bí ẩn huyền thoại nào của giáo điều
thiên chúa về mặc khải. Có thể nói chủ thuyết duy cơ giới là thành tựu lớn nhất
của tri thức tân tiến., trong đó quan niệm cơ giới về thể tính sự vật và hệ
luận của nó về lý thuyết nhân quả đã được củng cố như khả tính tất
yếu tuyệt đối của vạn vật biến chuyển. Trên cùng quan điểm về tôn giáo duy lý
trí của Reimarus có Moses Mendelssohn (1729-1786) và Gotthold Ephraim Lessing
(1729-1781).
Lessing và tác phẩm của
ông là trung tâm điểm văn học của khai sáng Ðức. Thực chất ông là nhà phê bình
của những nhà phê bình, đã đưa ra những phê phán sắc bén về thánh kinh (Anti
Goeze, 1778) và trở nên một gương mẫu cho những nhà phê bình tôn giáo từ đó về
sau dùng làm mực thước để phê bình thánh kinh. Tôn giáo đối với Lessing không
phải là điều gì đã trọn thành như một giá trị cố hữu, song là những giai đoạn
trên con đường của cả nhân loại. Chính tinh thần con người uốn nắn con người,
và vẫn mãi mãi tiến bước trên con đường dài mà mỗi sự trở thành trên con đường
ấy lại bị vượt qua. Từ đó, theo Lessing, không có một chân lý vĩnh viễn trường
cửu, cũng không có một sự sở hữu chân lý, mà chỉ có sự cố gắng đạt đến chân lý,
chính sự cố gắng này làm nên giá trị con người. Cũng chính trong sự vươn lên
không ngừng này con người cảm nhận được tính bất tử của chính mình và của nhân
loại. Trong sự tái sinh luôn luôn mới mẻ, con người đang tham dự vào tiến trình
hoàn thiện vô hạn. Ðối với Lessing, tất cả đều tương đối, giới hạn, chỉ có lý
trí là vô cùng. Hình ảnh con người vô hạn (unendlich, infini) của Lessing là
hình ảnh con người sống dậy thời phục hưng và trở nên tiêu biểu cho thời khai
sáng. Ý niệm vô hạn là một ý niệm mà Leibniz và Nikolaus Cusanus dùng khi nói
về tri thức con người; nhưng ý niệm này đi từ nhận định rằng tri thức chúng ta
chỉ có có thể tiếp cận những giá trị gần đúng về đối tượng mà không nắm bắt
trọn vẹn được bản thể của đối tượng, bởi vì tinh thần con người - hữu hạn trong
hiện sinh của nó - chỉ tham dự một phần nào vào những ý niệm bản thể vĩnh cửu
mà thôi. Dưới ảnh hưởng của phái thường nghiệm (Empirismus, empirism) và chủ
thuyết hoài nghi, phong trào khai sáng đã từ khước nền siêu hình học cổ điển để
nhường chỗ trọn vẹn cho “con người và tinh thần của nó”, nhân và tâm (Mensch
und Geist, homme et esprit, man and mind). Họ cho rằng chủ thể - con người lịch
sử tại thế - và khả năng tri thức của nó, tức là Lý Trí, có thể thực hiện
tự do mà không phải dựa vào một mãnh lực ngoại tại siêu việt nào khác. Đây là
một thái độ lạc quan, tin vào sức mạnh tinh thần của con người, từ đó mục đích
cao cả nhất của mọi lý thuyết thánh hiền - trong đó Khai sáng như thiên
đỉnh tư tưởng thời tân tiến,- nhằm phục vụ lợi ích nhân sinh trong bước
tiến bộ của cọng đồng nhân loại.[10]
Chính ở quan điểm này
Kant đã tiếp tục ý nghĩa khai sáng trong cái nhìn phê phán Lý tính của ông.
3. Khai sáng trong tiến trình xây dựng lịch sử về tự do
3. Khai sáng trong tiến trình xây dựng lịch sử về tự do
Như trên đã nói, trong
hoàn cảnh hiện tại, tranh luận về khai sáng chỉ có ý nghĩa trong cái nhìn toàn
diện về mối tương quan giữa khái niệm tự do và quá trình lịch sử con người thực
hiện tự do, được rút từ những lý thuyết khai sáng, từ đó có thể lý giải ý nghĩa
xây dựng tích cực của mối tương quan này.
Kant, Hegel và Marx là
những triết gia đã đưa ra những lý thuyết về khai sáng nhưng đồng thời đã có
những phê phán về tiến trình lịch sử khai sáng.
Ngược lại với quan điểm
nhân sinh quan của truyền thống tư tưởng Hy lạp cho rằng tự do và lịch sử nằm
trong nguyên lý của vũ trụ hay trong vòng luân chuyển của khởi nguyên và hủy
diệt, và cũng ngược lại với quan điểm của ki tô giáo thời trung cổ cho rằng nền
tảng liên hệ cuối cùng của tự do và lịch sử là sự cứu rỗi, là mặc khải sáng
tạo, giáng sinh, phục sinh của đấng cứu thế vượt trên mọi đổi thay, suy vi của
lịch sử trên thế gian, Kant, Hegel và Marx không quan niệm phải chờ đợi sự kiện
toàn (Vollendung, accomplissement, accomplishment) hành trạng tự do theo bước
thăng hoa vươn lên đến cấp bực thần linh vĩnh viễn, siêu việt hẳn lịch sử con
người cũng như ở sự tham dự của con người vào thần linh tính ấy. Theo Kant,
Hegel và Marx, sự kiện toàn tự do này chỉ có thể đạt được chính từ sự kiện toàn
lịch sử con người tại thế.
Trong tất cả các sự khác
biệt về lý thuyết lý giải tự do và lịch sử của họ, cả ba cùng chia xẻ một quan
điểm chung, cho rằng “lịch sử của tự do là…công trình của con người”. Đối với
họ, điều đó đồng thời cũng có nghĩa rằng tự do mà con người tạo nên không phải
là kết quả của hành vi tuyệt đối tự do của con người. Con người làm nên lịch sử
trong những hoàn cảnh không phải do chính con người lựa chọn, con người là kẻ
nhận lãnh hoàn cảnh đã có sẵn từ trước còn để lại trực tiếp cho nó. Trong ý
nghĩa ấy, hành động của nó không tuyệt đối tự do. Nhưng chính trong điều kiện
không tự do ấy con người khởi sự làm nên tự do hay lên đường giải phóng.[11] Ðiều kiện tính lịch sử của hành động con người
cũng như sự không trùng hợp giữa dự thảo nhân tính và kết quả lịch sử đã được
Kant đề ra, khi Kant nói về “Tính hợp quần mà không hợp quần” (ungesellige
Geselligkeit) của con người và “ý định của thiên nhiên” cũng như Hegel nói về
“xảo thuật của lý trí” (List der Vernunft). Trong con người hàm chứa nhiều yếu
tố mâu thuẫn: giữa xã hội và cá nhân, giữa bản năng và trí tuệ, giữa sáng và
tối. Khai sáng muốn đẩy mạnh sự thăng tiến nhưng những lực cản lại nằm trong
chính con người và trong hoàn cảnh xã hội.
Do đấy, Khai sáng đối
với Kant, Hegel và Marx không có nghĩa là sự xây dựng tiền nghiệm một tiến
trình lịch sử phổ quát, cũng như sự kiến tạo tiến trình tự do và giải phóng,
theo đường thẳng và một chiều. Khai sáng đối với họ là sự phân tích phê phán để
xem mỗi một tình trạng đã đạt được có tự do hay không tự do, có nghĩa là phản
tỉnh, là tư duy tiên đoán về những phương tiện và mục đích khả thể hầu hổ trợ
việc thực hiện tự do trong tương lai.
Ðiều này chứng tỏ sự
khác biệt của họ đối với quan điểm của Francis Bacon, Condorcet và Auguste
Comte trong giai đoạn khai sáng trước. Ba tác giả này khẳng định tiến trình
lịch sử là một tiến trình tiến bộ đường thẳng: tương lai nhân loại tất yếu là
phải khai sáng hơn và tiến bộ hơn so với hiện tại vì họ căn cứ vào những tiến
bộ của khoa học và công nghệ, vào khả năng chế ngự thiên nhiên ngày càng tăng,
vào sự hợp lý hóa (Rationalisierung) và khả năng kế hoạch hóa xã hội.
Kant, Hegel và Marx cũng
tách biệt khỏi những lý thuyết về lịch sử phổ quát phát triển của thế kỉ thứ
18. Họ cho rằng những lý thuyết gia khai sáng này quá lạc quan, tin rằng khai
sáng, tiến bộ, tự do và trưởng thành sẽ được tiếp tục triển khai trong xã hội
toàn cầu tương lai vì sự ưu việt đạt được của Âu châu trên các lãnh vực thương
mại, giao thông, khoa học và nghệ thuật, đào tạo và tôn giáo so với trước đó và
nhất là so với các dân tộc còn chậm tiến ở châu Phi, châu Á, và châu Mỹ.
Kant, Hegel và Marx phê
bình lý thuyết lịch sử phổ quát và các lý thuyết khai sáng khác có tính đường
thẳng ở điểm là những lý thuyết này cho rằng những nền văn hóa tiến bước tiếp
nối nhau theo thời gian. Họ không phê bình những mục đích do nhóm này đặt ra mà
phê bình tính trừu tượng của các lý thuyết ấy, cho rằng chúng thiếu sự tham
khảo yếu tố lịch sử xã hội.
3.1. Kant
Ðối với Kant, khai sáng
không những chỉ có ý nghĩa thoát ly của mỗi người khỏi tình trạng vị thành niên
do chính ngưới ấy gây ra mà còn có nghĩa vượt lên tình trạng tự nhiên của mỗi
người và của xã hội bằng một trạng huống chính trị - pháp lý. Ðịnh nghĩa con
người như một sinh vật tự do hành động theo lý tính đối với ông có nghĩa là
“con người tự tạo cho mình tất cả những gì vượt trên sự an bài máy móc của hiện
hữu thú tính của nó và không tham dự vào những loại hạnh phúc hay toàn hảo nào
ngoài hạnh phúc và hoàn thiện do chính nó tạo nên nhờ vào lý tính và sự độc lập
với bản năng.”[12] Do thế con người theo Kant có
thể “bị bắt buộc ra khỏi tình trạng thiên nhiên.”[13] Lịch
sử đối với Kant không phải là lịch sử về nguồn gốc và hậu quả cần được nghiên
cứu bằng những lý thuyết chú giải lịch sử (historisch-hermeneutisch) mà là
một loại lịch sử về tự do cần được thực hiện trên phương diện pháp lý
và chính trị qua thực hành (Praxis). “Mục đích tột cùng của văn hóa
‘đối với Kant là sự thực hiện’ hiến chương công dân toàn hảo,”[14] sự thực hiện ý tưởng về luật pháp (quyền hạn)
quốc gia, dân tộc và công dân toàn cầu. Sự thực hiện này sẽ đem đến cho mỗi
người và các dân tộc điều kiện thực thi tốt nhất sự tự do của mình. Luật pháp
và người lãnh đạo được khai sáng theo Kant là những điều kiện ngoại tại để
người công dân có thể sử dụng quyền tự do trong viễn tượng tiến đến một nền hòa
bình vĩnh cữu.[15]
Tuy nhiên, đối với Kant,
con người là một thực thể trong một thế giới đã được sắp đặt bởi những định chế
luật pháp chính trị, nhưng đồng thời cũng là một thực thể mọc rễ trong thiên
nhiên, trong điều kiện của bệnh tử, đầy ham muốn danh vọng, quyền lực thống trị
và sở hữu cũng như đặc tính hợp quần, bất hợp quần và mâu thuẫn với người đồng
loại. Trong chiều hướng cá nhân, xã hội và chính trị con người vẫn dính mắc
trong liên hệ chung có tính lịch sử với điều ác, đến nỗi nó không thể hoàn toàn
tự mình vượt khỏi liên hệ ấy. Cho nên Kant chỉ có thể nói ra điều hi vọng rằng
sau cách mạng Pháp và sự cố gắng thiết lập một hiến chương cộng hòa “mọi việc
không còn có thể trở lui trên đường rầy cũ nữa.”[16]
Song, đối với Kant, cũng không thể bảo đảm là trong tương lai sẽ có nhiều tự do
và khai sáng hơn. Theo ông, trong tất cả sự tiến bộ, nhân loại vẫn còn bị đe
doạ bởi cơ nguy tiếp diễn “trở lại tính sơ khai cố hữu.”[17]
Khái niệm ngẫu nhiên vẫn còn nằm trong tương quan đối nghịch với khái niệm tất
yếu lịch sử.
Theo Kant, con người
được ấn định, sinh ra để thực hiện tự do của nó trong lịch sử, nhưng con người
không thể chờ đợi để chắc chắn đạt được trong lịch sử vận mệnh cao quí nhất,
tính toàn thiện, hạnh phúc và mục đích cuối cùng của nó.
Trong triết học thực
tiễn, triết học về lịch sử và tôn giáo cũng như trong thảo luận về những vấn đề
thần luận (Theodizee) và về vấn đề “thực thể tối hậu” của ông, Kant lưu ý chúng
ta đến tương quan căng thẳng và khác biệt không thể hủy bỏ được giữa việc thực
hiện tự do trong lịch sử và sự bấp bênh không thể tiên liệu của con người trong
lịch sử; đây là vấn đề mà Kant chủ ý bỏ ngỏ. Do đấy đối với ông điều đó không
hoàn toàn phản lý trí khi ý niệm “thực thể tối hậu” được đưa ra như một định đề
(Postulat) cho lý trí thực tiễn với chủ trương: trong tất cả những phê bình về
thần học chủ đạo đương thời, cũng như trong những phê phán nhà thờ đã được củng
cố trong xã hội và quốc gia, những đoàn thể tôn giáo và tín điều của chúng, lý
tính được khai sáng vẫn còn nên cởi mở bao dung “cho một sự chào mời xa lạ, không nẩy nở trên mảnh
đất của nó nhưng vẫn đủ để được chứng thực.”[18]
Tự do trong định nghĩa
cao quí nhất của nó, đối với Kant, sẽ không có ý nghĩa, nếu con người không thể
hi vọng thực hiện tính toàn thiện dựa vào ý niệm thượng đế công bằng và ân
sủng, trong trường hợp con người chứng tỏ xứng đáng được thụ hưởng ân sủng ấy
qua hành động của mình. Từ tiền đề đó, Kant có thể tưởng tượng được nhà thờ là
một cộng đồng được thượng đế trao tặng, đóng góp vào việc thực hiện đạo lý và
xây dựng thiên đường (das Reich Gottes). Ở đây có thể hiểu tại sao trong hệ
thống tư tưởng của Kant, hiện tượng tôn giáo và định chế của nó vẫn có một chức
vụ nuôi dưỡng mầm hi vọng lạc quan trong chừng mực nó đã thanh lọc hết các tệ
hại và trở thành hình ảnh lý tưởng của một thiên đường hạnh phúc.
3.2. Hegel
Hegel cũng nhận thấy
tương quan tích cực giữa tự do và lịch sử khi suy nghĩ về sự tiếp tục thực hiện
“khai sáng chưa thỏa đáng”. Và chính ông cũng giải thích lịch sử như là lịch sử
về tự do (Freiheitsgeschichte). Trong viễn tượng tự do của con người và nhân
loại, theo Hegel, những thay đổi từ thế kỉ 17, 18 trong xã hội, chính trị, đạo
đức, tôn giáo đến từ sự giải thể xã hội Âu châu cổ đại cùng với những quan niệm
giá trị của chúng vẫn còn mập mờ (ambivalent). Ví dụ, theo Hegel, xã hội công
nghiệp tư sản đang hình thành vào thời ông có hai hậu quả. Một mặt, nó
giúp con người chế ngự thiên nhiên, phát triển thương mại và tạo phú cường. Mặt
khác, nó tạo ra những hệ thống nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu như “một thế lực
khủng khiếp lôi cuốn con người và đòi hỏi con người phải lao động phục vụ nó,
làm cho con người chỉ còn hiện hữu nhờ nó và làm tất cả vì nó.”[19]
Ðối với Hegel, quốc gia
tân tiến một mặt là “thực tại của tự do cụ thể”[20] trong
ý nghĩa của Locke. Nhưng mặt khác Hegel lại nhận thấy trong những định chế kinh
tế, xã hội, pháp lý và chính trị tân tiến đối với mỗi cá nhân là không tự do,
bởi vì “con người cá thể lại bị phụ thuộc vào những tác dụng bên ngoài, vào
luật pháp, vào những cơ sở quốc gia, vào những tương quan công dân mà con người
tìm thấy sẵn sàng đặt ra cho mình và phải tuân theo chúng, dù cho con người có
xem chúng thuộc về một phần nội tâm của mình hay không.”[21]
Đối với Hegel, ý niệm về
chủ thể tính một mặt là bước tiến bộ của bản thể tự tri có thể đưa con người
nhận chân và truy nhận ý nghĩa vô cùng của nó trong các lãnh vực pháp lý và nhà
nước, trong nghệ thuật, đạo đức và tôn giáo. Mặt khác, chính tiến bộ này
là nguồn gốc của phương hại, bởi lẽ “chủ thể tính tự đặt mình một cách tuyệt
đối” (die sich absolut setzende Subjektivität) và “chủ thể tính tự giam hãm
trong chính nó” (“die sich in sich verhausende Subjektivität”) rốt cùng vẫn còn
trực tiếp, cá thể riêng biệt và tùy nghi (beliebig).
Khai sáng, đối với
Hegel, một mặt giúp ta thấy được những gì “bây giờ nên có giá trị, chỉ thật sự
có giá trị …không phải do vũ lực, lại hiếm khi do thói quen và nghi lễ đạo đức,
nhưng chính do sự thấu triệt và căn cứ vào các lý lẽ.”[22]
Mặt khác chính do “khai sáng khai siết” (Aufklärerei) trong nghĩa tiêu cực mà
tinh thần (Geist, mind, l´esprit)) con người bước ra khỏi những thế giới quan
cũng như toàn thể tính được trình bày qua nghệ thuật và tôn giáo, đến nỗi nó
thường không thể đo lường được chừng mực tổn thất tinh thần của nó nữa.
Nếu theo Hegel, triết
học có nghĩa là “nắm bắt trong tư tưởng thời đại của nó” (“ihre Zeit in
Gedanken erfaßt”[23]) thì điều đó không có nghĩa là
triết học chỉ diễn đạt hoàn cảnh về sự tự do của mỗi cá nhân và của xã hội theo
lịch sử, mà chính là triết học có bổn phận phải diễn đạt hoàn cảnh ấy trong ý
nghĩa chân lý của nó. Hegel xem mục đích và nhu cầu cao nhất của triết học nằm
trong sự nắm bắt được, bằng tư tưởng, sự hoà giải tột cùng và tính toàn thể
trên mảnh đất của Tân tiến, mà mãi đến bây giờ điều ấy chỉ được vẽ ra bằng
tưởng tượng trong tôn giáo tuyệt đối. Mục đích ấy nằm ở sự tri thức được “bản
thể nội tại và cái trường cửu đang hiện tiền trong ảo tượng vô thường phù du.”[24]
Nhất là trong những lý
giải của ông về hóa thân (Inkarnation) và thiên chúa giáo, Hegel tìm cách chỉ
rõ trên quan điểm của tri thức tuyệt đối (absolutes Wissen, connaissance
absolut) lý do, tại sao lịch sử thế giới là một “tiến bộ trong ý thức về tự do”
(“Fortschritt im Bewußtsein der Freiheit”)[25] bằng
cách tái thiết lại lịch sử thế giới. Trình bày này của ông đa dạng nhưng không
phải luôn luôn thành công. Một trong những điểm không thành công là Hegel chưa
có đủ kiến thức và thông tin về Á đông trong khi ông cho rằng bởi vì ở Á đông
có một và ở thế giới Hy lạp-La mã có một vài người tự do, còn trong thế giới
“mới” do thiên chúa giáo và cách mạng Pháp tạo nên thì ý thức chủ đạo là tất cả
mọi người tự thân là tự do.
Lịch sử thế giới đối với
Hegel không những chỉ là một sự tiến bộ trong ý thức tự do, mà còn là một sự
tiến bộ đã được thực hiện trong những định chế khác nhau. Từ cách mạng tháng
7/1830 (Julirevolution), Hegel phải thừa nhận rằng những hoà giải đến từ tri
thức tuyệt đối đã bỏ sót hiện tượng mâu thuẫn xã hội, tinh thần, tôn giáo và
chính trị cũng như những đỗ vỡ, mà “thời đại chúng ta đang khốn khổ vì nó.” Mâu
thuẫn này phải được tương lai giải quyết cách khác hơn là Hegel tiên kiến.
3.3. Marx
Marx đặt vấn đề phương
pháp học để tìm cách tiếp tục tiến trình “khai sáng.” Tương tự như Kant
và Hegel, ông không phê bình ý niệm khai sáng và mục đích của thế kỉ 18 đặt ra,
mà phê bình tính trừu tượng không chú trọng yếu tố lịch sử trong tiến trình
khai sáng. Nhưng vượt xa Kant và Hegel, Marx phê bình những đòi hỏi của khai
sáng thế kỉ 18 và những người thuộc trường phái Hegel trẻ (Junghegelianer) muốn
đem đến những khám phá có tính lịch sử hoàn cầu qua con đường khai sáng, nhất
là ở điểm, trong lúc phê bình, không ai trong những triết gia này để ý đến “mối
quan hệ giữa phê phán và hoàn cảnh vật chất chung quanh họ.”[26]
Sự cải tổ cần thiết cho
ý thức không nằm ở việc đưa ra, một cách giáo điều, các lý tưởng và nguyên tắc
mới phản lại lý thuyết khai sáng lý tính trừu tượng, mà chính là nằm ở chỗ “nên
để cho thế giới tự ý thức được rằng nó được đánh thức ra khỏi giấc mơ về chính
nó, và được giải thích rõ về những động tác của chính nó.”
Chỉ qua “sự tự hiểu
(triết học phê bình) của thời đại về những tranh đấu và ước vọng của nó,”[27] theo Marx, ta mới có thể hiểu được, một cách có
ý nghĩa, lịch sử như là một tiến trình giải phóng, với một chủ thể lịch sử rõ
ràng, với những ảo tưởng và thăng tiến (Antizipation) có thể thực hiện cụ thể.
Do đấy, để lấy một ví dụ, khi Marx phê bình khái niệm trừu tượng về con người
hay nhân loại, thì đây không phải là chủ thuyết phi nhân bản lý thuyết như
Althuser nghĩ, hay là nhằm thay thế mục đích Nhân loại bằng mục đích siêu nhiên
(Nietzsche), mà là để thâu lượm được một phương pháp giải lý “con người thật
sự” trong những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị có thể xác định được trên
phương diện lịch sử. Từ cách đặt vấn đề phương pháp luận như thế, Marx từ chối
những cấu trúc lịch sử phổ quát rút ra từ những ý niệm và nguyên tắc tiên thiên
cũng như dựa vào các hoài niệm có tính lịch sử thế giới như các nhà khai sáng
thế kỉ 18 cho đến Kant, Hegel đã làm.
Ông không muốn viết
“điều vô nghĩa (Unsinn, Nonsens)) có tính thần học cũng như chính trị” về sự
khởi đầu của lịch sử.[28] Mục đích duy nhất của
Marx là sự phân tích về một xã hội nhất định, sự đối kháng của nó
(Antagonismus) và khả thể nội tại khắc phục sự đối kháng này. “Những mệnh đề lý
thuyết của chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn không nằm ở các ý tưởng, các nguyên
tắc, đã được nhóm cải thiện thế giới này hay nhóm kia sáng chế hay khám phá ra.
Chúng chỉ là những diễn tả tổng quát những tương quan thật sự của cuộc đấu
tranh giai cấp đang hiện hữu của một diễn biến lịch sử đang diễn ra trước mắt
chúng ta.”[29] Qua sự phân tích kinh tế, xã hội,
chính trị và triết lý về cuộc đấu tranh giai cấp này, Marx tin là có thể chứng
minh rằng giai cấp cách mạng của tư sản không những chỉ sản xuất người đào
huyệt chôn chính mình trong tầng lớp vô sản mà đồng thời cũng sản xuất ra chủ
thể sẽ đem đến sự thăng hoa và giải phóng cuối cùng cho nhân loại.
Marx đã không tiên đoán
được rằng, từ tư tưởng về một chủ thể được giải phóng thoát xác từ những “người
phu đào huyệt”, chủ thể này trong những hoàn cảnh xã hội nhất định lại trở
thành những người phu đào huyệt chôn luôn chủ thuyết của Marx trong ngày hôm
nay, nếu những người theo Mác xít không tìm được một viễn tượng thoát xác khác
trong chính tiến trình biện chứng lịch sử mà Marx đã đề ra và đã bị giản lược
hóa trong những trường hợp thực tiễn.
3.4. Những lý thuyết về
khai sáng trong thế kỉ 19 và 20
Nhưng không đợi đến cuối
thế kỉ 20, nếp nhăn (Pli) “khai sáng” lại càng được phản tỉnh hơn cuối thế kỉ
19 và 20 trong toàn diện vấn đề tiếp tục “lịch sử tự do”. Nếu khai sáng được
hiểu như một đóng góp vào việc tiếp tục thực hiện lịch sử tự do chưa hoàn tất
trong từng điều kiện lịch sử đã có sẵn, thì khai sáng phải phản tỉnh rằng,
chính nó cũng phải được đưa vào trong lịch sử tự do chưa hoàn tất, và do đấy,
nó cũng có khả năng bị tương lai vượt qua trong những phân tích của nó và những
sự thăng tiến (Antizipation) của mục đích hành động. Không thể có một giải pháp
có giá trị vĩnh viễn cho vấn đề khai sáng. Kant, Hegel và Marx đã không thể
tưởng tượng nổi, thế kỉ 19 và 20 đã thay đổi toàn diện những điều kiện tinh
thần và vật chất mà con người cá thể hay đoàn thể đã phải hành động dưới những
điều kiện ấy.Tuy nhiên lịch sử thế kỉ 19 và 20 đã làm thông rõ toàn bộ những
điều kiện hành động này. Sự tiến bộ trong ý thức về vấn đề khai sáng đòi hỏi
một phân biệt nối tiếp về ý niệm khai sáng và lịch sử tự do chưa hoàn tất.
3.4.1. Quan điểm tiêu
cực về Khai sáng
Thoạt tiên, sự biến
chuyển kinh nghiệm lịch sử và lý giải lịch sử có vẻ là một dấu hiệu đứng dừng, chứ
không phải là dấu hiệu tiến bộ của lịch sử tự do. Trong lúc Kant và Hegel vẫn
nhìn thấy một sự tiến bộ trong cuộc cách mạng Pháp mặc dù những thoái bộ của nó
không nhỏ, Georg Büchner (1813-1837) cảm thấy, sau giai đoạn lịch sử của cách
mạng này, chính ông “như bị tiêu diệt dưới chủ thuyết định mệnh xấu xa của lịch
sử.”[30] Ðối với Büchner, cách mạng không còn là
dấu hiệu của tự do mà đúng hơn là sự Vô tự do. Trong lúc Marx nhấn mạnh về sự
giải phóng cách mạng ra “khỏi truyền thống của những giống người chết” như một
“cơn ác mộng đè lên đầu những người sống”, và chờ đợi cuộc giải phóng cuối cùng
của nhân loại, thì cuộc cải tổ những rối loạn và biến chuyển do khai sáng và
cách mạng gây nên lại tìm nơi nương tựa trong những quan niệm về trật tự của Âu
châu thời cổ.
Những khía cạnh tiêu cực
đã đưa các nhà nghiên cứu nhận định rằng lịch sử không còn được xem là khung cảnh
liên hệ trực tiếp để từ đó ta có thể nhận ra những quy tắc hành động, như Kant,
Hegel và Marx đòi hỏi. Trong trào lưu của thế kỉ 19, “lịch sử về tự do” trở nên
đối tượng của sự quan sát có tính cách lịch sử thế giới hay trở thành tài liệu
dữ kiện thường nghiệm để tham chiếu. Leopold von Ranke (1795-1886), Jacob
Burckhardt (1818-1897), Wilhelm Dilthey (1833-1911) và Max Weber (1864-1920)tìm
cách lý hội và phân loại đối tượng này theo phương pháp khác với phương pháp
khoa học tự nhiên và độc lập ít nhiều với các hệ giá trị. Do đấy, từ thế kỉ thứ
19, triết học và các khoa học liên hệ với lịch sử xem chức vụ của chúng không
còn nằm trong lãnh vực chẩn đoán và tiên đoán lịch sử tự do chưa được hoàn tất
mà nằm trong sự triển khai các phương pháp và các hệ thống phạm trù nhằm hợp lý
hóa sự sắp đặt lý thuyết về các tài liệu lịch sử lộn xộn và vô nghĩa.
Trong những tương quan
khác trên lãnh vực triết học, lịch sử cũng không còn được xem là lịch sử của tự
do chưa viết xong theo nghĩa của thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 nữa. Feuerbach,
Nietzsche, Heidegger, Löwith quan niệm rằng truyền thống Platon và thiên chúa
của Âu châu là sự hiểu lầm thể tính nguyên ủy của sự tự tri và nhận thức thế
giới. Oswald Spengler (1880-1936) thâu tóm phần nhiều những nền văn hóa quá khứ
và sinh động trong những nhóm văn hóa không tách biệt về không gian và thời
gian, không có những viễn tượng và ý niệm mục đích. Levy Brühl, Durkheim tìm
cách phá vỡ sơ đồ lịch sử phổ quát trong ý nghĩa nhân chủng học và xã hội học,
và chấp nhận sự khác biệt về phẩm chất giữa xã hội, định chế và hình thức tư
tưởng sơ khai và tân tiến. Spencer, Huxley, Darwin, Rensch giải thích lịch sử
trong ý niệm tiến hóa sinh lý hay duy vật biện chứng có tính gần với hữu thể
học, không đi từ những tiền đề xã hội lịch sử đã có sẵn mà đi từ những quy luật
phát triển ấn định lịch sử thiên nhiên và lịch sử con người. Khái niệm con
người được giải thích theo quan điểm nhân chủng học và nhân chủng văn hóa học
như là một thực thể có gốc rễ trong thiên nhiên và hội nhập trong những thế
giới thường nhật và trong đời sống tự nhiên. Lịch sử được giải thích theo
Hans-Georg Gadamer (1900-2002) và Joachim Ritter (1903-1974) như là lịch sử về
các khái niệm, về nguồn gốc, về ảnh hưởng nhằm bổ khuyết và sửa đổi những tiến
trình trở thành vô lịch sử của các bộ môn khoa học và của chính xã hội.
Từ những quan điểm này
của thế kỉ 19 có ba điểm cần xét lại về lịch sử tự do chưa hoàn tất:
3.4.2. Xét lại khai sáng
trong tiến trình lịch sử tự do chưa hoàn tất
Kiến thức về một số các
hệ thống xã hội - lịch sử học cho thấy không thể có được sự thai nghén
(Konzeption) về một lịch sử tự do phổ quát một chiều - một kiểu khái niệm hóa,
khởi từ lịch sử Âu châu và hướng về Âu châu, muốn sắp xếp các hệ thống văn hóa
trước Âu châu và ngoài Âu châu trong tiến độ trước sau theo thời gian. Một phác
thảo hệ thống có tính lịch sử phổ quát về lịch sử tự do bao gồm những tương
thuộc (Interdependenzen) giữa các hệ thống văn hoá, chính trị, xã hội kinh tế
khác nhau trên bình diện quốc gia cũng như tiến độ phát triển của những hình
thức đối kháng đang tồn tại vẫn còn khập khiểng và không thể cho chúng ta một
cái nhìn bao quát, khám phá được “nhịp tiến bộ có quy củ của sự cải thiện hiến
pháp quốc gia trong lý tưỏng cứu rỗi nhân loại (mà có lẽ chính bước đi này rồi
đây sẽ ban bốquy luật cho tất cả những điều khác,” như Kant viết[31]). Người ta không thể giải thích lịch sử Phi châu và Á châu đều là
lịch sử không có tính lịch sử, như Hegel, đi từ những tiền đề của một lịch sử
hoàn cầu tập trung theo hướng Âu châu. Người ta cũng không thể, như Marx, giải
thích các xã hội Á châu và cách thức sản xuất của chúng đứng yên không có lịch
sử.
Lịch sử là một tiến
trình nhiều tầng lớp trên phương diện tự do và nhân bản với những tiến bộ và
phản tiến bộ.
Nhận định về những yếu
tố và nguyên do quyết định hành động của mỗi người và xã hội không thể hoàn
toàn duy lý hóa. Điều này cho thấy lối giải thích hay tái lập lịch sử của tự do
theo nguyên nhân và hậu quả đơn nhất từ những hiện tượng và khuynh hướng riêng
lẻ về kinh tế và tâm lý, xã hội và chính trị, không thể đứng vững được. Việc
khám phá ra những yếu tố và nguyên do rất phức tạp có thể giúp hiểu thấu rõ hơn
những điều kiện cho những hoạnh định lịch sử ngắn hay dài hạn.
Với những phê bình phong
trào khai sáng trí tuệ của thế kỉ 18, Kant, Hegel và Marx, trong cùng chủ
trương khai sáng tiến bộ có tính phê phán, đã cho chúng ta thấy những mục tiêu
phổ quát cho hành động được diễn dịch tiên thiên từ lý trí chung cho con người
chỉ là trừu tượng đối với hành động của mỗi người, mỗi nhóm hay những dân tộc
khác nhau. Từ thế kỉ 19, càng ngày càng thấy rõ hơn những mục tiêu hành động
phổ quát được quy nạp hậu thiên từ một hiện tượng lịch sử duy nhất cũng chỉ là
trừu tượng đối với hành động cụ thể của từng người, từng nhóm và từng dân tộc.
Từ thế kỉ thứ 19, ý thức
lịch sử đã có khoảng cách đủ cho thấy rõ hơn rằng, đối với khai sáng, không thể
có một nền văn hóa quá khứ và hiện tại nào trong đó tự do có thể được thực hiện
một cách toàn diện và chặt chẽ cho mỗi người và mỗi xã hội trong hiện tại và
tương lai. Qua sự quan sát lý tưởng hóa thời cổ đại, thời trung cổ và ngay cả
chính thời hiện đại, cũng không có một sợi chỉ nam (Leitfaden) nào cho lịch sử
về tự do. Không phải tất cả mọi thời đại và văn hóa đã tàn phai trong lịch sử
đều có ý nghĩa ngang nhau trong viêc đóng góp cho lịch sử tự do, và không phải
tất cả những gì trong hiện tại đang ngự trị và được công nhận đều có giá trị
phải giữ lại. Những nền văn hóa sống ngày hôm nay không đem lại một điều gì cho
ta nhận thức chắc chắn rằng chúng có thể bảo đảm cho tự do và sự thực hiện tự
do trên các bình diện cá nhân, xã hội và chính trị trong hiện tại và trong
tương lai.
Trong các xã hội công
nghiệp tây cũng như đông, ngày hôm nay cũng như trong những thập niên sắp
đến, “khai sáng” đang bị đe dọa bởi các cuộc tấn công từ nhiều mặt trong
cuộc sống cá nhân, trong xã hội, cũng như trong các khoa học và các lý thuyết
khoa học, nhằm chống lại con người như chủ thể và chống lại lịch sử như là lịch
sử tự do. Trong những điều kiện lịch sử hiện đại, khai sáng phải phản tỉnh một
cách phê phán những khuynh hướng nói trên.
3.4.3. Giai đoạn hậu
lịch sử và các lý thuyết phê bình (kritische Theorien)
Max Weber đã nhìn thấy
khả thể “vén màn ảo thuật thế giới”[32] càng ngày càng
tiến xa với “phương tiện công nghệ và sự tính toán.”[33]
Công nghệ hành chánh bàn giấy càng ngày càng phát triển. Chế độ tư bản thắng
thế mà không có “nội dung tín ngưỡng tôn giáo” và không có người thừa kế “khai
sáng”, rốt cùng sẽ tạo nên một “lớp vỏ cứng bằng thép”, trong đó “những người
cuối cùng” của sự phát triển văn hóa Âu châu sẽ sống như “Những người chuyên
môn không có tinh thần (Geist), những người hưởng thụ không có trái tim: loại
hư vô này lại tạo cho mình ảo tưởng đã bước lên bực cấp “nhân tính” mà thời trước
chưa ai đạt đến cả.”[34]
Ðối với Lý
thuyết phê bình (Kritische Theorie),[35] và
đối với Arnold Gehlen[36] trong “Hậu lịch sử”, sự
chấm dứt vai trò con người như là chủ thể và sự chấm dứt lịch sử như là lịch sử
của tự do hình như đã trở nên sự thật trong xã hội hoàn toàn bị quản trị.
Gehlen đi từ quan điểm về sự cáo chung của khai sáng Âu châu cùng với lý thuyết
mà Gehlen gọi là “nhân bản luận” (Humanitarismus). Gehlen thiết lập một lý
thuyết định chế (Intitutionenlehre) phản khai sáng. Trong lý thuyết này Gehlen
cho rằng những chủ thể trong nhân bản luận (Humanitarismus) của Khai sáng Âu
châu đang tự hủy hoại, đang bị các định chế (Instutitionen) vượt qua và đang bị
những môi trường tập thể và khuynh hướng tiêu thụ tập thể khuynh loát. Ðể
bảo vệ sự sống còn, những chủ thể này phải để cho những định chế sử dụng và
tiêu thụ “từ da đến tóc”. Gehlen cho rằng tính nhân bản đã đạt đến mức cuối
cùng trong “Hậu lịch sử” và xã hội đang ở trong một trạng thái vững chắc mà ông
gọi là sự “kết tinh văn hóa” (kulturelle Kristalisation), “một trạng thái trong
đó tất cả những khả thể trên cơ bản đã được triển khai toàn diện.” [37] Chính những định chế đã được kết tinh hoàn
toàn… là “những trật tự, đồng thời cũng là vận ách lớn lao vừa bảo tồn vừa hủy
diệt, lại tồn tại vượt qua mọi người và con người tự đưa mình vào trong đó với
đôi mắt mở lớn.” [38]
Trong những năm 30,
40, lý thuyết phê phán đi từ nhận định: con người cá thể hoàn
toàn “bị triệu tiêu bởi những thế lực kinh tế” và “công luận đã đạt đến tình
trạng, trong đó tư tưởng trở thành hàng hóa và ngôn ngữ trở thành phương tiện
ca ngợi cho nó ”[39]. Ðồng thời, trước hiểm họa
Hiroshima và Ausschwitz, Horkheimer và Adorno đã đảo ngược lý giải về “tiến
bộ”, tiến bộ trở nên một tiến trình suy vong, triệt thoái[40] trong
chiều hướng của lý thuyết chung quả sử luận tiêu cực[41] (negative
Geschichtsteleologie).[42]
Trước những căng thẳng
và xung đột lịch sử không giải đáp được trong nội tình những hệ thống và các
định chế khác nhau, cũng như giữa chúng với nhau, những lý thuyết nói trên về
tình trạng xã hội công nghiệp càng ngày càng trở nên vô lịch sử hình như vẫn còn
quá sơ lược. Sự phân hóa giữa xã hội công nghiệp và công nghệ mà công nghiệp sử
dụng càng ngày càng rõ nét.. Những xã hội công nghiệp trở nên không đồng nhất
với những hệ thống và khuynh hướng của những công nghệ tự nhiên cũng như những
công nghệ xã hội (Sozialtechnik) đang phát triển một cách vô định hướng. Chúng
do con người tác tạo nên, những người lao động trong cái gọi là tiến trình sản
xuất, nhưng chúng cũng được tạo ra bởi những phần tử không đứng trong tiến
trình ấy như: những người tật bệnh, trẻ con và người lớn tuổi. Xã hội ấy còn
bao gồm những dân tộc thiểu số khác màu da, khác tôn giáo, bị đàn áp bởi những
kẻ thống trị, bao gồm những người đang sống và hành động trong liên đới với
những người bị đàn áp, bao gồm những người hoàn toàn thụ động hay bất lực, tạo
thành một lực lượng có chiều hướng tiêu cực so với nhóm ngưòi sản xuất (theo
chủ trương tích cực) nhưng không thể bỏ qua.
Từ những hiện tượng ấy,
những hệ thống giá trị cũng như hệ thống hành động có tính văn hóa xã hội được
đem đến qua sự công nghiệp hóa, công nghệ hóa và đô thị hóa một cách chưa từng
thấy trong lịch sử ngày hôm nay đều rơi vào nghi vấn. Ðối với sự phát triển của
xã hội công nghiệp trong hiện tại và tương lai, sự duy lý hóa hình như đang
tiến những bước không thể tránh được. Không những nó sẽ dẹp bỏ những điều kiêng
kỵ (Tabus) huyền bí và ý thức cổ đại mà còn biến đổi rốt ráo tất cả những nghệ
thuật và văn hóa, tôn giáo và triết học truyền thống đã có một ý nghĩa quan
trọng tại Âu châu trong nhận thức về bản lai con người và lịch sử, cũng như
trong sự xây dựng đồng nhất tính của con người Âu châu.
Trong các ngành khoa học
và các lý thuyết khoa học ngày nay, sự tấn công - tương tự như những khuynh
hướng nói trên – vào con người như là chủ thể, và vào lịch sử như là lịch sử tự
do, đã được những lý thuyết gia theo lý thuyết cơ cấu thực hiện rốt ráo nhất.
Dựa vào Rousseau, Marx, Freud và Saussure, Levi-Strauss khảo vấn nguyên do sự
khác biệt giữa xã hội lạnh và nóng. Từ đó ông truy tầm những cơ cấu phổ quát,
tiền ý thức và tiền lịch sử và đưa ra khả năng “tái hội nhập văn hóa vào trong
thiên nhiên, và tái hội nhập đời sống vào trong toàn thể những điều kiện vật lý
–hóa học của nó.”[43]
Ðối với Louis Althusser
(1918-1990), chủ thuyết cơ cấu thuộc về các ngành khoa học, từ Marx, Darwin,
Nietzsche và Freud, đã nhận ra rằng “cái tôi” không thể là “ông chủ trong nhà
nó” nữa, và ngược lại với quan niệm của khai sáng, cái tự ngã “Ego” kinh tế,
chính trị và triết lý không phải là trung tâm của lịch sử. Theo Michel Foucault
chủ thuyết cơ cấu theo đuổi mục đích làm thừa thãi ý niệm con người đồng thời
với ý niệm lịch sử trong nghiên cứu và tư duy.
Trước những khuynh hướng
ấy, khai sáng có thể chỉ đóng góp để tiếp tục công trình xây dựng lịch sử tự do
nếu nó suy tư và phản tỉnh một cách phê bình toàn bộ vấn đề chưa được giải đáp
giữa con người và lịch sử trong xã hội ngày nay trong các khoa học hiện đại và
các lý thuyết khoa học. Những phản tỉnh như thế phải được thực hành trong nhiều
ngành khoa học khác nhau. Sau hai thế chiến, vấn đề lịch sử chỉ được khảo sát
trong các môn khoa học nhân văn có truyền thống liên hệ đến lịch sử và trong
khoa nhân loại học (Humanwissenschaften) trên bình diện nghiên cứu sử tính tổng
quan hay lịch sử về nguồn gốc, hậu quả và lịch sử các ý niệm. Sự sử dụng những
phương pháp tri thức theo phân tích thường nghiệm, ngôn ngữ học, cơ cấu học, lý
thuyết tự điều khiển (Kybernetik) và lý thuyết hệ thống hiện nay cho thấy rõ là
khai sáng không thể giải thích toàn bộ vấn đề con người và lịch sử theo lối
nhìn cũ.
Khai sáng ở đây phải chỉ
ra được yếu tố nào của lịch sử ngày hôm nay có thể đóng góp vào tri thức và
giải đáp những vấn đề hiện đại. Trong tất cả những khoa học được chuyên môn hóa trên lãnh vực công nghệ, trong các ngành kinh tế
và hành chánh, trong tư pháp, trong chính trị dựa vào kế hoạch và điều khiển
những hệ thống và những tiến trình cô lập, khai sáng phải chỉ rõ được những
phản tỉnh suy tư không thể tránh né về mục đích và ưu tiên của toàn thể xã hội
trước sức mạnh của công nghệ và võ khí càng ngày càng bành trướng
không thể kiểm soát và sự tàn phá của chúng đối với môi trường và hòa bình.
Trong xã hội công
nghiệp, Khai sáng và sự tiếp tục xây dựng lịch sử tự do không có nghĩa là sự
thăng hoa (Emanzipation) từ lịch sử mà còn là sự nhắc lại một cách phê phán
những truyền thống tự do, điều này có thể thấy ở lý thuyết phê bình của Max
Horkheimer (1895-1972), Theodor Adorno (1903-1969), Herbert Marcuse (1898-1979)
và của Jurgen Habermas cũng như ở chủ thuyết suy lý phê phán của Karl Popper và
Hans Albert. Sau những kinh nghiệm của chủ nghĩa Stalin và Mác-xít bị
biến dạng thành ý thức hệ chính danh, và sau sự tan rã của những truyền thống
tự do công dân, triết gia Ba Lan Leszek Kolakowski[44] nhận thấy cần nhấn mạnh tương quan xây dựng giữa
truyền thống và lịch sử tự do.
Nếu con người, theo sự
tin tưởng riêng của nó, muốn định nghĩa mình khác với Stirner[45] căn
cứ vào lợi ích riêng tư ích kỉ của nó, mà căn cứ theo ý nghĩa nhân bản, muốn
tìm cách giải quyết những mâu thuẫn cá nhân, xã hội, chính trị, muốn cải cách
và ngăn chận những đe dọa tự diệt chủng, thì con người cần có một kho phương
tiện, kho phương tiện này không lấy từ dự trữ bản năng sinh lý của loài người
và tri thức thông tin cũng như những tính toán duy lý, mà kho dự trữ này đơn
giản là cơ sở truyền thống. Khái niệm truyền thống ở đây bao gồm tất cả các dữ
kiện lịch sử từ thời cổ đại, trong đó lịch sử khai sáng từ thế kỉ thứ 18 được
khảo sát lại như là một tài liệu nổi bật về thành tựu của trí tuệ con người
trong tiến trình thực hiện tự do.
Cũng thế, đối với những
lý thuyết gia điều khiển học (Kybernetiker, cyberneticist) và những nhà lý
thuyết hệ thống, sự quay lại lịch sử thuộc về khai sáng đều mang tính xã hội
học. Ðối với họ, sự trở lui này không phải vì quyến luyến truyền thống hay là
vì sự liên hệ đặc biệt với quá khứ, mà chính là để làm sáng tỏ và tìm lời giải
cho những vấn đề hiện tại và tương lai. Ðối với Karl Deutsch (1912-1992), khả
năng về một “liên hệ mới với những mục đích mới hay với những mục đích đến bây
giờ được hiểu là mới” là “điều kiện, mà tất cả những hệ thống tự chủ phải hoàn
thành để có thể sống còn”.[46] Do đấy việc bỏ quên
“những kiến thức cá nhân và xã hội của hàng nghìn năm trong các truyền thống
triết học và tôn giáo là một việc không chấp nhận được. Thời điểm sẽ đến, ở đó,
những nhà xã hội học không còn gây phản ứng hiểu lầmcho rằng họ là những người
nghịch lại khai sáng hay phản khoa học, nếu họ viện dẫn lại những yếu tố của
truyền thống.”
Ngược lại với thái độ
chống lịch sử của khai sáng, của lý trí, Niklas Luhmann[47] (1927-1998)
cho rằng cần phải làm sáng tỏ tương quan giữa tính duy lý và lịch sử, rất khẩn
thiết cho sự tự khai sáng của môn xã hội học. Lịch sử, đối với Luhmann, không
phải là lãnh vực của nghiên cứu các dữ kiện khách quan, cũng không phải là môi
trường định hướng cho lý thuyết chú giải (Hermeneutik). Theo Luhmann, lịch sử
tự nó cho thấy rõ vấn đề và cơ cấu bao hàm trong chính nó, từ đó lịch sử có ý
nghĩa giảm thiểu tính phức tạp đa dạng của thực thể xã hội. Ðối với Luhmann,
việc lấy lại những yếu tố truyền thống là thiết yếu, bởi vì “khả năng” (Potential)
của hành động đơn thuần quá ít so với tính đa dạng phức tạp, và hành động do
đấy không thể thiếu được những yếu tố lắng đọng mang ý nghĩa của quá khứ.”[48]
Những định nghĩa mới về
khái niệm khai sáng trong lý thuyết hậu lịch sử (Posthistoire), hậu tân tiến cũng như trong giai đoạn
“đệ nhị tân tiến (Zweite Moderne)[49] cho thấy rõ
khuynh hướng khởi từ nhận định rằng, trong các xã hội công nghiệp, sự giải
thích và lời đáp cho những vấn đề cơ bản của con người và xã hội cần đến
sự “nhớ lại,”[50] hay hoài niệm nhắc nhở có
tính phê phán những truyền thống tự do nhất định nào đó, như một cách “ôn cố
tri tân” của Khổng Tử.
3. 5. Tạm kết
Ðã và đang có những xã
hội, trong đó con người không được xem là chủ thể tự do và tự chủ, và lịch sử
không được xem là lịch sử tự do chưa hoàn tất. Tuy nhiên, ở đâu con người và
lịch sử của nó không tự tri thức qua tiến trình khai sáng, ở đó có sự cáo chung
của tư tưởng khai sáng, và có ước muốn trở về với những tư tưởng tiền khai sáng
và định chế tiền khai sáng; điều này sẽ có những hậu quả định mệnh cho mỗi
người và cho xã hội.
Trong điều kiện tư duy
hiện tại và tương lai, khái niệm chủ thể và tự do có và sẽ có ý nghĩa gì, điều
này chắc chắn đối với mỗi người và đối với các đoàn thể xã hội, chính trị, đều
không đồng nhất trong mỗi tương quan lịch sử, xã hội, văn hoá, chính trị, tôn
giáo, kinh tế, công nghệ… Tuy nhiên, kinh nghiệm từ trước đến nay cho thấy rằng nếu vất bỏ
con người với tư cách chủ thể, và lịch sử như là lịch sử tự do, thì những vấn
đề hiện tại sẽ không được giải quyết mà còn trở nên gay gắt hơn trước.
“Xấu hay tốt, chúng ta
là những kẻ thừa kế khai sáng và tiến bộ công nghệ. Chống lại khai sáng và tiến
bộ, bằng sự thoái bộ (regression) trở về những cấp bậc thô sơ, không làm giảm
khủng hoảng thường trực do chính sản phẩm của khai sáng gây nên. Ngược lại,
những con đường thoát như thế có thể đưa chúng ta từ những hình thức lịch sử hợp
lý đến những hình thức thống trị có tính xã hội man rợ nhất.”[51]
Nhận định của Horkheimer
về “Khai sáng và tiến bộ” cho thấy thái độ tiêu biểu của trí thức tây phương:
“Khai sáng và tiến bộ” là một di sản không thể vất bỏ từ chối vì hầu như trong
lịch sử tư tưởng tây phương, không có gì ngời sáng ý nghĩa nhân bản hơn khai
sáng và tiến bộ. Từ chủ nghĩa lạc quan đến tinh thần phê phán, thái độ khước
từ, phản kháng, bi quan hiện thực, hay theo thuật ngữ của triết sử: từ khai
sáng của thời tân tiến (Moderne) thế kỉ 18, đến triết học lịch sử về khai sáng
(Kant, Hegel, Marx…), đến phê phán lịch sử khai sáng của thế kỉ 19, 20, đến
giai đoạn duy lịch sử, hậu tân tiến và hậu lịch sử, tiến trình lịch sử khai
sáng đang vẽ một đường cong từ “tân tiến cổ điển” (alte Moderne) đến “tân tiến
thứ hai” (Zweite Moderne). U. Beck cho rằng “tân tiến thứ hai” là “sự tự phản
tỉnh của tân tiến”, trong đó “tân tiến” với “nội dung tổng quát” – như toàn thể
truyền thống khai sáng cổ điển – đang trên đường trở về và đạt được
viên mãn từ hình thái xã hội công nghiệp – lao động tiến đến xã hội
thông tin – tri thức (Informations- und Wissengesellschaft).[52]
Trên phương diện triết
học, có thể nói điểm nổi bật trên con “đường cong” gian nan của lịch sử khai
sáng vẫn là yêu sách – nền tảng cho triết học muôn thuở (philosophie perennis)
phương tây – “Sapere aude!” (Hãy mạnh dạn sử dụng trí tuệ!) mà Kant đã đề ra.
Khám phá, bảo vệ hay giải thể, phá hủy, tranh luận về khai sáng không thể thiếu
ánh sáng của trí tuệ làm ngọn đuốc soi đường như các lý thuyết nêu ra ở trên đã
chứng thực. Thách đố cấp bách hiện nay cho trí tuệ con người là liệu nó có thể
giải quyết những vấn đề mà chính đứa con tuyệt hảo của nó - văn minh tiến bộ
công nghệ – đang đặt ra cho loài người, ngoài những ưu thế mà trí tuệ đã thâu
lượm được từ sản phẩm của chính nó dùng để thỏa mãn ước vọng của con người?
Tương quan giữa “Khai
sáng và tiến bộ công nghệ” và “dự án Khai sáng” do đó, sẽ là đề tài cho phần
thứ hai của bài viết.
Thái Kim Lan
11/2004
Chú thích
[1] Stoiker (Stoic): những người theo chủ
nghĩa “Stoa” (chủ nghĩa khắc kỉ) (stoicism): trường phái triết lý do Zeno von
Kition sáng lập khoảng 300 năm trước kỉ nguyên. Phương châm tối cao của trường
phái này nằm trong nỗ lực sống hòa điệu giữa chính bản thân con người với thiên
nhiên và chiến thắng mọi ham muốn và xúc cảm trở ngại giác
ngộ.
[2] J. Hirschberger, Geschichte der
Philosophie, Bd. 2, tr. 246.
[3] W. Oelmüller, Die
unbefriedigte Aufklärung (Trào lưu khai sáng chưa thỏa đáng), Frankfurt/M
1969
[4] M. Horkheimer/Th. W. Adorno, Zur Kritik
der instrumentalen Vernunft (Về phê bình lý trí công cụ), hrsg von A. Schmidt,
Frankfurt/M, 1967, S. 32 -33, và Dialektik der Aufklärung (Biện chứng khai
sáng), Amsterdam 1947.
[5] Trong khi viết bài này được biết anh
Nguyễn Ngọc Giao đang bắt đầu dự án nghiên cứu “Từ phong trào Việt kiều chống
chiến tranh Mỹ đến vị trí còn để mở trong cộng đồng diaspora”
[6]George Soros: “Sự toàn thắng của chủ nghĩa tư
bản trên toàn thế giới không có nghĩa là sự ca khúc khải hoàn của nền dân chủ
trên toàn thế giới!” Ngược lại với Francis Fukuyama: Sự bảo đảm cho tiến
bộ theo Fukuyama nằm trong các khoa học tự nhiên tân tiến. Khoa học này tự phát
triển trong hình thức của một tiến trình hướng đến mục đích, từ đó tri thức và
khả năng công nghệ đưọc thâu lươm nhiều hơn, và chủ nghĩa tư bản cũng như dân
chủ tự do đi theo sau: “Sự phát triển dần dần của khoa học tự nhiên một khi
khoa học này vận hành, cho thấy một cơ cấu máy móc có chủ đích theo đúng với
điều mà chúng ta tìm cách đưa ra một giải thích cho sự phát triển lịch sử”.
Theo Fukuyama, từ sự phát triển của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa tư bản được
hình thành một cách bắt buộc, và từ chủ nghĩa tư bản này nền dân chủ tự do sẽ
tự động đi theo sau. Fukuyama đặt câu hỏi: Cuối thế kỉ 20 còn có ý nghĩa đề nói
về sự diễn biến liên hệ (kohärent) và có mục đích của lịch sử con người
không?” Câu hỏi này đã được ông trả lời tích cực trong “Ý tưởng về một
lịch sử phổ quát,” mặc dù ông chỉ tìm một mẫu cho sư phát triển tổng quát của
các xã hội khác nhau.
[7]I. Kant, “Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?”
[8] Dựa vào tài liệu của J. Herschberger,
Geschichte der Philosophie, Lịch sử triết học, Komet, tr. 245-265
[9] J. Locke, An Essay concerning Human
Understanding (1690); 8 Essays on the Law of Nature (ca. 1660), Two Treatises
of Government (1690), Letters concerning Toleration (1689)
[10] Tất cả những thành tựu của Khai sáng đã
đáp ứng lý thuyết trung tâm nhân chủng này (Antropozentrik): sự phát triển
triết học toàn diện từ con người với Kant và chủ thuyết duy tâm Ðức, tiến trình
tâm lý hóa về giáo dục, về đức lý, về luật pháp và tôn giáo, chủ trương duy trí
thức (Intellektualismus) và lòng tin vào tiến bộ đã trở nên dấu ấn của thế kỉ
thứ 19. Xem thêm: J. Hirschberger, Geschichte der Philosophie, Band II, Neuzeit
und Gegenwart, Komet, tr.245ff.
[11] Ta liên tưởng đến quan điểm của đạo
Phật trong Tứ Diệu đế, chính ý niệm KHỔ thúc đẩy con người tìm cách thoát khổ,
quá trình giài phóng khổ đau hay thoát mọi trói buộc có thể nói là quá trình
thực hiện tự do trong cõi luân hồi.
[12] I. Kant, toàn tập Akademie-Ausgabe,
quyển 8, tr. 19
[13] I. Kant, đã dẫn, q. 19, tr. 477
[14] I. Kant, đã dẫn, q. 8, tr. 179
[15] I. Kant, “Trả lời câu hỏi: Khai
sáng là gì?”
[16] I. Kant, đã dẫn, q. 7, tr. 88
[17] I. Kant, đã dẫn, q. 8, tr. 117
[18] I. Kant, đã dẫn, q. 5, tr. 121
[19] G. W. F. Hegel, toàn tập
Theorie-Werkausgabe), q. 7, tr.. 386, sẽ viết tắt “Hegel”
[20] Hegel, đã dẫn, q. 7, tr. 406
[21] Hegel, q.13, tr. 197 – 198.
[23] Hegel, q. 7, tr. 26, hay Werke in 20
Bänden, Frankfurt a. M- 1970, Grundlinien der Philosophie des Rechts và
Vorlesungen über die Philosophie der Geschichte, q. 12
[24] Hegel. q. 7, tr. 25
[25] Hegel, q. 12, tr. 32
[26] K. Marx, Die Frühschriften, hrsg v. S.
Landhut, Stuttgart 1953, tr. 346
[27] K. Marx, Werke – Schriften- Briefe q.
1, tr. 449-450
[28] K. Marx, Frühschriften, tr. 355.
Thái độ từ chối những
câu hỏi siêu hình bắt đầu từ Kant. Ta nghĩ đến khởi điểm “chánh kiến” của triết
học Phật giáo nằm trong thái độ “không trả lời” các vấn đề siêu hình cản trở
bước đi giải phóng của con người.
[29] K. Marx, Werke – Schriften – Briefe q.,
q. 3, I, tr. 274
[30] G. Büchner, Werke und Briefe,
Stuttgart-Wien-St. Gallen o. J. tr. 220. Xin xem Danton´s Tod. (cái chết của
Danton).
[31] Kant, q. 8, tr. 29
[32] Max Weber, Soziologie, Wissenschaft als
Beruf (1917, 1919) và Weltgeschichtliche Analysen, Politik, hrsg: J.
Winckenmann, Stuttgart 1956, tr. 317
[33] M. Weber, Gesammelte Aufsätze zur
Wissenschaftslehre, tr. 594
[34] Max Weber, Soziologie,
Weltgeschichtliche Analysen, Politik, hrsg: J. Winckenmann, Stuttgart 1956, tr.
379f.
[35] đại diện là M. Horkheimer, Th. Adorno,
H. Marcuse
[36] Arnold Gehlen, “Ende der Geschichte?
Zur Lage des Menschen im Posthistorie” (Cáo chung lịch sử? Về vị thế con người
trong Hậu lịch sử), trong tuyển tập do Oskar Schatz (hrsg) chủ biên, “Was wird
aus dem Menschen?” (“Con người sẽ ra sao?” Graz, Wien, Köln 1974, 61ff
[37] A. Gehlen, “Ende der
Geschichte?” (Cáo chung lịch sử) đã dẫn, tr. 64f
[38] Zur Theorie der Institution (Về lý
thuyết định chế), hrsg. V. H. Schelsky, Düsseldorf 1970, tr. 73-74
[39] M. Horkheimer, đã dẫn, tr. 5
[40] M. Horkheimer, Th. Adorno, Dialektik
der Aufklärung, (Biện chứng khai sáng)
[41] Khái niệm “chung quả luận tiêu cực” được
sử dụng tương phản với khái niệm “chung quả luận” nằm tiềm ẩn trong quan điểm
triết sử của thời khai sáng mà lý thuyết phê bình của Horkheimer nhằm chỉ
trích. Triết học lịch sử khởi đầu với thời kỳ khai sáng cho đến Marx, trong đó
khai sáng bao hàm khái niệm về sự phát triển có chiều hướng tiến bộ nhằm đạt
được mục đích mà nhân loại vươn đến, mệnh danh là “Teleologie”, chung quả luận,
trong tiến trình nhân quả đường thẳng và có tính phổ quát, như Turgot chủ
trương. Và Rohbeck nhận xét: “Khai sáng có yêu sách về một chung quả luận rụt
rè”, xem J. Rohbeck, Gechichtsphilosophie und Kulturkritik, (Triết học lịch sử
và phê bình văn hóa), tr. 309, 2003
[42] “Teleologie”: lý
thuyết cho rằng mỗi phát triển tiến hóa trong vũ trụ hay trong các lãnh vực
riêng biệt đều nhằm đến một mục đích tối hậu, chủ trương chung quả của mỗi tiến
trình tiến hóa.
[43] Levy Strauss, Das Wilde Denken (Tư duy
hoang dã) H. Naumann dịch Ðức ngữ, Frankfurt/M, 1968, tr. 284
[44] L. Kolakowski, Vom Sinn der Tradition
(Về ý nghĩa của truyền thống), trong Merkur 23 (1969), tr. 1086
[45] M. Stirner 1806-1856, dựa vào Hegel và
Feuerbach, Stirner triển khai hệ thống duy ngã chủ nghĩa cực đoan (Solipsismus)
[46] K. W. Deutsch, Politische Kybernetik
(Lý thuyết tự điều chính trị), E. Häcker dịch, Freiburg i. Br. 1969, tr. 313
[47] N. Luhmann, Soziologische Aufklärung
(Khai sáng trên lãnh vực xã hội học) Köln-Opladen 1970, tr. 85
[48] Luhmann, đã dẫn, tr. 84
[49] Ulrich Beck cho rằng trong
giai đoạn hiện tại của lịch sử nhân loại, chúng ta đang sống trong giai đoạn
chuyển tiếp từ „tân tiến cổ điển“ – có nghĩa là giai đoạn khai sáng thế ký 17,
18 – sang một thời đại tân tiến “khác” hay là giai đoạn “đệ nhị
tân tiến”, xem U. Beck, Risikogesellschaft. Auf dem Weg in eine andere Moderne
(“Xã hội mạo hiểm. Trên đường tiến đến một Tân tiến khác”), Frankfurt a.
M. 1986, tr. 15, 18 f, 178f.
[50] R. Frank Ankersmit: “Khái niệm “nhớ lại
(hoài niệm)” đề cập đến phương thức làm thế nào chúng ta với tư cách là những
cá nhân có thể khơi gợi lại được quá khứ cá nhân của chính mình, trong lúc theo
truyền thống khái niệm “lịch sử” được dành cho quá khứ tập thể của chúng ta.
Dành lại cho từ ngữ “nhớ lại” điều mà trước đây khái niệm lịch sử mang nội
dung, là một dấu hiệu chắc chắn cho sự “nhân cách hóa” (Personalisierung) hay
tư nhân hóa tương quan của chúng ta đối với quá khứ”, R. F. Ankersmit,
“Die postmoderne “Privatisierung” der Vergangenheit” (Sự tư nhân hóa quá
khứ của hậu tân tiến) trong “Der Sinn des Historischen.
Geschichtsphilosophische Debatten” (Ý nghĩa của tính chất lịch sử. Tranh luận
về triết sử), chủ biên H. Nagl-Docekal, Frankfurt a. m. 1996
[51] M. Horkheimer, Zur Kritik der
instrumentellen Vernunft (Về phê bình lý trí công cụ), tr. 123.
Nguồn:
http://www.tapchithoidai.org/